← Quay lại trang sách

Chương 12 MÙA HÈ 2003

Ngày tháng lẫn lộn cả vào nhau như thể trong sương mù. Cô đã bị tra tấn theo cái cách mà cô chưa bao giờ có thể nghĩ tới, và cô không ngừng nguyền rủa bản thân mình. Giá như cô đừng quá ngu ngốc mà xin đi nhờ xe, thì chuyện này đã không xảy ra. Bố mẹ đã dặn rất nhiều lần rằng cô không bao giờ được lên một chiếc xe lạ, nhưng cô lại cứ tưởng mình bất khả xâm phạm.

Chuyện đó có vẻ đã rất xa xôi rồi. Jenny đã cố gắng gọi lên cảm giác đó một lần nữa, muốn tận hưởng nó một lần nữa, dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Cảm giác rằng không gì trên đời này có thể làm hại cô, rằng những điều xấu xa có thể xảy đến với những kẻ khác chứ không phải là cô. Dù bây giờ có xảy ra chuyện gì đi nữa, cô cũng sẽ không bao giờ lấy lại được cảm giác đó.

Cô nằm nghiêng, móng tay cào vào đất. Cánh tay kia của cô không dùng được nữa, nhưng cô buộc mình phải cử động cánh tay khỏe hơn để giữ cho máu lưu thông. Cô mơ thấy mình như một nữ anh hùng trong phim, lần tiếp theo hắn xuống đây cô sẽ lao vào và chế ngự hắn. Cô sẽ bỏ hắn bất tỉnh trên sàn và thoát ra ngoài, đến với đám đông đang chờ đợi, đang tìm kiếm cô khắp nơi. Đó là một giấc mơ tuyệt đẹp nhưng bất khả. Đôi chân cô không còn đi được nữa.

Sự sống dần dần chảy ra khỏi cơ thể cô. Cô hình dung ra sự sống của mình chảy xuống mặt đất và cung cấp dinh dưỡng cho các sinh vật dưới đó. Sâu bọ và ấu trùng thèm khát hút sạch năng lượng sống của cô.

Khi chút sức lực cuối cùng của cô tàn lụi, cô thấy mình sẽ không bao giờ có được một cơ hội để cầu xin sự tha thứ của bố mẹ vì đã không thể làm được gì trong mấy tuần qua. Cô hy vọng họ sẽ hiểu.

Suốt đêm hắn ngồi ôm cô trong vòng tay. Cô càng lúc càng lạnh dần. Bóng tối dày đặc bao quanh họ. Hắn hy vọng rằng cô sẽ thấy bóng tối đầy an toàn và an ủi như hắn thấy. Nó giống như một tấm chăn lớn màu đen bao bọc hắn.

Trong một giày Jacob thấy bọn trẻ trước mắt mình. Nhưng hình ảnh đó nhắc nhở hắn quá nhiều về thực tại, và hắn gạt nó sang một bên.

Johannes đã chỉ đường cho hắn. Johannes và Ephraim và hắn. Họ là bộ ba – hắn đã luôn biết như vậy. Họ sở hữu một thiên phú mà Gabriel không bao giờ có thể chia sẻ được. Đó là lý do tại sao ông ta sẽ không bao giờ hiểu. Johannes và Ephraim và hắn. Họ vô song. Họ gần gũi với Thiên Chúa hơn bất kỳ ai khác. Họ đều rất đặc biệt. Đó là những gì Johannes đã viết trong cuốn sổ của mình.

Không phải ngẫu nhiên mà hắn đã tìm thấy cuốn sổ màu đen của Johannes. Có gì đó đã dẫn hắn đến với nó, như một thanh nam châm hút hắn về phía những gì hắn nghĩ là di sản Johannes dành cho hắn. Hắn xúc động bởi sự hy sinh mà Johannes đã sẵn sàng thực hiện để cứu mạng hắn. Hắn, cũng như bất cứ ai có thể, hiểu Johannes đã muốn đạt được điều gì. Hình dung mà xem, trớ trêu thay điều đó lại hóa ra không cần thiết. Ông nội Ephraim là người đã cứu hắn. Hắn đau khổ vì Johannes đã thất bại. Thật xấu hổ vì các cô gái đã chết. Tuy nhiên, hắn có nhiều thời gian sắp đặt hơn Johannes. Hắn sẽ không thất bại. Hắn sẽ cố gắng hơn và cố gắng hơn nữa cho đến khi hắn tìm ra chìa khóa mở ánh sáng trong hắn. Ánh sáng mà ông nội Ephraim đã bảo hắn rằng hắn cũng có, ẩn sâu bên trong. Cũng giống như Johannes, bố hắn.

Jacob ân hận vuốt ve cánh tay lạnh lẽo của cô bé. Không phải hắn không thương tiếc cho cái chết của cô. Nhưng cô bé ấy là một người phàm, và Thiên Chúa sẽ cho cô một vị trí đặc biệt vì cô đã hy sinh bản thân mình cho một người được Thiên Chúa lựa chọn. Một ý nghĩ chợt đến với Jacob: có lẽ Thiên Chúa mong đợi một số lượng vật tế nhất định trước khi Người sẽ cho phép hắn có chìa khóa. Có lẽ Johannes cũng vậy thôi. Không phải là họ đã thất bại, mà chỉ vì Người mong đợi thêm những bằng chứng về đức tin của họ trước khi Người chỉ cho họ con đường sáng.

