Chương 13 THÁNG TÁM NĂM 1979
Ephraim lo lắng. Gabriel vẫn ngoan cố nói rằng nó đã nhìn thấy Johannes cùng với cô gái bị mất tích. Ông không tin điều đó, nhưng đồng thời ông cũng biết con trai mình không bao giờ biết nói dối. Đối với Gabriel, sự thật và trật tự còn quan trọng hơn cả em trai mình, và đó là lý do tại sao Ephraim thấy khó mà bỏ qua được lời tuyên bố đó. Ông cứ nghĩ rằng có lẽ chỉ đơn giản là Gabriel đã nhầm. Ánh sáng nhập nhoạng có thể đã khiến đôi mắt lừa dối nó, hoặc là nó đã bị bóng tối lừa bịp, hoặc gì đó kiêu như thế. Ephraim cũng tự thấy như vậy nghe cường điệu thế nào. Nhưng ông cũng biết Johannes. Đứa con trai vô tư, vô trách nhiệm của ông đã chơi bời suốt cả đời. Liệu nó có thực sự có khả năng lấy mạng người khác không?
Tựa vào cây gậy, Ephraim đi dọc theo con đường từ trang trại đến Västergärden. Ông thực sự không cần gậy vì theo ông tự đánh giá thì tình trạng thể chất của ông vẫn tốt như hồi hai mươi tuổi. Nhưng ông nghĩ vậy thì trông phong cách hơn. Một cây gậy và một cái mũ khiến ông trông có vẻ như lãnh chúa, và ông đã thường xuyên sử dụng hình tượng đó.
Ephraim rất phiền lòng khi Gabriel đã khiến cho khoảng cách giữa họ ngày càng tồi tệ hơn. Ông biết Gabriel tin rằng ông thiên vị Johannes, thành thực mà nói, ông nghĩ đúng là như vậy. Chỉ có Johannes là dễ bảo. Sức quyến rũ và sự cỏi mở của nó đã khiến người ta muốn nuông chiều nó, khiến Ephraim cảm thấy mình giống như một ông giáo trưởng theo đúng nghĩa của từ này. Johannes là người mà ông có thể khiển trách gay gắt, người khiến ông cảm thấy mình được cần đến, dù chẳng để làm gì ngoài giữ chân đứa con trai trên mặt đất với tất cả đám đàn bà luôn chạy theo nó. Với Gabriel thì khác. Nó luôn tỏ ra khinh thường bố khiến Ephraim phản ứng lại bằng thái độ bề trên lạnh lùng. Ông biết rằng trong nhiều khía cạnh, đó là lỗi của ông. Trong khi Johannes hớn hở vui mừng mỗi lần Ephraim tổ chức một buổi tế lễ cần sự giúp sức của hai đứa con trai, Gabriel thu mình lại và càng cau có hơn. Ephraim nhận thấy điều này và hoàn toàn nhận lỗi về mình, nhưng xét cho cùng, ông làm chuyện đó là vì lợi ích của bọn trẻ. Sau khi Ragnhild chết, cả nhà đã phải phụ thuộc vào sức quyến rũ và tài ăn nói của ông để có cơm ăn áo mặc. Thật may mắn khi ông đã chứng tỏ được mình là một tài năng thiên bẩm và bà góa Dybling gàn dở cuối cùng đã để lại ông toàn bộ bất động sản và tiền bạc của bà ta. Gabriel lẽ ra nên chú trọng hơn vào kết quả cuối cùng, thay vì liên tục làm phiền ông với những lời trách móc về thời thơ ấu khủng khiếp của nó. Nếu Ephraim không có những ý tưởng tuyệt vời là sử dụng hai đứa con trai trong buổi tế lễ của mình, họ sẽ không có tất cả mọi thứ mà họ sở hữu ngày hôm nay. Không ai có thể cưỡng lại hai cậu bé tươi tắn đã được Chúa ban cho thiên bẩm chữa lành những người ốm đau tàn tật. Kết hợp với sức hấp dẫn và tài ăn nói của chính Ephraim, họ là những người bất khả chiến bại. Ông biết mình vẫn là Nhà Thuyết Giáo huyền thoại trong giới nhà thờ tự do, và điều đó khiến ông vui sướng vô cùng. Ông cũng rất thích khi được đặt cho biệt danh Nhà Thuyết Giáo, theo cách nói phổ thông.
