MỘT
Lấy mạng ra thề đấy. Có lẽ đó là những lời cuối cùng của Ken Kramer, như cơn hoảng loạn cuối cùng bùng nổ trong tâm trí khi gã ngừng thở và rơi vào hư vô. Gã đã đi quá giới hạn, theo mọi nghĩa, và gã biết điều ấy. Gã đã có mặt ở nơi không nên có mặt, đi cùng một người không nên đi cùng, và mang theo thứ đáng lẽ nên được cất giấu ở một nơi nào khác an toàn hơn. Nhưng gã đã suýt thoát. Gã đã đặt cược và sắp thắng cược. Gã đã chơi rất tốt. Có khi gã còn đang cười tự đắc nữa. Cho đến khi cơn co giật bất thình lình sâu trong lồng ngực phản bội gã. Thế là mọi việc quay ngoắt lại. Thành công chợt trở thành thảm họa. Gã chẳng kịp trở tay.
Chẳng ai biết cảm giác bị một cơn trụy tim chết người ập đến thì ra sao cả. Có người nào còn sống sót mà kể lại cho ta đâu. Mấy tay bác sĩ hay giảng về nào là hoại tử, đông máu, thiếu ô xi và tắc nghẽn mạch máu. Họ dự báo tim tự dưng đập nhanh, hoặc không gì cả. Họ dùng những từ ngữ như chứng nhồi máu cơ tim hay chứng rối loạn nhịp tim,mà những thuật ngữ chuyên môn đó nào có ý nghĩa gì với ta. Tự dưng lăn đùng ra chết là câu họ nên nói. Và Ken Kramer tất nhiên đã như vậy. Gã tự dưng lăn đùng ra chết, mang theo bí mật của mình xuống mồ, và mớ rắc rối gã để lại suýt nữa cũng giết luôn cả tôi.
Lúc đó tôi đang ngồi một mình trong văn phòng mượn. Có một chiếc đồng hồ gắn trên tường. Nó không có kim giây. Chỉ có kim giờ và kim phút. Đồng hồ điện. Nó không kêu tích tắc. Chiếc đồng hồ im bặt, hệt như căn phòng. Tôi nhìn kim phút, thật chăm chú. Nó không chạy.
Tôi đợi.
Kim phút chạy. Nó nhích lên một góc sáu độ. Cử động của nó máy móc, uể oải và chính xác. Nó nhích một lần và khẽ rung lên rồi nằm yên.
Một phút.
Một phút trôi qua, còn một phút nữa.
Sáu mươi giây nữa.
Tôi vẫn nhìn tiếp. Chiếc đồng hồ đứng lặng trong một thời gian dài, thật dài. Rồi kim phút nhích thêm lần nữa. Thêm một góc sáu độ, thêm một phút, điểm đúng giữa đêm, và năm 1989 nhích qua năm 1990.
Tôi đẩy ghế ra và đứng dậy sau bàn làm việc. Điện thoại reo lên. Tôi đoán là ai đó gọi chúc mừng năm mới. Nhưng không phải. Một cảnh sát dân sự điện tới vì ông ta tìm thấy một gã lính nằm chết tại quán trọ cách doanh trại ba mươi dặm.
“Tôi cần sĩ quan Quân cảnh còn trực,” ông ta nói.
Tôi ngồi lại xuống ghế, sau bàn làm việc.
“Có tôi đây,” tôi đáp.
“Bọn tôi tìm thấy người của anh, đã chết.”
“Người của tôi là sao?”
“Một quân nhân đó,” ông ta nói.
“Ở đâu?”
“Ở quán trọ, trong thị trấn.”
“Chết thế nào?” tôi hỏi.
“Trụy tim, chắc vậy,” ông ta đáp.
Tôi ngừng lại. Lật tờ lịch mà quân đội cấp cho đặt trên bàn, từ ba mốt tháng Mười hai sang mồng một tháng Một.
“Có gì khả nghi không?” tôi hỏi.
“Chả thấy gì cả.”
“Ông thấy ca trụy tim nào bao giờ chưa?”
“Nhiều lần rồi.”
“OK,” tôi nói. “Vậy điện qua trụ sở chỉ huy trại nhé.” Tôi cho ông ta số điện thoại.
“Chúc ông năm mới vui vẻ.”
“Anh không đến đây kiểm tra à?” ông ta hỏi.
“Không,” tôi đáp. Tôi cất ống nghe. Cần gì tôi phải đi.
Lục quân là một tổ chức lớn, to hơn Detroit một chút, nhỏ hơn Dallas một tẹo, và không có chỗ cho lòng thương cảm, hệt như hai nơi đó. Số quân nhân tại ngũ là 930.000 người cả nam lẫn nữ, và họ gần như có thể coi là đại diện cho dân số Mỹ nói chung. Tỷ lệ tử vong tại Mỹ là khoảng 865 người trên 100.000 người hằng năm, và khi không tham chiến thì quân nhân cũng chẳng chết chóng hơn hay chậm hơn dân thường là bao. Nhìn chung thì họ trẻ và khỏe mạnh hơn số đông người thường, nhưng đồng thời họ cũng rít thuốc nhiều hơn, nốc rượu nhiều hơn, ăn uống lung tung và chịu nhiều áp lực hơn, và còn phải làm đủ thứ việc nguy hiểm trong quá trình huấn luyện. Vì vậy tuổi thọ của họ chỉ nằm ở ngưỡng trung bình. Quân nhân cũng chết cùng tốc độ như người thường mà thôi. Làm phép toán nhỏ giữa tỷ lệ tử vong với số lượng tại ngũ, ta sẽ có hai mươi hai quân nhân chết hằng ngày mỗi năm, vì tai nạn, tự sát, bệnh tim mạch, ung thư, đột quỵ, bệnh phổi, suy gan, suy thận. Cũng như người dân chết ở Detroit hay Dallas mà thôi. Vậy nên tôi cần gì phải đi kiểm tra. Tôi là cảnh sát, nào phải quản tang.
Chiếc đồng hồ cử động. Kim phút nẩy và nhích lên rồi nằm yên. Ba phút quá nửa đêm. Điện thoại lại reo. Ai đó gọi chúc mừng tôi năm mới. Đó là viên trung sĩ ngồi phòng ngoài.
“Năm mới vui vẻ,” cô nói với tôi.
“Cô cũng vậy nhé,” tôi đáp. “Cô không đứng lên mà ló đầu vào phòng được à?”
“Thế sao sếp không thò đầu ra ngoài?”