Ý nghĩ đó khiến tâm trạng của Jacob sáng sủa hơn. Đó chắc chắn là câu trả lời. Hắn luôn tin tưởng hơn vào Thiên Chúa của Cựu ước. Thiên Chúa đã yêu cầu hy sinh máu.

Tuy nhiên có một điều vẫn đang cào cấu lương tâm hắn. Liệu Thiên Chúa có tha thứ không khi hắn đã chẳng thể cưỡng lại ham muốn xác thịt? Johannes mạnh mẽ hơn. Ông chưa bao giờ bị cám dỗ, và Jacob ngưỡng mộ ông vì điều đó. Bản thân Jacob đã cảm nhận làn da mềm mại, mượt mà áp sát mình, và có gì đó ẩn sâu bên trong hắn đã thức dậy. Chỉ một lúc ngắn ngủi Ác Quỷ đã chiếm lấy hắn và hắn đã đầu hàng. Nhưng sau đó hắn đã hối hận sâu sắc, và chắc chắn Thiên Chúa đã nhận thấy điều này. Người có thể nhìn thẳng vào trái tim hắn nên cũng nhìn thấy sự ăn năn của hắn và đã ban cho hắn sự tha thứ mà Người từng ban cho tất cả những tội đồ.

Jacob đu đưa cô bé trong vòng tay mình. Hắn gạt một lọn tóc trên cô bé. Cô bé thật xinh đẹp. Ngay khi nhìn thấy cô bé trên đường, ngón tay cái giơ ra xin đi nhờ, hắn đã biết cô chính là người hắn cần. Cô gái đầu tiên là dấu hiệu mà hắn đã chờ đợi. Suốt nhiều năm, hắn đã say mê đọc những lời lẽ của Johannes trong cuốn sổ. Khi cô gái ấy xuất hiện trước cửa nhà hắn hỏi về mẹ cô, cùng ngày mà hắn nhận được lời Phán Quyết, hắn nhận ra rằng đó là một dấu hiệu.

Hắn đã không nản lòng khi không thể tìm thấy sức mạnh với sự giúp đỡ của cô. Johannes cũng đã thất bại với mẹ cô. Điều quan trọng là, với cô gái đầu tiên, Jacob đã bước trên con đường được dành cho hắn. Theo chân bố hắn.

Đặt các cô gái vào trong Khe Vua là cách để hắn biểu lộ điều này với thế giới. Một lời tuyên bố rằng bây giờ hắn sẽ tiếp tục những gì Johannes đã bắt đầu. Hắn không nghĩ rằng người khác sẽ hiểu. Chỉ cần Thiên Chúa hiểu và thấy nó tốt đẹp, vậy là đủ.

Nếu Jacob còn cần thêm bằng chứng cuối cùng, thì hắn đã nhận được nó đêm qua. Khi họ bắt đầu nói về kết quả xét nghiệm máu, hắn chắc chắn rằng hắn sẽ bị giam lại như một tên tội phạm.

Hắn đã quên mất rằng Ác Quỷ cũng đã khiến hắn để lại dấu vết trên cái xác.

Nhưng hắn đã cười thẳng vào mặt Ác Quỷ. Hắn cực kỳ ngạc nhiên khi cảnh sát nói rằng kết quả xét nghiệm đã miễn tội cho hắn. Đó là bằng chứng cuối cùng mà hắn cần để tin chắc rằng hắn đang đi đúng đường và rằng không ai có thể ngăn cản hắn. Hắn đặc biệt. Hắn đã được bảo vệ. Hắn đã được ban phước.

Hắn lại chậm rãi vuốt ve mái tóc cô bé. Hắn sẽ phải tìm một người mới.

Chỉ mười phút sau Annika đã gọi lại.

“Đúng như anh nói. Jacob lại bị ung thư. Nhưng lần này không phải là bạch cầu, mà là u não. Anh ta đã được thông báo rằng họ không thể làm gì được nữa cả, nó đã phát triển quá rồi.”

“Anh ta nhận tin vào hôm nào?”

Annika nhìn vào ghi chú của mình. “Chính cái hôm mà Tanja mất tích.”

Patrik ngồi phịch xuống xô-pha trong phòng khách. Anh đã biết điều đó, nhưng thật khó tin đó là sự thật. Ngôi nhà có vẻ yên bình như vậy, tĩnh lặng như vậy. Hiện không có một dấu vết tội ác nào anh có thể nắm lấy trong tay mình làm bằng chứng. Chỉ là một vẻ bình thường giả tạo. Hoa trong bình, đồ chơi trẻ con lăn lóc trên sàn, một cuốn sách đọc dở trên bàn cà phê. Không có đầu lâu, không có quần áo vấy máu, không có nến đen đang cháy.

Trên bệ lò sưởi thậm chí còn có một bức tranh vẽ Jesus trên đường lên thiên đàng sau khi phục sinh, một vầng hào quang quanh đầu và đang ngước nhìn lên, trước mặt là những con người cầu nguyện trên đất.