Nhưng ông đã rất ngạc nhiên khi thấy Johannes đau khổ biết bao lúc hay tin rằng mình đã mất hết năng lực. Đối với Ephraim đó là một cách đơn giản để kết thúc sự lừa dối, và với Gabriel đó cũng là một sự nhẹ nhõm cực kỳ. Nhưng Johannes đã khóc. Ephraim luôn có ý định nói với hai đứa con trai rằng tất cả chỉ là một trò bịp bợm và những người chúng đã chữa lành thực ra đều hoàn toàn khỏe mạnh. Ông đã cho họ tiền để họ diễn trò. Nhưng năm tháng trôi qua, ông bắt đầu nghi ngờ. Đôi khi Johannes có vẻ rất mong manh. Đó là lý do tại sao Ephraim đã rất lo lắng về cảnh sát và việc họ thẩm vấn Johannes. Nó dễ bị tổn thương hơn vẻ bề ngoài, và Ephraim không biết chắc chuyện này sẽ ảnh hưởng đến nó ra sao. Đó là lý do tại sao ông quyết định đi bộ qua Västergärden và nói chuyện với con trai mình. Ông có cảm giác rằng mình sẽ xử lý được tình huống này.
Một nụ cười lướt qua đôi môi Ephraim. Jacob đã từ bệnh viện về nhà tuần trước và dành hàng giờ lên phòng ông nội. Ông yêu thằng bé. Ông đã cứu mạng Jacob, điều này sẽ mãi mãi gắn kết họ với một tình cảm đặc biệt. Mặt khác Ephraim không dễ đánh lừa như tất cả bọn họ vẫn tưởng. Có thể Gabriel tin Jacob là con trai mình, nhưng Ephraim đã nhìn thấy chuyện gì đang diễn ra. Jacob có lẽ là con trai của Johannes, ông có thể nhìn thấy điều đó trong mắt Johannes. Thôi, ông sẽ không tham gia chuyện này. Nhưng thằng bé là niềm tự hào và niềm vui tuổi già của ông. Tất nhiên ông cũng thích Robert và Stefan, nhưng chúng còn bé quá. Điều mà Ephraim thích nhất ở Jacob là nó có thể tỏ ra khôn khéo và nhiệt tình khi nghe ông nội kể chuyện. Jacob rất thích nghe những câu chuyện kể về hồi Gabriel và Johannes còn nhỏ và đi khắp nơi với ông bố thuyết giáo của họ. Những câu chuyện chữa lành, ông gọi chúng như vậy. Ông ơi, kể cho cháu nghe những câu chuyện chữa lành đi, lần nào lên tầng chào ông, Jacob cũng nói vậy. Ephraim chẳng có gì phản đối sự hồi tưởng lại thời xa xưa đó, bởi vì thời đó đã từng rất vui. Và cũng không hại gì cho thằng bé nếu ông tô vẽ những câu chuyện thêm một chút. Ông có thói quen kết luận những câu chuyện bằng một khoảng dừng đầy kịch tính rồi trỏ ngón tay xương xẩu vào ngực Jacob và nói, Ôi, Jacob ơi, cháu cũng có thiên bẩm ẩn bên trong. Ở đâu đó sâu bên trong nó đang chờ đợi để hiện ra. Thằng bé thường ngồi dưới chân ông với đôi mắt mở to và cái miệng há hốc. Ephraim thích thú nhìn vẻ say sưa của thằng bé.