“Tôi bận nghe điện thoại.”
“Ai gọi thế?”
“Chẳng ai cả,” tôi đáp. “Có gã nào không sống nổi qua thập kỷ mới thôi.”
“Sếp dùng cà phê chứ?”
“Dĩ nhiên rồi,” tôi nói. “Sao lại không?”
Tôi lại gác điện thoại. Đến nay tôi đã tại ngũ được sáu năm, và cà phê quân đội là một trong những thứ khiến tôi vui vẻ chấp nhận ở lại. Ngon nhất thế giới, khỏi bàn cãi. Các nữ trung sĩ cũng vậy. Cô gái sơn cước này đến từ Bắc Georgia. Tôi mới quen cô được hai ngày. Cô sống trong bãi xe moóc đâu đó ở khu đất cằn Bắc Carolina. Cô có một bé trai. Cô kể với tôi về thằng bé nhiều lắm. Tôi không thấy cô đả động gì về đức ông chồng. Cô xương xẩu và chắc khỏe, cứng rắn hệt mỏ chim gõ kiến, nhưng cô thích tôi. Tôi biết chứ, vì cô pha cà phê cho tôi mà. Họ không thích anh thì đâu có pha cà phê mời anh. Họ găm dao vào lưng anh thì có. Cửa phòng tôi mở và cô bước vào, bưng theo hai cái cốc, một cho cô và một cho tôi.
“Chúc cô năm mới vui vẻ,” tôi nói.
Cô đặt cà phê lên bàn tôi, cả hai cốc.
“Chắc gì đã vui?” cô nói.
“Sao lại không chứ,” tôi nói.
“Bức tường Berlin sập một nửa rồi. Họ chiếu trên ti vi kìa. Ở đấy đương vui như hội.”
“Tôi mừng là ở đâu đó người ta được như vậy.”
“Nhiều người lắm. Đông đúc lắm. Ai cũng hát hò nhảy múa.”
“Tôi không kịp xem tin tức.”
“Cách đây sáu tiếng rồi. Vì khác múi giờ mà.”
“Có khi tiệc vẫn chưa tàn đâu.”
“Họ đem cả búa tạ đến nữa đó.”
“Họ có quyền mà. Nửa bên tường họ là xứ tự do. Phe ta mất bốn mươi lăm năm để giữ gìn điều đó.”
“Sắp tới dám ta chẳng còn kẻ thù nữa.”
Tôi thử món cà phê. Nóng, đậm, đúng là số một thế giới.
“Phe ta thắng rồi,” tôi nói. “Chẳng phải việc tốt sao?”
“Không tốt nếu anh sống nhờ lương quân đội.”
Cô mặc bộ quân phục dã chiến ngụy trang rừng cây đúng chuẩn giống tôi. Tay áo cô gấp thẳng thớm. Băng tay Quân cảnh nằm ngang ngay ngắn. Tôi đoán hẳn cô đã cài ghim cố định ở đằng sau chỗ người ta không thấy. Đôi bốt của cô cũng sáng bóng.
“Cô có bộ ngụy trang sa mạc nào không?” tôi hỏi cô.
“Tôi có bao giờ đến sa mạc đâu,” cô đáp.
“Người ta đổi họa tiết của nó rồi đấy. Họ tô mấy miếng màu nâu to oạch lên trên. Mất năm năm nghiên cứu đấy. Mấy tay lính bộ gọi nó là sô cô la viên. Họa tiết đó chẳng hiệu quả đâu. Rồi họ sẽ phải đổi lại thôi. Nhưng sẽ mất thêm năm năm nữa họ mới nhận ra cơ.”
“Thì sao?”
“Nếu phải mất tới năm năm trời để đổi một họa tiết ngụy trang, thì con cô đã kịp tốt nghiệp đại học trước khi người ta tính chuyện tinh giảm biên chế rồi. Nên cô không phải lo đâu.”
“OK,” cô đáp, không tin lời tôi. “Sếp nghĩ thằng bé đủ sức theo đại học à?”
“Tôi đã gặp nó bao giờ đâu.”
Cô không nói gì.
“Quân đội ngại thay đổi lắm,” tôi nói. “Và ta sẽ luôn có kẻ thù.”
Cô không nói gì. Điện thoại trong phòng lại reo. Cô với tới bốc máy trả lời thay tôi. Cô nghe được độ mười một giây rồi đưa tôi ống nghe.
“Đại tá Garber gọi sếp,” cô nói. “Ông ấy đang ở Thủ đô.”
Cô bưng theo cốc của mình ra khỏi phòng. Đại tá Garber dù sao cũng là sếp của tôi, và tuy là người dễ chịu, ông ta gọi cho tôi vào phút thứ tám của mồng một năm mới hẳn chẳng chỉ để tám chuyện. Kiểu của ông ta không phải như vậy. Mấy tay sếp khác thì còn có thể. Họ vờ hân hoan vào các dịp lễ, làm như mình gần gũi với cấp dưới. Nhưng ông Leon Garber này sẽ chẳng thèm thử trò đó, với bất kỳ ai, nhất là với tôi. Thậm chí nếu có biết trước là tôi ở đây.
“Reacher nghe đây,” tôi nói.
Bên kia im lặng hồi lâu.
“Tôi tưởng cậu ở Panama chứ nhỉ,” Leon Garber lên tiếng.
“Tôi vừa nhận lệnh,” tôi đáp.
“Từ Panama đến trại Bird à? Để làm gì?”
“Tôi đâu dám hỏi.”
“Từ bao giờ thế?”
“Cách đây hai ngày rồi.”
“Chán quá nhỉ,” ông ta nói. “Phải vậy không?”
“Chán ấy à?”
“Ở Panama hẳn vui hơn chứ.”
“Cũng thường thôi,” tôi nói.
“Chưa chi họ đã bắt cậu trực đêm Giao thừa à?”
“Tôi xung phong đấy chứ,” tôi nói. “Tôi đang cố tạo thiện cảm mà.”
“Việc đó vô vọng lắm,” ông ta nói.
“Một trung sĩ vừa pha cà phê cho tôi đấy thôi.”
Bên kia lại im lặng. “Có người vừa gọi báo cậu về tay quân nhân chết ở quán trọ phải không?” ông ta hỏi.
“Mới gọi tám phút trước,” tôi nói. “Tôi chuyển qua cho trụ sở chỉ huy rồi.”
“Trụ sở chỉ huy vừa đẩy việc ấy qua người khác và tôi vừa phải bỏ dở một bữa liên hoan để nghe báo cáo đây này.”