Làm sao có thể biện minh cho hành vi tàn ác nhất rằng hắn đã được Thiên Chúa cho phép tự tung tự tác? Mặc dù, sau tất cả, có lẽ cũng chẳng có gì quá kỳ lạ nữa. Qua bao nhiêu thời kỳ, hàng triệu người đã bị giết nhân danh Thiên Chúa. Có gì đó thật hấp dẫn về sức mạnh ấy, sức mạnh khiến con người say sưa và lâm lạc.

Patrik thoát ra khỏi những suy tư thần học của mình và thấy cả nhóm đang đứng xung quanh nhìn anh, chờ được chỉ dẫn thêm. Anh cho họ thấy những gì anh mới tìm được, và giờ thì mỗi người đều đang cố không nghĩ đến nỗi kinh hoàng mà Jenny có thể đang phải trải qua.

Vấn đề là họ không biết cô có thể ở đâu. Trong lúc Patrik đợi Annika gọi lại, họ đã tiếp tục tìm kiếm thậm chí sốt sắng hơn. Đồng thời anh cũng gọi đến dinh thự và hỏi Marita, Gabriel và Laine liệu họ có nghĩ đến bất cứ nơi nào Jacob có thể đi được hay không. Anh cộc cằn gạt đi những câu hỏi ngược lại của họ. Bây giờ không có thời gian cho việc đó.

Anh vò mái tóc vốn dựng đứng lên rồi. “Thằng này có thể ở chỗ đếch nào được chứ? Chúng ta không thể tiếp tục tìm kiếm từng phân một khắp cả hạt được. Hắn có thể giấu cô bé ở gần trang trại tại Bullaren, hay ở khoảng đó. Chúng ta phải làm cái quái gì bây giờ?” anh thất vọng nói.

Martin cũng cảm thấy bất lực như vậy nhưng không nói gì. Patrik không định coi đó là một câu hỏi. Rồi một ý tưởng chợt lóe lên trong đầu anh.

“Nó phải ở đây, đâu đó quanh Västergärden. Hãy nghĩ đến những dấu vết phân bón đó. Tôi đoán là Jacob đang sử dụng chính chỗ mà Johannes từng sử dụng. Và còn chỗ nào hợp lý hơn đâu đó quanh đây?”

“Anh nói đúng, nhưng cả Marita và bà mẹ chồng đều nói rằng không có tòa nhà nào khác trên khu đất này. Tất nhiên đó có thể là một hang động hay gì đó tương tự thế, nhưng anh có biết đất đai của nhà Hult rộng lớn thế nào không? Khác nào mò kim đáy bể.”

“Ừ, nhưng còn Solveig và mấy đứa con trai bà ta? Anh đã hỏi họ chưa? Họ sống ở đây từ trước. Họ có thể biết gì đó về nơi này mà Marita không biết.”

“Ý tưởng hay đấy. Có danh bạ ở trong bếp bên cạnh điện thoại không? Linda mang điện thoại di động theo, nên chắc tôi có thể liên lạc với họ qua số đó.”

Martin đi kiểm tra. Anh quay lại với danh bạ có tên Linda được viết nắn nót. Patrik sốt ruột chờ chuông reo. Sau một hồi dường như vô tận Linda trả lời.

“Linda, chú Patrik Hedström đây. Chú cần nói chuyện với Solveig hoặc Robert.”

“Họ đang ở với Stefan. Anh ấy tỉnh rồi!” Linda nói, có vẻ phấn khởi. Với trái tim nặng trĩu, Patrik biết rằng niềm vui sẽ sớm biến mất trong giọng cô.

“Gọi một trong hai người đó ngay, chuyện quan trọng đấy!”

“Được rồi, mà chú thích ai hơn?”

Anh suy nghĩ một lát. Ai biết khu vực quanh nhà nơi mình sống rõ hơn một đứa bé? Sự lựa chọn thật dễ dàng. “Robert.”

Anh nghe cô đặt điện thoại xuống và đi tìm hắn. Chắc cô không thể mang điện thoại di động vào phòng bệnh vì nó có thể gây nhiễu các thiết bị. Patrik vừa mới nghĩ đến đó thì đã nghe thấy giọng buồn rầu của Robert trên đường dây.

“Ừ, Robert đây.”

“Chào, tôi là Patrik Hedström. Tôi muốn hỏi liệu anh có thể giúp chúng tôi một chuyện được không. Cực kỳ quan trọng,” anh vội vã nói thêm.

“Vâng, được, đó là chuyện gì?” Robert ngập ngừng nói.

“Tôi muốn hỏi anh có biết tòa nhà nào khác ở quanh Västergärden ngoài những cái gần nhà chính không. Thực sự thì nó thậm chí không cần phải là một tòa nhà. Đúng hơn là một nơi trú ẩn, anh hiểu ý tôi chứ. Nhưng nó cũng phải tương đối lớn. Đủ chỗ cho nhiều hơn một người.”