Ông gõ cửa ngôi nhà. Không có trả lời. Tất cả đều yên tĩnh. Solveig và bọn con trai hình như không ở nhà. Ông thường có thể nghe thấy tiếng mấy đứa con trai cách xa vài cây số. Có tiếng động từ vựa cỏ, và ông đi qua đó để xem. Johannes đứng đó loay hoay với cái máy gặt liên hợp và không nhận thấy ông bố đã đi vào cho đến khi Ephraim đúng ngay phía sau. Hắn nhảy dựng lên.
“Nhiều việc quá nhỉ.”
“Vâng, ở trang trại thì lúc nào cũng có việc cho con bận rộn.”
“Bố nghe nói con lại vừa gặp cảnh sát,” Ephraim nói. Ông thường đi thẳng vào vấn đề.
“Vâng,” Johannes đáp.
“Giờ thì họ muốn biết gì nữa?”
“Tất nhiên là hỏi thêm về lời khai của Gabriel.” Johannes tiếp tục vận hành cái máy liên hợp và không nhìn Ephraim.
“Con phải biết rằng Gabriel không định làm hại con.”
“Con biết. Cái kiểu của anh ấy là thế. Nhưng kết quả thì cũng vậy cả thôi.”
“Phải lắm, phải lắm.” Ephraim đứng đu đưa, không chắc chắn làm sao để tiếp tục.
“Thật tuyệt vời khi lại thấy Jacob bé bỏng khỏe lại, phải không?” ông nói, tìm một chủ đề trung lập. Một nụ cười bừng nở trên mặt Johannes.
“Thật tuyệt. Cứ như là nó chưa bao giờ bị bệnh.” Hắn đứng thẳng lên và nhìn vào mắt bố mình. “Con sẽ mãi mãi biết ơn bố vì điều đó, bố ạ.”
Ephraim chỉ gật đầu và vuốt ria mép, cảm thấy hài lòng.
Johannes thận trọng nói tiếp, “Bố ạ, nếu bố không thể cứu Jacob… Bố có nghĩ rằng…” Hắn ngập ngừng, nhưng rồi vẫn tiếp tục bằng giọng chắc nịch như thể cố gắng vượt qua sự bối rối của mình. “Bố có nghĩ rằng con có thể tìm lại thiên bẩm của mình? Để có thể chữa bệnh cho Jacob, ý con là thế?”
Câu hỏi khiến Ephraim phải giật lùi vì kinh ngạc. Ông bàng hoàng khi nhận ra rằng ông đã tạo ra một ảo tưởng lớn hơn mình dự định. Sự hối hận và cảm giác tội lỗi đã nhen lên một tia giận dữ đầy thử thế, và ông đã mắng Johannes gay gắt.
“Làm sao mà con ngu thế hả? Bố tưởng rằng sớm muộn gì con cũng sẽ đủ lớn để nhận ra sự thật, nhưng thôi chắc bố nói toẹt vào mặt con cho xong. Không có gì là thật cả! Không ai trong số những người mà con và Gabriel ‘chữa lành’ ” – ông làm dấu nháy bằng mấy ngón tay – “đã thực sự bị bệnh cả. Họ được trả tiền! Bố trả tiền!” Ông hét lên những lời này, khiến nước bọt văng ra khỏi miệng. Một giây sau ông đã hối hận vì những gì ông vừa nói. Mặt Johannes tái nhợt. Hắn lắc lư qua lại như một kẻ say rượu, và trong một thoáng Ephraim tự hỏi không biết thằng con trai có tấn công mình hay không. Rồi Johannes thì thầm, khẽ đến mức ông khó mà nghe thấy được:
“Thế là con đã giết các cô gái kia chẳng vì điều gì cả.”