“Vì sao?”
“Vì gã vừa chết là một tướng hai sao.”
Điện thoại chợt im lặng.
“Tôi không hỏi kỹ,” tôi nói.
Vẫn im lặng.
“Tướng cũng chỉ là người phàm” tôi nói. “Giống mọi người.”
Bên kia không trả lời.
“Không thấy dấu hiệu khả nghi nào,” tôi nói. “Gã tự lăn ra chết thôi. Trụy tim mà. Chắc bị gút. Lúc đó tôi thấy không cần phản ứng quá.”
“Đây là vấn đề thể diện,” Garber nói. “Ta đâu thể để mặc một tướng hai sao nằm chết phơi bụng ra cho thiên hạ mà không có động thái nào. Ta cần một người có mặt.”
“Và đó là tôi sao?”
“Tôi toan nhờ người khác cơ. Nhưng chắc cậu là sĩ quan Quân cảnh bậc cao nhất đêm nay không say xỉn rồi. Nên cậu nói đúng đấy, người có mặt sẽ là cậu.”
“Từ đây đến đó cũng mất cả tiếng đồng hồ.”
“Gã còn chạy đi đâu được nữa. Gã ngỏm rồi mà. Và cũng chưa tìm ra tay khám nghiệm tử thi nào còn tỉnh táo giờ này cả.”
“Thôi được,” tôi nói.
“Nhớ cư xử phải phép,” Garber nói.
“Được thôi,” tôi nhắc lại.
“Và lịch thiệp chút. Ngoài doanh trại, ta nằm trong tay họ. Quyền hạn thuộc về bên dân sự đấy.”
“Tôi quen bên dân sự mà. Có lần tôi gặp một gã rồi.”
“Nhưng nhớ phải kiểm soát tình hình,” ông ta nói. “Cậu biết đấy, nếu thấy cần phải kiểm soát.”
“Chắc gã nằm chết trên giường,” tôi nói. “Như người thường thôi.”
“Nhớ gọi tôi,” ông ta tiếp. “Nếu cậu thấy cần.”
“Tiệc liên hoan vui không sếp?”
“Vui cực. Con gái tôi có ghé chơi.”
Ông ta dập máy và tôi điện lại cho viên cảnh sát dân sự để lấy tên và địa chỉ quán trọ. Rồi tôi đặt cốc cà phê lên bàn, kể nữ trung sĩ nghe tình hình rồi về phòng mình thay đồ. Tôi đoán người có mặt phải xuất hiện trong quân phục nghi lễ, chứ không phải bộ ngụy trang rừng cây này.
Tôi lái chiếc Humvee khỏi bãi xe Quân cảnh ra ngoài cổng chính. Trong vòng năm mươi phút tôi đã tìm được quán trọ. Nó nằm cách trại Bird ba mươi dặm về phía Bắc, phải băng qua miền đồng quê Bắc Carolina tối om không có gì đáng chú ý, một tổ hợp đồng đều gồm dăm khu mua sắm nhỏ cùng vài khóm cây lưa thưa và mấy thửa đất im lìm mà tôi đoán là để trồng khoai lang. Cảnh vật quá mới lạ với tôi. Tôi chưa đóng quân ở đây bao giờ. Đường sá vắng tanh. Thiên hạ còn đương tiệc tùng trong nhà. Hy vọng là tôi kịp quay về trại Bird trước khi bá tánh trở ra và bắt đầu lái xe về nhà. Dù thâm tâm tôi mong có dịp đấu đầu chiếc Humvee này với một xe dân thường lắm.
Quán trọ thuộc một cụm các cơ sở kinh doanh thấp nằm túm tụm với nhau trong bóng tối gần một giao lộ cao tốc lớn. Ở trung tâm khu nhà là một trạm dừng xe tải. Nó có một tiệm ăn nhỏ mở xuyên suốt các ngày lễ, và một trạm xăng đủ lớn để tiếp một chiếc xe moóc mười tám bánh. Còn có thêm một quán bar không tên xây bằng gạch thắp đầy đèn nê ông và không cửa sổ. Bên trên gắn bảng hiệu “Có Gái Nhảy” đèn hồng sáng rực, cùng một bãi đậu xe to ngang sân đá bóng. Khắp nơi vương vãi vết dầu máy và những vũng nước ánh cầu vồng. Tôi còn nghe tiếng nhạc xập xình từ bên trong quán bar. Xung quanh xe đỗ chật kín thành ba hàng. Cả khu le lói ánh vàng nhạt từ đèn đường. Trời đêm lạnh và đầy sương mù. Quán trọ nằm ngay đối diện trạm xăng. Một dãy tồi tàn độ hai mươi phòng. Lớp sơn ngoài tường đã tróc khá nhiều. Có vẻ không có khách. Phòng tiếp tân nằm phía cuối dãy bên trái, cùng một bãi xe nhỏ có mái che và máy bán Coca tự động.
Nghi vấn đầu tiên: sao một tướng hai sao lại ở một nơi thế này? Tôi dám chắc sẽ chả ai đòi kiểm tra lại với Bộ Quốc phòng nếu gã muốn thuê phòng ở Holiday Inn.
Có hai chiếc xe cảnh sát đậu bừa mé ngoài căn phòng kế cuối của quán trọ. Kẹp giữa là một chiếc sedan nhỏ đơn giản. Xe đã lạnh và bám sương. Đó là một chiếc xe hiệu Ford phổ thông, màu đỏ, loại bốn xi lanh. Lốp xe mỏng cùng nắp trục bằng nhựa. Xe thuê, hẳn là vậy rồi. Tôi lái chiếc Humvee tới cạnh chiếc xe cảnh sát đậu mé phải và bước ra không khí lạnh giá. Tôi vẫn nghe tiếng nhạc từ bên kia đường, giờ còn to hơn nữa. Căn phòng kế cuối tắt đèn tối om còn cửa thì mở toang. Tôi đoán phía cảnh sát muốn giữ nhiệt độ trong phòng ở ngưỡng thấp. Cố ngăn xác gã kia khỏi trương lên. Tôi nôn nao muốn nhìn mặt gã quá. Tôi khá chắc là mình chưa từng thấy xác chết cấp tướng bao giờ.