Patrik có thể cảm thấy rõ những dấu hỏi chấm đang chồng chất trong bộ não Robert, nhưng rồi anh nhẹ cả người khi Robert không thắc mắc lý do câu hỏi của anh. Thay vào đó, sau khi suy nghĩ một lúc, hắn nói, “À, chỗ duy nhất tôi có thể nghĩ ra là một căn hầm trú bom cũ. Nó nằm quá một chút vào trong rừng. Bọn tôi thường chơi ở đó khi còn nhỏ, Stefan và tôi.”

“Còn Jacob,” Patrik hỏi, “anh ta có biết về nó không?”

“Có, bọn tôi đã sai lầm khi chỉ nó cho anh ta xem. Ngay sau đó anh ta chạy thẳng đến chỗ bố tôi. Họ quay lại và bảo bọn tôi không bao giờ được chơi ở đó nữa. Chỗ đó nguy hiểm, bố tôi nói vậy. Thế là hết cả vui. Jacob luôn hơi quá đứng đắn,” Robert chua chát nói khi nhớ lại nỗi thất vọng thời thơ ấu của mình. Patrik nghĩ rằng đứng đắn có lẽ không phải là từ sẽ gắn với Jacob trong tương lai.

Sau khi nhận được lời chỉ dẫn, anh vội vàng cảm ơn hắn và gác máy.

“Tôi nghĩ tôi biết họ ở đâu rồi, Martin. Tập hợp tất cả mọi người ra ngoài sân.”

Năm phút sau, tám sĩ quan đứng nghiêm trong ánh nắng rực bên ngoài. Bốn người từ Tanumshede, bốn người từ Uddevalla.

“Chúng tôi có lý do để tin rằng Jacob Hult đang trốn ở gần đây, trong rừng, tại một căn hầm trú bom cũ. Hắn có thể nhốt Jenny Möller ở đó, và chúng tôi không biết cô bé còn sống hay đã chết. Nên chúng ta cứ phải hành động như thể cô bé còn sống và hết sức thận trọng trong việc xử lý tình hình. Chúng ta sẽ cẩn thận di chuyển về phía trước cho đến khi tìm thấy hầm trú bom, rồi chúng ta sẽ bao vây nó. Trong im lặng,” Patrik gay gắt nói, để ánh mắt mình lướt qua tất cả bọn họ nhưng nấn ná hơi lâu ở Ernst. “Chúng ta sẽ rút vũ khí ra, nhưng không ai được làm gì khi tôi chưa ra lệnh rõ ràng. Rõ chưa?”

Mọi người gật đầu, mặt mày nghiêm trọng.

“Một xe cấp cứu đang trên đường đi từ Uddevalla, nhưng họ sẽ không bật đèn nháy xanh. Họ sẽ dừng lại ngay bên ngoài đường vào Västergärden. Tiếng động vang xa trong rừng, và chúng ta không muốn hắn nghe thấy có gì đó đang đi tới. Ngay khi chúng ta kiểm soát được tình hình, chúng ta sẽ gọi cho họ.”

“Nên có vài bác sĩ đi cùng chúng ta chứ?” một trong những cảnh sát từ Uddevalla hỏi. “Khi chúng ta tìm thấy cô bé thì có thể rất khẩn cấp rồi.”

Patrik gật đầu. “Anh nói đúng về mặt nguyên tắc, nhưng chúng ta không có thời gian để chờ bọn họ. Ngay bây giờ vấn đề quan trọng hơn là xác định vị trí của cô bé thật nhanh, và hy vọng trong lúc đó các chuyên viên y tế sẽ đến. Được rồi, đi thôi.”

Robert đã mô tả là chỗ đó ở trong rừng phía sau nhà. Đi quá một trăm mét họ sẽ tới lối đi dẫn đến hầm trú bom. Lối đi gần như vô hình nếu người ta không biết nó ở đó, và lúc đầu Patrik suýt bỏ qua. Họ chậm rãi tiến về phía mục tiêu và sau khoảng một cây số anh nghĩ anh có thể nhìn thấy có gì đó lấp lánh qua những tán lá. Không nói một lời, anh quay lại và chỉ đạo những người phía sau di chuyển về phía trước. Họ lặng lẽ tản ra và bao vây hầm trú bom, nhưng không thể tránh khỏi gây ra tiếng sột soạt. Patrik nhăn mặt trước mọi tiếng động và hy vọng những bức tường bê tông dày sẽ lọc hết tiếng ồn Jacob có thể nghe thấy.

Anh đã rút súng ra và qua khóe mắt anh nhìn thấy Martin cũng làm tương tự. Họ len lỏi về phía trước và cẩn thận thử cái cửa. Nó đã bị khóa. Khốn nạn, họ sẽ làm gì bây giờ? Họ không có thiết bị để mở cửa và phương án thay thế là cố gắng thuyết phục Jacob tự nguyện bước ra. Patrik bối rối gõ cửa và nhanh chóng di chuyển sang một bên.

“Jacob. Chúng tôi biết anh đang ở trong đó. Chúng tôi muốn anh bước ra ngoài!”

Không có ai trả lời. Anh thử lại.

“Jacob, tôi biết rằng anh không có ý làm tổn thương các cô gái. Anh chỉ làm những gì Johannes đã làm. Hãy đi ra và chúng ta sẽ nói về nó.”