Tất cả những lo âu, tất cả những tội lỗi, tất cả những hối hận bùng nổ trong Ephraim và kéo ông vào một cái hố đen, ông không có sự lựa chọn nào khác để thoát khỏi nỗi đau của lời thú tội này. Nắm tay ông vung lên và dồn sức đấm vào cằm Johannes. Như trong một thước phim quay chậm, ông thấy Johannes ngã ngửa về phía sau, mắt vẫn bàng hoàng nhìn về phía cái máy liên hợp kim loại. Một tiếng uỵch trầm đục vang lên khắp vựa cỏ khi gáy Johannes đập xuống bề mặt rắn chắc. Ephraim khiếp sợ nhìn Johannes nằm bất động trên mặt đất. Ông quỳ xuống và cố gắng tuyệt vọng để tìm mạch đập. Không có gì cả. Ông áp tai vào miệng con trai mình, hy vọng được nghe thấy một tiếng thở yếu ớt. Vẫn không có gì. Dần dần ông nhận ra rằng Johannes đã chết. Bị chính tay ông bố đánh chết.
Phản ứng đầu tiên của ông là chạy đi kêu cứu. Rồi bản năng sinh tồn của ông đã bùng lên. Và nếu có bất cứ điều gì có thể nói về Ephraim, thì đó là ông là người sống sót. Nếu ông kêu cứu, ông sẽ buộc phải giải thích lý do tại sao ông đánh Johannes, và điều đó thì không bao giờ được để lộ ra dù với bất cứ giá nào. Các cô gái đã chết và Johannes cũng vậy. Theo Kinh Thánh, công lý đã được thực thi. Ephraim cũng không hề mong muốn phải dành những ngày cuối đời trong tù. Phải sống hết quãng đời còn lại với ý nghĩ rằng chính mình đã giết Johannes cũng đủ trừng phạt rồi. Ông dứt khoát bắt đầu việc che giấu tội ác của mình, ơn Chúa, ông có vài người quen có thể gọi điện tới được.
Jacob cảm thấy rằng mình đã làm lành được với cuộc đời. Các bác sĩ đã chẩn đoán hắn còn nhiều nhất là sáu tháng, và ít nhất hắn cũng có thể trải qua những tháng này trong yên ổn. Đương nhiên hắn nhớ Marita và bọn trẻ, nhưng họ chỉ được phép đến thăm một lần một tuần, và thời gian còn lại thì hắn dành để cầu nguyện. Hắn đã tha thứ cho Thiên Chúa vì đến lúc cuối lại bỏ rơi hắn. Ngay cả Jesus cũng đã đứng trong vườn Gethsemane và thét lên về phía thiên đường, hỏi Cha rằng tại sao Cha lại từ bỏ mình, chính cái đêm trước khi Thiên Chúa hy sinh đứa con trai duy nhất. Nếu Jesus có thể tha thứ, thì Jacob cũng có thể.
Hắn dành phần lớn thời gian ở trong khu vườn của bệnh viện. Hắn biết các tù nhân khác tránh né hắn. Họ đều chịu án gì đó, chủ yếu là tội giết người, nhưng vì một lý do nào đó, họ coi hắn là kẻ nguy hiểm nhất. Họ không hiểu. Hắn đâu có thích thú gì khi giết chết các cô gái. Hắn không làm điều đó vì mình. Hắn làm bởi vì đó là nhiệm vụ của hắn. Ephraim đã giải thích rằng hắn, cũng như Johannes, rất đặc biệt. Người Được Chọn. Nghĩa vụ của hắn là sử dụng di sản của mình và không cho phép mình bỏ phí nó vì một căn bệnh đã rất cố gắng để tiêu diệt hắn.
Và hắn sẽ không bỏ cuộc. Hắn không thể bỏ cuộc. Những tuần qua, hắn đã dần hiểu rằng hắn và Johannes đã chọn sai đường. Họ đã cố gắng tìm một phương pháp thiết thực để đòi lại thiên bẩm, nhưng có lẽ đó không phải là cách đúng đắn. Có lẽ họ nên đã bắt đầu bằng cách tìm kiếm từ bên trong. Những lời cầu nguyện và sự im lặng ở đây đã giúp hắn tập trung. Dần dần hắn đạt được những trạng thái thiền định sâu hơn, hắn cảm thấy hắn đã đến gần kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa. Hắn có thể cảm nhận được năng lượng bắt đầu dâng đầy trong hắn. Vào những lúc đó, hắn ngứa ngáy khắp người vì chờ đợi. Chẳng mấy chốc hắn sẽ có thể bắt đầu thu hoạch những thành quả kiến thức mới của mình. Dĩ nhiên hắn càng hối hận hơn khi những mạng sống đã bị lãng phí không cần thiết, nhưng đã có một cuộc chiến dữ dội giữa thiện và ác, và từ quan điểm đó các cô gái cần phải hy sinh.