Ba viên cảnh sát ngồi trong xe và một người bước ra đón tôi. Ông ta mặc quần đồng phục màu nâu và chiếc áo khoác da ngắn kéo kín tới tận cằm. Không đội mũ. Trên áo khoác có gắn phù hiệu cho tôi hay ông ta tên Stockton và là phó đội trưởng. Tóc ông ta điểm bạc, chừng năm mươi tuổi. Chiều cao trung bình và tướng hơi phệ, nhưng cách ông ta đọc phù hiệu trên áo tôi cho tôi biết có lẽ ông ta là một cựu binh, giống nhiều cảnh sát khác vậy.
“Chào Thiếu tá,” ông ta lên tiếng.
Tôi gật đầu. Một cựu binh, chắc chắn rồi. Một thiếu tá thường có lá sồi màu vàng nhỏ trên cầu vai, rộng hai phân rưỡi, mỗi bên một lá. Ông ta phải ngước lên và chỉ nhìn được một phía cấp hiệu của tôi, không phải một tầm nhìn rõ ràng cho cam. Vậy mà ông ta vẫn biết chúng là gì. Nên ông ta ắt thông thạo quân hàm lắm. Và tôi nhận ra giọng nói này. Chính là người đã gọi tôi, sau Giao thừa đúng năm giây.
“Tôi là Rick Stockton,” ông ta nói. “Phó đội trưởng.”
Giọng rất điềm tĩnh. Hẳn ông ta đã gặp nhiều trường hợp trụy tim.
‘Tôi là Jack Reacher. Sĩ quan Quân cảnh trực đêm nay.”
Ông ta cũng nhận ra giọng tôi. Mỉm cười.
“Cuối cùng thì” ông ta nói. “Anh cũng chịu đến kiểm tra.”
“Ông đâu nói gã vừa chết là tướng hai sao.”
“À, ông ta đúng là thiếu tướng đấy.”
“Tôi chưa thấy xác chết cấp tướng bao giờ,” tôi nói.
“Cũng chẳng mấy người thấy” ông ta đáp, và cách ông ta trả lời khiến tôi nghĩ ông ta là lính nghĩa vụ.
“Ông từng phục vụ Lục quân à?” tôi hỏi.
“Thủy quân lục chiến,” ông ta đáp. “Thượng sĩ.”
“Ông già tôi cũng từng là lính thủy đánh bộ,” tôi nói. Tôi hay đem chuyện đó ra kể, hễ gặp lính thủy đánh bộ. Nghe cho tôi có vẻ con nhà nòi. Để họ khỏi xem tôi chỉ là loại lính quèn. Nhưng tôi nói vắn tắt vậy thôi. Tôi không kể là ông già tôi đã lên đến bậc đại úy. Lính nghĩa vụ với sĩ quan thường không ưa nhau mấy.
“Xe Humvee à,” Stockton nói.
Ông ta nhìn chiếc xe của tôi.
“Anh thích nó không?” ông ta hỏi.
Tôi gật đầu. Humvee là cách đọc gần nhất người ta nghĩ ra được khi muốn nói tới HMMWV - High Mobility Multi-purpose Wheeled Vehicle (xe đa dụng với độ cơ động cao), cái tên nhìn chung nói lên tất cả. Như mọi thứ trong quân đội; người ta gọi thế nào thì nó là thế ấy.
“Ngon như lời đồn,” tôi đáp.
“Trông kềnh càng quá,” ông ta tiếp. “Tôi chẳng muốn đi nó trong thành phố đâu.”
“Ông cho xe tăng đi trước,” tới nơi. “Để mở đường. Tôi nghĩ về cơ bản là vậy.”
Tiếng nhạc trong quán bar vẫn xập xình. Stockton không nói gì thêm.
“Đi xem gã vừa chết thôi nào,” tôi nói.
Ông ta dẫn lối vào phòng. Bật công tắc thắp sáng hành lang trong. Bật thêm một công tắc nữa thắp sáng cả căn phòng. Tôi thấy một lối bài trí thông thường của các quán trọ. Hành lang rộng một yard với tủ đồ bên trái và phòng tắm bên phải. Rồi đến căn phòng chữ nhật dài mười hai feet rộng hai mươi feet với chiếc bàn dài lắp bám tường có bề rộng ngang với tủ đồ, và một giường đôi dài ngang phòng tắm. Trần nhà thấp. Cửa sổ lớn ở phía xa, có phủ rèm, phần tường bên dưới lắp máy điều hòa nhiệt độ. Phần lớn đồ vật trong phòng đều đã cũ, luộm thuộm và có màu nâu. Cả căn phòng trông tù mù, ẩm thấp và thảm hại.
Trên giường có một xác chết đang nằm.
Gã trần như nhộng, nằm sấp mặt. Da trắng, tầm sáu mươi tuổi, khá cao. Tạng người như vận động viên chuyên nghiệp về hưu. Kiểu mấy tay huấn luyện viên. Còn khá cơ bắp, nhưng phần eo đang tụ mỡ như người già, dù họ có săn chắc đến đâu. Chân trắng và nhẵn lông. Người có nhiều sẹo cũ. Tóc bạc trên đầu được húi sát còn phần da sau ót thì dãi dầu mưa nắng và đầy nếp nhăn. Gã đây là một người kiểu mẫu. Trăm người thấy gã thì cả trăm người sẽ nói đây là một sĩ quan quân đội, chắc chắn.
“Ông ta được phát hiện như thế này à?” tôi hỏi.
“Phải,” Stockton đáp.
Nghi vấn thứ hai: Phát hiện bằng cách nào? Gã đây thuê phòng qua đêm, gã phải được riêng tư đến khi nhân viên dọn phòng đến vào sáng hôm sau chứ, ít ra phải vậy.
“Bằng cách nào?” tôi hỏi.
“Bằng cách nào gì?”
“Phát hiện ra đương sự bằng cách nào? Ông ta gọi 911 à?”
“Không.”
“Vậy thì bằng cách nào?”
“Rồi anh sẽ thấy.”
Tôi im lặng. Tôi chưa thấy gì cả.
“Các ông đã lật ông ta lên phải không?” tôi hỏi.
“Phải. Rồi chúng tôi đặt lại ông ta về tư thế cũ.”
“Tôi xem qua được không?”
“Cứ tự nhiên.”
Tôi đến bên giường rồi luồn tay trái dưới nách xác chết và lật gã lên. Cái xác đã lạnh và hơi cứng. Chỉ mới bắt đầu co cứng thôi. Tôi đặt gã nằm ngửa và nhận thấy bốn điều sau. Đầu tiên, da dẻ có màu tái xám đặc trưng. Thứ nhì, cơn sốc và đau đớn còn nguyên trên gương mặt gã. Thứ ba, bàn tay phải nắm lấy cánh tay trái, gần chỗ bắp tay. Và thứ tư, đương sự còn đeo bao cao su. Máu đã thôi dồn xuống từ lâu và dương vật gã không còn cương cứng nên cái bao cao su đó vắt lỏng lẻo, hầu như trống không, như một miếng da trong suốt. Gã đã chết trước khi kịp lên đỉnh. Rõ ràng như vậy.