Anh có thể thấy những lời lẽ của mình nghe chẳng ra đâu vào đâu. Có lẽ anh nên học lấy một khóa đàm phán con tin, hoặc ít nhất là mang theo một nhà tâm lý học. Thiếu những kỹ năng đó, anh sẽ phải dựa vào bản năng của mình để dụ một kẻ tâm thần ra khỏi hầm trú bom.

Trước sự ngạc nhiên tột độ của anh, một lát sau anh nghe tiếng khóa kêu lách cách. Cánh cửa mở ra từ từ. Martin và Patrik, đứng ở hai bên cánh cửa, nhìn nhau. Cả hai đều giơ súng trước mặt và căng người ra sẵn sàng. Jacob bước qua cánh cửa. Hắn ôm Jenny trong vòng tay. Không có nghi ngờ gì nữa, cô bé đã chết, và Patrik gần như có thể cảm thấy nỗi thất vọng và đau buồn tràn qua trái tim những người cảnh sát, giờ đang đứng cầm súng nhắm thẳng vào Jacob.

Hắn phớt lờ họ. Thay vào đó, hắn nhìn lên và nói vào khoảng không.

“Con không hiểu. Con đã được lựa chọn. Người lẽ ra phải bảo vệ con.” Hắn trông bối rối như thể thế giới đột ngột lộn tùng phèo. “Tại sao hôm qua Người cứu con nếu như hôm nay con không được Người ân sủng?”

Patrik và Martin nhìn nhau. Jacob dường như đã hoàn toàn mất trí. Nhưng điều đó khiến hắn còn nguy hiểm hơn nữa. Không có cách nào để biết hắn sẽ làm gì tiếp theo. Họ cầm súng nhắm thẳng vào hắn.

“Đặt cô bé xuống,” Patrik nói.

Jacob cứ nhìn lên thiên đường, nói chuyện với vị Chúa vô hình của mình.

“Con biết Người sẽ ban cho con món quà ấy, nhưng con cần thêm thời gian. Tại sao bây giờ Người quay lưng lại với con?”

“Đặt cô bé xuống và giơ hai tay lên!” Patrik nói với giọng gay gắt hơn. Jacob vẫn không có phản ứng gì. Hắn vẫn ôm cô bé trong vòng tay và dường như không có vũ khí nào trên người. Patrik tự hỏi liệu anh có nên giải quyết hắn để phá vỡ sự bế tắc này không. Không có lý do gì để lo sẽ làm cô bé bị thương. Đã quá muộn rồi.

Anh vừa mới nghĩ xong thì một dáng người cao lớn từ bên trái đã bay về phía trước. Patrik giật mình và ngón tay đang đặt trên cò súng của anh run lên, anh suýt nữa bắn một viên đạn vào Jacob hay Martin. Anh kinh hoàng nhìn cơ thể gầy lêu đêu của Ernst bay qua không trung thẳng vào Jacob, hắn ngã xuống đất uỵch một tiếng. Jenny rơi khỏi vòng tay hắn xuống ngay phía trước phịch một tiếng khó chịu, như một bao bột lăn xuống đất.

Với vẻ đắc thắng Ernst xoắn tay Jacob ra sau lưng. Hắn không cố chống lại, nhưng mặt hắn vẫn có vẻ kinh ngạc.

“Thế là xong,” Ernst nói và nhìn lên để nhận sự cổ vũ của đám đông. Tất cả họ đều đứng như trời trồng, và khi Ernst thấy cái nhìn u ám trên mặt Patrik, ông ta mới nhận ra rằng lại một lần nữa ông ta hành động mà không suy nghĩ.

Patrik vẫn còn run sau khi suýt nữa bắn phải Martin. Anh đã phải kiềm chế lắm mới không đặt tay lên cái cổ gầy của Ernst và từ từ bóp nghẹt ông ta. Nhưng họ sẽ giải quyết chuyện đó sau. Bây giờ điều quan trọng nhất là bắt giam Jacob.

Gösta lấy một cặp còng tay ra, đi tới chỗ Jacob và còng quanh cổ tay hắn. Cùng với Martin, ông thô bạo lôi Jacob đứng dậy rồi bắn một cái nhìn dò hỏi vào Patrik, anh đang quay sang hai cảnh sát đến từ Uddevalla.

“Mang hắn trở lại Västergärden. Tôi sẽ đến đó ngay lập tức. Hãy chắc chắn rằng xe cứu thương cũng sẽ đến đây ngay và bảo họ mang theo một cái cáng.”

Họ bắt đầu đưa Jacob đi, nhưng Patrik ngăn họ lại. “Chờ một phút, tôi chỉ muốn nhìn thẳng vào mắt hắn. Tôi muốn nhìn kẻ có thể làm chuyện này thực sự trông như thế nào.” Anh ra hiệu về phía cái xác của Jenny.

Jacob đáp lại cái nhìn của anh không chút ăn năn, nhưng vẫn có vẻ hoang mang. Hắn nhìn Patrik và nói, “Không kỳ lạ sao? Đêm qua để cứu tôi, Chúa thực hiện một phép lạ, và hôm nay Người để cho tôi bị bắt?”