Mặt trời buổi chiều sưởi ấm hắn khi hắn ngồi trên ghế đá công viên. Buổi cầu nguyện hôm nay đặc biệt hiệu quả, và hắn cảm thấy như thể mình đang cạnh tranh vẻ rạng rỡ với ánh mặt trời. Khi nhìn bàn tay mình, hắn đã thấy một dải ánh sáng bao quanh. Jacob mỉm cười. Nó đã bắt đầu.
Bên cạnh cái ghế báng hắn chợt thấy một con chim bồ câu chết. Nó nằm nghiêng, tự nhiên đã bắt đầu cải tạo cái xác và đưa nó về với đất. Cứng đơ và dơ bẩn, nó nằm với đôi mắt đã kéo màng trắng đục chết chóc. Hồi hộp, Jacob cúi xuống nghiên cứu con chim. Đó là một dấu hiệu.
Hắn đứng dậy khỏi băng ghế và ngồi xuống bên cạnh con chim bồ câu. Hắn nhẹ nhàng nghiên cứu cái xác. Một tay hắn đang rực lên như có lửa cháy bên trong. Hắn run rẩy chạm ngón trỏ bàn tay phải vào con chim bồ câu và ấn nhẹ vào bộ lông xù. Không có gì xảy ra. Nỗi thất vọng đe dọa sẽ cuốn trôi hắn đi, nhưng hắn buộc mình phải ở lại nơi mà lời cầu nguyện thường dẫn hắn tới. Sau một lúc con chim bồ câu co quắp lại. Một cái chân cứng đờ của nó bắt đầu run lên. Rồi mọi thứ đồng thời xảy ra. Lông chim lấy lại độ bóng, màng trắng che mắt biến mất. Nó đứng trên đôi chân mình và với một cú đập cánh thật mạnh, con chim bay về phía thiên đàng. Jacob mỉm cười, mãn nguyện.
Bên cửa sổ hướng ra vườn, bác sĩ Stig Holbrand đứng nhìn Jacob cùng với Fredrik Nydin, một bác sĩ nội trú đang thực tập tại khoa tâm thần học hình sự.
“Đó là Jacob Hult. Hắn là một ca đặc biệt ở đây. Hắn vừa tra tấn hai cô gái vừa cố gắng chữa lành họ. Họ đã chết vì vết thương quá nặng và hắn bị kết án vì tội giết người. Nhưng hắn đã không qua được bài giám định tâm thần tội phạm, và hắn cũng có một khối u não không thể mổ được.”
“Hắn còn được bao lâu?” bác sĩ nội trú hỏi. Anh hiểu bản chất bi thảm của vụ án, nhưng đồng thời cũng không thể không nghĩ rằng nó vô cùng thú vị.
“Khoảng sáu tháng. Hắn tuyên bố rằng hắn có thể tự chữa bệnh cho mình, và hắn dành phần lớn thời gian trong ngày để thiền định. Chúng tôi cứ để mặc hắn. Hắn sẽ không làm hại ai được nữa.”
“Nhưng hắn đang làm gì kia?”
“À, tôi đâu có nói rằng thỉnh thoảng hắn không cư xử kỳ quặc đâu.” Bác sĩ Holbrand liếc qua cửa sổ và khum tay che mắt để nhìn rõ hơn.
“Tôi nghĩ hắn đang ném một con chim bồ câu lên trời. Ít nhất thì sinh vật khốn khổ đó cũng đã chết rồi,” anh nói với vẻ lãnh đạm.
Họ chuyển sang bệnh nhân tiếp theo.