“Trụy tim đó,” Stockton lên tiếng ở đằng sau.
Tôi gật đầu. Da chuyển xám nhợt là dấu hiệu rõ ràng. Cũng như dấu hiệu của cơn sốc và bất ngờ, cùng cơn đau nhói bất chợt gần bắp tay trái.
“Ác liệt luôn,” tôi tiếp.
“Nhưng trước hay sau khi thâm nhập?” Stockton hỏi, giọng hóm hỉnh.
Tôi nhìn góc để gối. Giường vẫn gọn gàng. Xác chết nằm trên khăn trải giường và khăn trải giường lúc ấy vẫn phủ kín gối. Nhưng ở đó hiện chỗ lõm hình đầu người, và còn dấu vết nếp nhăn nơi cùi chỏ và gót chân ai đó tì xuống tạo thành.
“Lúc xảy ra sự cố cô gái vẫn đang nằm bên dưới ông ta,” tôi nói. “Chắc chắn là vậy. Cô gái phải vật lộn mới thoát ra được.”
“Chết vậy thật khiếp quá.”
“Tôi còn biết nhiều kiểu khác tệ hơn cơ.”
Stockton chỉ cười với tôi.
“Gì thế?” tôi hỏi.
Ông ta không trả lời.
“Không có tung tích của cô gái sao?”
“Không tăm hơi,” ông ta nói. “Bỏ chạy rồi.”
“Tay tiếp tân có thấy cô ta không?”
Stockton lại cười tiếp.
Tôi nhìn ông ta. Rồi chợt hiểu. Quán trọ rẻ tiền gần giao lộ cao tốc có trạm xe tải và quán bar gái nhảy, cách một doanh trại về phía Bắc ba mươi dặm.
“Cô ta là gái điếm,” tôi nói. “Ra đó là cách người ta phát hiện cái xác. Tay tiếp tân biết cô ta. Chợt thấy cô ta xông ra sớm quá. Tay đó thắc mắc liền ghé phòng kiểm tra.”
Stockton gật đầu. “Nó gọi ngay chúng tôi. Đương nhiên cô ta đã cao chạy xa bay từ lâu. Còn tay kia cứ chối bai bải cô ta chưa từng tới đây. Vờ vịt là nơi này không chứa chấp kiểu dịch vụ ấy.”
“Sở các ông từng xử lý vụ nào ở đây chưa?”
“Có đôi lần,” ông ta nói. “Cam đoan với anh nơi này đích thị là chứa chấp kiểu dịch vụ kia, tin tôi đi.”
Kiểm soát tình hình, Garber đã nhắc vậy.
“Bị trụy tim thôi phải không?” tôi nói. “Không còn gì nữa.”
“Có lẽ vậy,” Stockton nói. “Nhưng cần kết quả khám nghiệm tử thi nữa mới kết luận được.”
Căn phòng yên ắng. Tôi chẳng nghe gì ngoài tiếng bộ đàm cảnh sát từ ngoài xe vọng vào, và tiếng nhạc xập xình từ quán bar bên kia đường. Tôi quay lại chiếc giường. Nhìn mặt gã xấu số. Tôi không quen gã. Tôi trông xuống hai bàn tay gã. Bên phải đeo chiếc nhẫn Học viện Quân sự West Point còn bên trái là nhẫn cưới, to, đã cũ, tầm chín cara. Thẻ định danh của gã nằm khuất dưới cánh tay phải đang vươn tới nắm bắp tay trái. Tôi khó nhọc nhấc cánh tay và lấy chiếc thẻ. Thẻ gã có bọc lớp cao su đệm. Tôi kéo chiếc thẻ lên đến khi sợi dây đeo căng chặt lấy cổ gã. Gã tên Kramer, theo Công giáo và nhóm máu O.
“Phía tôi có thể hỗ trợ khám nghiệm tử thi giúp các ông,” tôi nói. “Ở Viện Quân y Walter Reed.”
“Ở tận bang khác sao?”
“Nạn nhân cấp tướng mà.”
“Ra là anh muốn bít chuyện.”
Tôi gật đầu. “Đương nhiên. Chứ ông thì không à?”
“Thì chắc vậy,” ông ta nói.
Tôi buông thẻ định danh rồi rời giường và kiểm tra tủ cạnh giường cùng chiếc bàn dài. Chẳng có gì ở đó. Trong phòng không gắn điện thoại. Một nơi như thế này, tôi đoán hẳn là có điện thoại trả xu ở phòng tiếp tân. Tôi bước qua Stockton và kiểm tra phòng tắm. Ở đấy bên cạnh bồn rửa mặt là chiếc túi đồ vệ sinh cá nhân bằng da màu đen được mua riêng, đóng kín. Trên túi có dập nổi dòng chữ viết tắt KRK. Tôi mở ra và thấy một chiếc bàn chải và con dao cạo râu cùng tuýp thuốc đánh răng nhỏ loại du lịch với kem cạo râu. Chỉ có thế. Không thuốc men gì. Không thuốc trợ tim. Không cái bao cao su nào.
Tôi kiểm tra tủ quần áo. Trong ấy cất bộ quân phục nghi lễ, gấp ngăn nắp trên ba móc áo riêng biệt, chiếc quần treo trên móc đầu tiên còn áo khoác móc thứ hai kế bên và áo sơ mi móc thứ ba. Chiếc cà vạt còn tròng dưới cổ áo sơ mi. Đặt chính giữa ngăn tủ phía trên hàng móc là chiếc mũ sĩ quan. Dây tết chỉ vàng đầy trên ấy. Ở một bên chiếc mũ là chiếc áo lót trắng gấp gọn còn bên kia là chiếc quần lót cùng màu cũng được gấp lại.
Bên dưới tủ quần áo một đôi giày đặt cạnh chiếc túi vải xanh lá bợt màu kê ngay ngắn với thành tủ. Đôi giày đen bóng đựng tất cuộn gọn gàng bên trong. Chiếc túi vải là vật mua riêng và ở các góc căng có gia cố thêm lớp da đã sờn nát. Túi không đựng nhiều đồ lắm.