Patrik cố gắng nhìn vào trong đôi mắt hắn xem hắn có nghiêm túc không, hay tất cả đều là một trò để cố gắng tự cứu mình khỏi những hậu quả của hành động kia. Cái nhìn đáp lại anh trống rỗng như một tấm gương – anh đang nhìn vào khuôn mặt của một thằng điên.

Anh mệt mỏi nói, “Đó không phải là Chúa. Đó là Ephraim. Anh đã vượt qua xét nghiệm máu vì Ephraim đã hiến tặng tủy xương của mình cho anh khi anh bị bệnh. Có nghĩa là trong máu anh có máu và DNA của ông ta. Đó là lý do tại sao mẫu máu của anh không khớp với mẫu thử DNA chúng tôi đã lấy từ… chứng cứ… anh để lại trên cơ thể Tanja. Chúng tôi không hiểu điều đó cho đến khi các chuyên gia ở phòng thí nghiệm lập bản đồ các mối quan hệ trong gia đình anh. Theo kết quả xét nghiệm máu của anh, anh được cho là bố của Johannes và Gabriel.”

Jacob chỉ gật đầu. Sau đó, hắn nhẹ nhàng nói, “Nhưng vậy không phải là một phép lạ sao?” Rồi hắn được giải ra khỏi rừng.

Martin, Gösta và Patrik vẫn đứng bên xác Jenny. Ernst đã vội vã lủi đi với những cảnh sát từ Uddevalla, và có lẽ sẽ làm hết sức để tránh bị chú ý trong một lúc.

Cả ba người họ đều muốn có một tấm áo khoác để che đậy cho cô bé. Cô bé trần truồng như vậy thật yếu ớt, thật mất phẩm giá. Họ đã nhìn thấy những vết thương trên thân thể cô. Những vết thương giống như những vết thương Tanja đã phải chịu đựng. Và có lẽ cũng giống như những vết thương Siv và Mona đã có khi họ chết.

Mặc dù tính khí bốc đồng, Johannes vẫn là một người rất tỉ mỉ. Cuốn sổ của gã cho thấy gã đã ghi lại chính xác gã gây ra những vết thương cho các nạn nhân như thế nào, rồi gã đã cố gắng chữa lành cho họ như thế nào. Gã đã giữ tất cả ghi chép như một nhà khoa học. Các vết thương giống nhau trên cả hai người, theo cùng một thứ tự. Có lẽ để thuyết phục mình rằng nó có vẻ như một thí nghiệm khoa học. Một thí nghiệm trong đó họ là những vật hy sinh bất hạnh nhưng cần thiết, cần thiết để Chúa trả lại gã thiên bẩm chữa bệnh như ngày còn bé. Thiên bẩm mà gã mong mỏi trong cả quãng đời trưởng thành của mình và cần phục hồi một cách cấp thiết khi Jacob, đứa con trai đầu lòng, bị bệnh.

Đó là cái di sản bất hạnh mà Ephraim đã để lại cho con trai và cháu trai của mình. Trí tưởng tượng của Jacob đã được khởi động bởi những câu chuyện Ephraim kể về khả năng chữa lành của Gabriel và Johannes thời niên thiếu. Để gây ấn tượng Ephraim đã nói rằng ông ta nhìn thấy thiên bẩm ấy trong đứa cháu trai. Điều đó sinh ra những ý tưởng, và chúng đã bị căn bệnh khiến Jacob suýt chết phóng đại lên trong suốt những năm qua. Rồi hắn tìm thấy cuốn sổ của Johannes, và dựa vào độ mòn xơ của những trang giấy, hắn hẳn đã phải giở đi giở lại nó nhiều lần. Trùng hợp bi thảm làm sao, đúng ngày Jacob được chẩn đoán sẽ chết thì Tanja lại xuất hiện ở Västergärden để hỏi về mẹ mình. Tất cả những yếu tố ấy kết hợp đã dẫn đến khoảnh khắc này, những người cảnh sát đứng nhìn cô bé đã chết.

Khi Jacob thả Jenny xuống, cô đã rơi nghiêng một bên. Trông gần giống như cô đã cuộn mình trong tư thế bào thai. Martin và Patrik ngạc nhiên nhìn Gösta cỏi nút áo sơ mi ngắn tay của mình. Ông phô ra bộ ngực trắng như phấn, không có lông, và im lặng phủ áo lên trên Jenny, cố che đậy sự trần truồng của cô bé.

“Đừng có đứng đó nhìn chằm chằm vào cô bé khi cô ấy không có mảnh vải che thân,” ông cộc cằn nói, khoanh tay lại để tránh sự ẩm ướt lạnh lẽo dưới bóng cây.

Patrik quỳ xuống và vô thức cầm lấy bàn tay lạnh lẽo của Jenny. Cô bé đã chết trong cô độc, nhưng cô bé sẽ không phải cô độc đợi chờ.

Vài ngày sau, con hỗn loạn khủng khiếp đã lắng xuống. Patrik ngồi trước mặt Mellberg, chỉ muốn làm cho xong việc. Ông sếp đòi phải có một đánh giá đầy đủ về vụ án. Patrik biết động cơ của trưởng đồn là tìm hiểu cho đủ để ông ta có thể bốc phét đến hàng năm trời về sự tham gia của mình trong vụ Hult. Nhưng điều đó củng không đặc biệt khiến Patrik bận tâm. Sau khi đưa tin với tư cách cá nhân cho bố mẹ Jenny, anh khó mà thấy được vinh dự hay danh giá gì liên quan đến cuộc điều tra này. Anh sẵn sàng chuyển cái khoản này sang cho Mellberg.

“Tôi vẫn không hiểu cái phần về máu,” Mellberg nói.

Patrik thở dài và bắt đầu giải thích lần thứ ba, nói thậm chí còn chậm hơn.

“Khi Jacob bị bệnh bạch cầu, hắn đã được cấy ghép tủy xương từ ông nội Ephraim. Có nghĩa là sau khi cấy ghép, máu được sản xuất bên trong Jacob có DNA giống như của người hiến tặng, là Ephraim. Nói cách khác, trong cơ thể Jacob sau đó có DNA của hai người. DNA của ông nội trong máu và DNA của chính mình trong các phần cơ thể khác. Đó là lý do tại sao chúng ta đã nhận được bản mô tả DNA của Ephraim khi phân tích mẫu máu của Jacob. Vì DNA mà Jacob để lại trên nạn nhân của hắn là ở dạng tinh dịch, nên mẫu đó chứa DNA gốc của hắn. Vì vậy, hai bản mô tả không khớp. Theo Phòng Thí nghiệm Tội phạm, xác suất cho những sự vụ kiểu như thế này xảy ra quá nhỏ đến mức phi lý. Nhưng không phải là không thể…”

Dường như Mellberg cuối cùng cũng nắm bắt được các sự việc. Ông ta lắc đầu ngạc nhiên. “Có vẻ khoa học viễn tưởng quá. Bây giờ thì chúng ta đã nghe hết mọi chuyện rồi, phải không Hedström? Tôi phải nói rằng chúng ta đã giải quyết vụ này quá tốt. Hôm qua cảnh sát trưởng của Göteborg đã gọi cho riêng tôi và cảm ơn chúng ta vì đã xử lý xuất sắc vụ này, và tôi không thể nào đồng tình với ông ta hơn được nữa.”

Patrik khó mà thấy được vụ này có gì xuất sắc, vì họ đã không thành công trong việc cứu sống cô bé, nhưng anh không bình luận gì. Đôi khi mọi chuyện vẫn xảy ra dù họ đã nỗ lực hết sức. Và không mấy ai có thể làm được gì.

Mấy ngày qua thật buồn phiền. Theo một cách nào đó, nó là cả một quá trình đau thương. Anh vẫn đang bị thiếu ngủ, bị ám ảnh bởi những hình dung gợi lên tù các phác thảo và ghi chú trong cuốn sổ của Johannes. Erica không ngừng quanh quẩn bên anh, và anh nhận thấy ban đêm cô cũng trằn trọc bên cạnh. Nhưng anh không có sức để chìa tay về phía cô. Anh phải vượt qua chuyện này một mình.

Thậm chí cái cảm giác đứa bé cựa quậy trong bụng cố cũng không thể đánh thức niềm hạnh phúc nó đã từng mang lại cho anh trước dây. Dường như anh đột nhiên nhớ ra thế giới này nguy hiểm đến thế nào và con người có thể độc ác, điên rồ đến thế nào. Làm sao anh có thể bảo vệ đứa bé khỏi tất cả những thứ đó? Kết quả là anh né tránh Erica và đứa bé. Tránh xa nguy cơ một ngày nào đó phải trải qua nỗi đau anh đã thấy trên khuôn mặt Bo và Kerstin Möller khi anh đứng trước họ và nghèn nghẹn thông báo cho họ rằng thật không may, Jenny đã chết. Làm sao người ta có thể sống được trong nỗi đau đớn như vậy?

Trong những giờ khắc tăm tối nhất của đêm hôm ấy, anh thậm chí đã cân nhắc đến việc chạy trốn. Chỉ cần dọn đồ sạch sẽ, va li và túi xách. Chạy trốn hết thảy những trách nhiệm và bổn phận. Tránh xa nguy cơ tình yêu của anh dành cho con rồi sẽ trở thành khẩu súng gí vào thái dương anh, chầm chậm bóp cò. Anh đã luôn là hiện thân của sự cống hiến hết mình, nhưng lần đầu tiên trong đời, anh nghiêm túc xem xét việc chọn cách sống hèn nhát. Đồng thời anh cũng biết rằng Erica đang cần anh hỗ trợ hơn bao giờ hết. Nghe tin Anna và bọn trẻ đã chuyển về ở với Lucas, cô đã cực kỳ thất vọng. Anh biết vậy, nhưng anh vẫn không thể chạm vào cô.