“Các ông sẽ nhận được kết quả thôi,” tôi nói. “Chuyên viên bên tôi sẽ gửi các ông một bản báo cáo đầy đủ mà không thêm không bớt điều gì. Các ông thấy chi tiết nào không vừa ý, bên tôi sẽ nhường lại cho các ông xử lý, không thắc mắc gì thêm.”
Stockton không nói gì, nhưng tôi không cảm thấy vẻ khó chịu nào từ ông ta. Vài cảnh sát dân sự cũng dễ tính. Doanh trại lớn như trại Bird thường gây ảnh hưởng ít nhiều đến cộng đồng dân cư chung quanh. Vậy nên Quân cảnh thường dành nhiều thời gian tương tác với các đồng nghiệp dân sự, và việc ấy đôi khi khó chịu, đôi khi cũng không đến nỗi nào. Tôi cảm giác tay Stockton này không phải một vấn đề lớn. Ông ta khá thoải mái. Nói chung, tôi thấy ông ta có vẻ hơi lười nhác, và người nhác biếng thường rất vui khi đẩy được gánh nặng cho người khác.
“Bao nhiêu?” tôi hỏi.
“Bao nhiêu gì cơ?”
“Gái điếm ở đây giá bao nhiêu?”
“Tầm hai mươi đô là đủ,” ông ta nói. “Chả có cao lương gì nơi rìa rừng này đâu.”
“Còn giá phòng thì sao?”
“Chắc cỡ mười lăm đô.”
Tôi lật tử thi lại mặt trước. Không dễ dàng gì. Gã này phải nặng đến cả trăm cân là ít.
“Ông nghĩ sao?” tôi hỏi.
“Về cái gì mới được?”
“Về việc để Viện Walter Reed lo chuyện khám nghiệm ấy?”
Thoáng chốc có sự im lặng. Stockton ngắm tường một hồi.
“Chắc là được thôi,” ông ta nói.
Có tiếng gõ cửa phòng. Ra là một cảnh sát ngồi ngoài xe.
“Bên khám nghiệm vừa điện tới,” anh ta nói. “Tận hai tiếng nữa hắn mới đến được. Hôm nay Giao thừa mà.”
Tôi mỉm cười. Từ chắc là được sắp chuyển thành hoàn toàn đồng ý.Hai tiếng nữa thể nào tay Stockton chả phải xử lý vụ khác. Một loạt tiệc liên hoan cùng tan một lúc và đường phố sẽ trở loạn. Hai tiếng nữa ông ta lại chả van tôi bưng gã chết rồi đi cho rảnh. Tôi không nói gì và tay cảnh sát kia trở ra xe ngồi chờ còn Stockton trở vào, đi thẳng ra đứng trước cửa sổ phủ rèm, quay lưng lại với cái xác. Tôi lấy móc treo áo khoác ra khỏi tủ quần áo và treo lên thành cửa phòng tắm nơi ánh sáng đèn hành lang rọi vào.
Ngắm bộ quân phục nghi lễ hệt như đọc một cuốn sách hay ngồi cạnh một gã ở quầy bar và lắng nghe chuyện đời gã. Áo khoác này vừa kích cỡ với cái xác trên giường và có bảng tên Kramer, khớp cái tên ghi trên thẻ định danh. Trên ấy còn đính huân chương Trái tim Tím với hai khóm lá sồi bằng đồng để chỉ ra lần nhận thứ hai và thứ ba của huân chương, cũng hợp với đống sẹo trên người kia. Trên cầu vai gắn hai ngôi sao bằng bạc, đích thị của bậc thiếu tướng. Huy hiệu binh chủng nơi ve áo thuộc Thiết giáp còn phù hiệu trên vai là của Quân đoàn XII. Ngoài ra còn những huân chương nhỏ khác và một mớ thập cẩm những cuống huân chương từ tận thời chiến tranh Việt Nam và Triều Tiên, vài cái trông có vẻ đã phải vào sinh ra tử mới có được, vài cái có thể không tới mức đó. Có nhiều huân chương ngoài ngành khác, và việc đeo chúng là tùy ý chứ không bắt buộc. Đúng là một chiếc áo nặng nề những thành tích, dù cũ kỹ, nhưng được giữ gìn cẩn thận, loại được cấp tiêu chuẩn, không phải may đo riêng. Nhìn chung chiếc áo mách tôi rằng gã này trưng trổ có mục đích, chứ không phải chỉ do bản tính phù phiếm.
Tôi lục túi áo. Tất thảy đều trống rỗng, chỉ có mỗi chìa khóa của chiếc xe thuê. Nó gắn với một móc khóa hình số 1 làm bằng nhựa trong có dán một mảnh giấy, phía trên in chữ Hertz màu vàng còn phía dưới là số xe viết tay bằng mực đen.
Không hề có ví. Không đồng xu lẻ nào.
Tôi đặt chiếc áo vào tủ và kiểm tra đến quần. Túi quần trống hoác. Tôi xem đôi giày. Chẳng có gì ngoài đôi tất. Không gì giấu bên dưới đế. Tôi lôi chiếc túi vải rồi mở ra trên sàn. Bên trong đựng bộ dã chiến và chiếc mũ M43. Một đôi tất và quần lót để thay và đôi giày dã chiến bóng loáng, bằng da đen trơn. Trong ấy còn một ngăn trống mà tôi đoán để đựng túi vệ sinh cá nhân. Không còn gì khác. Chẳng có gì hết. Tôi kéo khóa và cất nó lại chỗ cũ. Tôi ngồi xổm xuống kiểm tra dưới khe giường. Cũng chả có gì luôn.
“Có gì cần để mắt tới không?” Stockton hỏi.
Tôi đứng lên. Lắc đầu.
“Không,” tôi nói dối.
“Vậy nhường lại cho anh đấy,” ông ta nói. “Nhưng tôi phải có một bản báo cáo nhé.”
“Đồng ý,” tôi nói.
“Chúc năm mới vui vẻ,” ông ta nói.
Stockton ra xe ông ta còn tôi về chiếc Humvee của mình. Tôi điện mã lệnh 10-5 yêu cầu hỗ trợ y tế và dặn nữ trung sĩ cử một đội hai người đi theo hộ tống đặng lên danh sách cũng như thu hồi tất cả vật tư của gã Kramer về văn phòng. Rồi tôi ngồi ghế tài chờ đến khi nhóm Stockton đi hết. Tôi trông cho xe họ phi vào màn sương, rồi quay trở vào phòng lấy chiếc chìa khóa xe thuê trong túi áo khoác của gã Kramer. Tôi dùng nó mở cửa chiếc xe Ford đậu ngoài.