Anh nhìn Mellberg ngồi trước mặt. Miệng trưởng đồn mấp máy không ngừng. “Vâng, tôi không thấy có lý do gì mà ngân sách dành cho chúng tôi lại không được tăng trong lần phân bổ tiếp theo, dựa vào sự tín nhiệm mà chúng tôi đã xây dựng được…”

Vân vân và vân vân, Patrik nghĩ. Lời lẽ cứ tuôn ra, chẳng có ý nghĩa gì. Tiền bạc và danh vọng, ngân sách lớn hơn và những lời khen ngợi của cấp trên. Thước đo vô dụng của thành công. Anh muốn cầm cốc cà phê của mình và từ từ đổ thứ chất lỏng nóng giãy đó lên cái đầu tổ chim của Mellberg. Chỉ để ông ta im miệng.

“A, và đóng góp của anh sẽ được lưu ý, tất nhiên,” Mellberg nói. “Thực sự thì tôi đã nói với cảnh sát trưởng rằng tôi đã được anh hỗ trợ rất nhiều trong việc điều tra. Nhưng xin đừng nhắc tôi rằng tôi đã nói vậy khi nói chuyện lương lậu nhé,” Mellberg cười và nháy mắt với Patrik. “Điều duy nhất còn khiến tôi quan tâm là cái chết của Johannes Hult. Anh vẫn không biết kẻ nào đã giết gã sao?”

Patrik lắc đầu. Họ đã nói chuyện này với Jacob, nhưng dường như hắn cũng thực sự mù mờ như họ. Vụ án mạng vẫn chưa được giải quyết và có khả năng sẽ mãi mãi như vậy.

“Nếu anh giải quyết nốt được vụ này thì chắc chắn đó sẽ là lớp kem trên cái bánh ngọt. Chẳng hại gì nếu được một ngôi sao vàng nho nhỏ bên cạnh lời khen ngợi của anh, phải không?” Rồi Mellberg trở nên nghiêm túc. “Và đương nhiên, tôi đã lưu ý những lời phê bình của anh với các hành động của Ernst, nhưng xét đến việc anh ta đã phục vụ nhiều năm, tôi nghĩ chúng ta nên rộng lượng và ngừng lại ở đây thôi. Ý tôi là, mọi thứ cuối cùng đều đã tốt đẹp cả mà.”

Patrik nhớ lại cảm giác ngón tay mình run rẩy trên cò súng còn Martin và Jacob trong làn đạn. Bây giờ bàn tay đang cầm cốc cà phê của anh cũng bắt đầu run lên. Rất tự nhiên, bàn tay bắt đầu nâng cốc lên và chầm chậm di chuyển về phía cái đầu gần như không được che chắn gì của Mellberg. Cái cốc dừng lại đột ngột khi có tiếng gõ cửa. Đó là Annika.

“Patrik, có một cuộc gọi dành cho anh.”

“Cô không thấy chúng tôi đang bận à?” Mellberg rít lên.

“Tôi thực sự nghĩ rằng anh ấy sẽ muốn nhận cuộc gọi này,” cô nói, khăng khăng nhìn Patrik.

Patrik bối rối nhìn cô chằm chằm, nhưng cô không nói gì thêm. Khi họ đến văn phòng của cô, cô chỉ vào ống nghe đang đặt trên bàn làm việc và lặng lẽ bước ra hành lang.

Patrik áp điện thoại vào tai.

“Thế quái nào mà anh lại tắt điện thoại đi?”

Anh nhìn cái điện thoại đang cài trong vỏ trên thắt lung của mình và nhận ra rằng nó cần sạc pin.

“Nó hết pin. Sao thế?” Anh không hiểu tại sao Erica lại nổi nóng lên như thế. Cô vẫn có thể liên lạc được với anh qua tổng đài cơ mà.

“Bởi vì đã bắt đầu rồi! Còn anh thì không trả lời điện thoại cố định và cả điện thoại di động, và rồi…”

Anh cắt ngang, bối rối. “Ý em là sao, bắt đầu? Cái gì bắt đầu?”

“Đau đẻ, đồ ngốc. Em bắt đầu đau và vỡ ối rồi! Anh phải về đón em, chúng ta phải đi ngay bây giờ!”

“Nhưng anh tưởng em còn ba tuần nữa?” Anh vẫn cảm thấy bối rối.

“Con nó rõ ràng là không biết thế, nó sắp ra rồi đây này!” Sau đó, anh chỉ nghe thấy tiếng tút tút.

Patrik đứng sững với cái điện thoại trong tay. Một nụ cười ngốc nghếch bắt đầu nở trên môi anh. Con anh sắp ra đời. Con của anh và Erica.

Anh chạy ra xe bằng đôi chân run rẩy và hoang mang kéo mạnh cửa xe mấy lần. Có người vỗ nhẹ vào vai anh. Phía sau anh là Annika với chìa khóa xe lủng lẳng trên tay.

“Có lẽ sẽ nhanh hơn nếu anh mở khóa xe trước đã.”

Anh giật lấy chìa khóa từ tay cô và vội vàng vẫy chào tạm biệt khi nhấn ga hết cỡ đoạn lao về phía Fjällbacka. Annika nhìn vào vết lớp đen sì anh để lại trên mặt đường nhựa. Cô vừa cười vừa quay lại chỗ của mình tại bàn tiếp tân.