Bên trong chẳng có gì ngoài mùi hăng của thuốc tẩy vải da bọc ghế và xấp bản sao hợp đồng thuê xe. Kramer đã nhận xe lúc một giờ ba mươi hai phút chiều tại sân bay Dulles gần Thủ đô Washington. Gã thuê xe bằng thẻ tín dụng American Express cá nhân và được giảm giá. Số dặm lúc mới nhận xe là 13.215. Bây giờ trên đồng hồ hiện 13.513, cứ theo tôi tính thì gã đã chạy được 298 dặm, nghĩa là ứng với quãng đường đi thẳng từ sân bay kia tới quán trọ này.
Tôi cất tờ giấy vào túi quần và khóa lại chiếc xe. Xong thì kiểm tra cốp. Bên trong hoàn toàn trống rỗng.
Tôi bỏ chìa khóa cùng giấy tờ thuê xe vào túi rồi tới quán bar bên kia đường. Tiếng nhạc mỗi lúc một to hơn theo từng bước chân. Cách cả chục yard mà tôi vẫn nghe mùi bia và thuốc lá qua quạt thông gió. Tôi luồn lách giữa các xe đậu trong bãi và tìm thấy cửa vào. Cánh cửa được làm từ gỗ chắc chắn và đang đóng kín hòng ngăn cái lạnh bên ngoài. Tôi kéo mở cửa và ngay lập tức va phải một bức tường âm thanh bát nháo cùng luồng khí nóng ngộp. Trong đây kín đặc người. Tôi có thể thấy chừng năm trăm người và mấy bức tường sơn đen với các đèn rọi màu tím cùng những quả cầu disco. Tôi còn thấy một vũ nữ múa cột trên sân khấu ở đằng xa. Cô ta đang bò bằng cả tứ chi và toàn thân không mặc gì, chỉ có chiếc mũ cao bồi trắng trên đầu. Cô ta cứ thế bò lê khắp nơi, nhặt nhạnh tiền người ta ném lên.
Một gã vạm vỡ mặc áo thun đen đứng ở quầy thu ngân sau cánh cửa. Bóng tối khuất hết mặt hắn. Mảnh sáng mờ hắt lên đủ để tôi thấy ngực hắn phải ngang cỡ chiếc thùng phi. Tiếng nhạc đánh ù cả tai còn người thì đứng sát rạt vai kề vai kín hết sàn nhà. Tôi bước ra và để cánh cửa đóng lại. Cứ thế đứng lặng trong gió lạnh một hồi rồi quay trở lại phòng tiếp tân quán trọ.
Căn phòng thật ảm đạm. Đèn tuýp chiếu sáng khiến cho không gian có sắc xanh mờ và ngoài cửa vọng vào tiếng ồn từ máy bán Coca tự động. Trên tường gắn chiếc điện thoại trả xu còn sàn nhà trải lớp ván sơn đã sờn, cùng một chiếc quầy cao cỡ thắt lưng ốp thứ ván ép giả gỗ người ta thường dùng cho tầng hầm nhà mình. Tay tiếp tân ngồi trên chiếc ghế cao sau quầy. Một tay da trắng chừng hai mươi tuổi với mái tóc dài chưa gội và cái cằm lẹm.
“Mừng năm mới,” tôi nói.
Cậu ta không trả lời.
“Cậu có lấy gì từ phòng người chết không đấy?” tôi hỏi.
Cậu ta lắc đầu. “Không.”
“Nói lại tôi nghe xem nào.”
“Tôi không lấy gì hết.”
Tôi gật đầu. Coi như tin cậu ta.
“OK,” tôi bảo. “Ông ta trả phòng lúc nào?”
“Tôi không biết nữa. Tôi đến lúc mười giờ. Ông ta đã ở đây rồi.”
Tôi gật đầu lần nữa. Gã Kramer đã có mặt ở bãi thuê xe tại sân bay Dulles vào một giờ ba mươi hai phút và số trên đồng hồ cho thấy gã chẳng đi đâu khác mà đến thẳng đây, vì thế hẳn gã đã nhận phòng vào lúc bảy rưỡi. Có thể tám rưỡi, nếu gã dừng ở tiệm ăn nào đó trên đường. Cũng có thể chín giờ đúng, nếu gã lái xe cực kỳ cẩn trọng.
“Ông ta có dùng điện thoại này không?”
“Nó hỏng mất rồi.”
“Thế làm sao gọi được gái điếm?”
“Gái điếm nào cơ?”
“Gái điếm mà ông ta đang chọt thì lăn ra chết ấy.”
“Ở đây làm gì có gái điếm.”
“Vậy ông ta kiếm cô ta ở quán bar sao?”
“Ông ta ở phòng tít dưới kia. Tôi đâu thấy ông ta làm gì.”
“Cậu có bằng lái xe không?”
Cậu ta khựng lại. “Chi vậy?”
“Câu hỏi đơn giản mà,” tôi bảo. “Cậu có hoặc không.”
“Tôi có đây,” cậu ta nói.
“Cho tôi xem,” tôi nói.
Tôi không những to hơn máy bán Coca tự động mà còn đeo đầy phù hiệu và huân chương, nên cậu ta ngoan ngoãn làm theo lời tôi, hệt như mọi cậu trẻ hai mươi gầy nhẳng khác mỗi khi tôi dùng giọng nghề. Cậu ta nhấc mông khỏi ghế rồi thò tay ra sau lấy chiếc ví từ túi quần. Mở nó ra. Bằng lái xe của cậu ta kẹp dưới lớp nhựa ép đã đục màu. Trên ấy có ảnh cậu ta, cùng tên tuổi và địa chỉ.
“OK” tôi nói. “Giờ tôi đã biết nhà cậu ở đâu. Tôi sẽ quay lại hỏi thêm sau. Nếu tôi không gặp cậu ở đây thì sẽ ghé nhà tìm.”
Cậu ta không nói gì với tôi. Tôi quay đi, đẩy cửa ra và trở về chiếc Humvee mà đợi.
Bốn chục phút sau xe quân y và một chiếc Humvee khác trờ tới. Tôi bảo người của mình thu hồi mọi thứ kể cả chiếc xe thuê, nhưng không ở lại trông chừng họ. Thay vào đó tôi trở về doanh trại. Tôi ký giấy nhập trại và lên văn phòng mượn của mình rồi bảo nữ trung sĩ điện ngay cho Garber. Tôi đợi ở bàn làm việc chờ cú gọi được thông qua. Tôi đợi chưa đầy hai phút.
“Đầu đuôi thế nào?” ông ta hỏi.
“Tên gã là Kramer,” tôi nói.
“Tôi biết rồi,” Garber bảo. “Tôi nói chuyện với điều phối viên ngay sau khi điện cho cậu mà. Gã bị làm sao?”
“Trụy tim,” tôi nói. “Trong khi đang quan hệ cùng gái bán dâm. Tại một quán trọ mà đến gián cũng không muốn rúc đầu vào.”
Bên kia im lặng hồi lâu.
“Bỏ mẹ,” Garber lên tiếng. “Gã có vợ rồi.”
“Vâng, tôi có để ý thấy nhẫn cưới. Và nhẫn West Point nữa.” “Tốt nghiệp khóa 52,” Garber nói. “Tôi kiểm tra rồi.” Điện thoại lại im bặt.
“Khổ thế chứ,” ông ta lại lên tiếng. “Sao người khôn lắm lúc trở dại như thế nhỉ?”
Tôi không trả lời, bởi tôi đâu biết.
“Ta phải kín tiếng chút,” Garber dặn.
“Sếp yên tâm,” tôi nói. “Việc giữ kẽ đã liệu rồi. Dân sự địa phương đã đồng ý để tôi chuyển gã đến Walter Reed.”
“Tốt,” ông ta bảo. “Tốt lắm.” Rồi ông ta khựng lại. “Cậu thuật lại từ đầu xem nào?”
“Gã mặc bộ quân phục có phù hiệu Quân đoàn XII,” tôi kể. “Nghĩa là gã đóng quân tại Đức. Đáp xuống sân bay Dulles hôm qua. Chắc bay từ Frankfurt. Chuyến dân dụng thôi, chắc luôn, bởi gã mặc nguyên bộ quân phục nghi lễ, mong được đổi hạng ghế tốt hơn. Đi quân dụng thì đã mặc bộ dã chiến rồi. Rồi gã thuê một chiếc xe cà tàng và chạy hai trăm chín mươi tám dặm đến nhận phòng trọ giá mười lăm đô và thuê gái làng chơi giá hai mươi đô.”
“Tôi biết về chuyến bay,” Garber nói. “Tôi đã gọi Quân đoàn XII và trao đổi với người của gã. Tôi bảo họ gã chết rồi.”
“Khi nào thế?”
“Ngay sau khi điện cho điều phối viên.”
“Sếp có nói gã chết như thế nào hay bao giờ không?”
“Tôi bảo chắc là trụy tim thôi, không gì hơn, không chi tiết, không địa điểm, giờ ngẫm lại có lẽ là một quyết định sáng suốt.”
“Thế còn về chuyến bay?” tôi hỏi.
“Hãng American Airlines, hôm qua, Frankfurt qua Dulles, đáp lúc một giờ chiều, nối chuyến tiếp theo chín giờ sáng nay, từ Washington Nationals đến sân LAX. Gã toan đến Hội nghị Binh chủng Thiết giáp ở trại Irwin. Gã là tướng Thiết giáp ở châu Âu. Có máu mặt đấy. Vài năm tới dám lên đến phó tham mưu trưởng lắm. Lần này đến lượt phía Thiết giáp ngồi ghế nóng. Tay đương nhiệm là bộ binh, và họ thích xoay vòng. Nên gã là ứng cử viên tiềm năng. Cơ mà giờ thì còn ứng với cử gì được nữa, nhỉ?”
“Phải rồi,” tôi nói. “Chết ngắc rồi mà.”
Garber không trả lời.
“Gã định ở đây bao lâu?” tôi hỏi.
“Gã sẽ trở về Đức trong vòng một tuần.”
“Tên gã đầy đủ là gì thế sếp?”
“Kenneth Robert Kramer.”
“Tôi dám cá sếp biết luôn ngày sinh tháng đẻ,” tôi nói. “Kể cả quê chôn nhau của gã nữa.”
“Thì sao?”
“Cả số chuyến bay và số ghế. Rồi chính phủ trả bao nhiêu cho cuốc bay ấy. Rồi gã có yêu cầu thức ăn là đồ chay hay không. Và phòng nào phía Nhà khách Sĩ quan trại Irwin sẽ xếp cho gã ở chính xác nữa.”
“Ý cậu là gì?”
“Ý tôi là, sao tôi không biết những thông tin ấy?”
“Sao cậu biết được?” Garber nói. “Tôi điện thoại tới lui còn cậu mải lục soát quán trọ.”
“Sếp biết không?” tôi bảo. “Mỗi khi đi công tác ở đâu tôi đều được giao cả xấp nào là vé máy bay rồi giấy đi đường rồi phiếu đặt phòng, và nếu ra nước ngoài thì có hộ chiếu nữa. Còn nếu tôi đi dự hội nghị thì sẽ có một chiếc cặp chật cứng các thứ linh tinh khác.”
“Cậu vòng vo gì vậy?”
“Tôi muốn nói là có nhiều thứ bị mất ở phòng trọ ấy. Vé máy bay, phiếu đặt phòng, hộ chiếu, lịch trình. Nói chung, là những vật lỉnh kỉnh người ta hay nhét vào cặp ấy.”
Garber không phản hồi.
“Gã có một túi đồ,” tôi nói. “Vải bạt màu xanh lá, viền da màu nâu. Dám cá sếp một ăn mười là gã có một chiếc cặp đồng bộ với cái túi ấy. Có thể là vợ gã chọn cả hai thứ đó. Chắc đặt mua của L.L.Bean. Có thể nhân dịp Giáng sinh, mười năm trước.”
“Vậy cái cặp đó không có ở hiện trường à?”
“Có lẽ gã còn đựng cả ví tiền trong cặp, khi mặc bộ quân phục nghi lễ. Huân chương dày đặc vậy sẽ ép chặt túi áo trong.”
“Rồi sao?”
“Tôi đoán cô bán hoa kia trông thấy chỗ gã để ví sau khi gã rút ra trả tiền ả. Rồi khi đang hành sự, gã lăn ra chết, ả thấy cơ hội kiếm chác thêm chút ít. Tôi nghĩ chính ả đã lấy cắp cặp của gã.”
Garber im lặng một thoáng.
“Liệu có thành chuyện lớn không?” ông ta hỏi.
“Tùy xem trong cặp ấy đựng thứ gì nữa,” tôi nói.