HAI
Tôi đặt điện thoại xuống và đọc mẩu giấy nữ trung sĩ để lại cho mình: Anh trai anh vừa gọi. Không để lại tin nhắn. Tôi gấp mẩu giấy và vứt nó vào thùng rác. Xong tôi trở về phòng và ngủ một giấc ba tiếng đồng hồ. Sau đó tỉnh dậy đúng năm mươi phút trước bình minh. Tôi trở lại quán trọ thì mặt trời vừa rạng. Buổi sáng cũng chẳng giúp nơi này khá khẩm hơn chút nào. Cảnh sắc khắp mấy dặm xung quanh trông thật sầu thảm và vắng vẻ. Im ắng nữa. Không một vật gì nhúc nhích. Sáng sớm mồng một luôn là thời khắc một nơi thưa dân cư đạt đến trạng thái gần như chết lặng. Giao lộ cao tốc trống trơn. Không bóng dáng xe cộ. Một chiếc cũng không.
Quán ăn ven trạm xe tải dù mở cửa nhưng trống khách. Phòng tiếp tân quán trọ cũng chẳng có ai. Tôi bước dọc hành lang tới căn phòng kế cuối. Phòng gã Kramer. Cửa bị khóa. Tôi đứng tựa lưng vào cửa và tưởng tượng mình là cô nàng bán hoa vừa chứng kiến khách bị đột tử. Tôi hẩy cái xác to đùng kia khỏi người rồi vội mặc quần áo, sau đó cuỗm theo chiếc cặp của gã và vắt chân lên cổ mà chạy. Thế tôi sẽ làm gì? Tôi nào có quan tâm gì tới cái cặp. Tôi muốn xấp tiền bên trong ví gã kìa, và có lẽ cả chiếc thẻ tín dụng American Express nữa. Vậy nên tôi sẽ lục tung để lấy hết tiền rồi vứt chiếc cặp đi. Nhưng tôi sẽ thực hiện hết những việc ấy ở đâu?
Bên trong căn phòng là tiện nhất. Nhưng tôi đã không làm thế, vì lý do nào đó. Có lẽ vì tôi đã phát hoảng. Có lẽ tôi đã sốc đến bay hồn vía và chỉ muốn tháo chạy, thật nhanh. Vậy còn nơi nào nữa? Tôi trông thẳng đến quán bar. Có lẽ tôi sẽ đến đấy. Đó có lẽ cũng là nơi tôi đón khách. Nhưng lẽ nào tôi lại bưng chiếc cặp vào trong. Đồng nghiệp sẽ để ý ngay, bởi vốn tôi đã mang bên mình cái túi xách khá to rồi. Gái bán hoa nào mà chả mang túi to. Thiếu gì thứ phải đem theo. Bao cao su, dầu mát xa, có thể là một con dao hay khẩu súng gì đó, có thể là máy cà thẻ nữa. Đấy là cách dễ nhất để phát hiện một cô làng chơi. Cứ tìm ai ăn mặc như đi hội, mà đeo cái túi như sắp đi du lịch.
Tôi quay sang trái. Có lẽ tôi đã vòng ra sau quán trọ. Nơi ấy hẳn im ắng hơn. Cửa sổ xung quanh đều hướng về đó, nhưng đêm rồi nên tôi nghĩ chắc màn cũng đã kéo kín hết cả. Tôi quẹo trái rồi quẹo trái lần nữa đến phía sau dãy phòng ngủ nơi có một khoảnh sân chữ nhật đầy cỏ dại chạy dọc bờ tường tòa nhà và rộng khoảng hai mươi feet. Tôi tưởng tượng mình bước đi vội vàng rồi dừng giữa góc tối nhất và lục lọi chiếc cặp bằng tay. Tôi tưởng tượng mình tìm thấy vật mình muốn rồi quẳng chiếc cặp vào bóng tối. Tôi có thể đã ném nó đi khoảng ba mươi feet.
Tôi đứng nơi cô ta có thể đã đứng và rà mắt khắp các góc xung quanh. Tôi có một khoảng một trăm năm mươi feet vuông để kiểm tra. Mặt đất khá cứng và gần như đóng băng bởi sương đêm. Tôi tìm được kha khá thứ. Nào là rác rưởi rồi kim tiêm đã dùng, thêm vài ống tẩu hút ma túy cuộn từ giấy bọc cùng vài nắp trục bánh xe hiệu Buick và một cái ván trượt. Nhưng không thấy chiếc cặp táp đâu cả.
Phía cuối bãi đậu xe có dựng một hàng rào bằng gỗ. Nó cao chừng sáu feet. Tôi đu lên thành và nhìn ra phía sau. Thêm một khoảng sân chữ nhật đầy cỏ dại và sỏi đá nữa. Không thấy bóng dáng chiếc cặp đâu cả. Tôi nhảy xuống hàng rào rồi bước đến phía sau lưng phòng tiếp tân quán trọ. Ở đấy có ô cửa sổ bằng kính mờ bẩn bẩn mà tôi đoán là nhà tắm cho nhân viên. Bên dưới là một đống nhỏ những máy lạnh đã hỏng. Tất cả đều gỉ sét. Hàng mấy năm trời không ai động đến. Tôi đi tiếp qua một góc tường và quẹo trái đến một khoảng sân rải sỏi đầy cỏ dại có đặt một chiếc thùng rác. Tôi mở nắp thùng. Rác lên đến ba phần tư thùng. Không có chiếc cặp táp.
Tôi băng qua đường, đi hết bãi đỗ xe vắng tanh và quan sát quán bar. Quán im ắng và đã đóng kín cửa nẻo. Mấy bảng hiệu nê ông đã tắt hết và các ống đèn nhỏ xíu cong cong kia trông lạnh ngắt, chết chóc. Quán có thùng rác riêng, gần bãi xe, nằm yên một góc như một chiếc xe đang đỗ vậy. Bên trong cũng không có chiếc cặp táp.
Tôi chui vào quán ăn. Bên trong vẫn vắng hoe. Tôi kiểm tra sàn nhà quanh mấy cái bàn và băng ghế trong các buồng con. Tôi nhìn sàn nhà phía sau quầy tính tiền. Nơi ấy đặt chiếc hộp các tông chứa vài cây dù người ta bỏ quên. Nhưng không có chiếc cặp. Tôi kiểm tra phòng vệ sinh nữ. Không cô nào trong đó. Cũng không cặp táp luôn.
Tôi nhìn đồng hồ rồi trở lại quán bar. Tôi cần phải hỏi trực tiếp vài người ở đó. Nhưng nơi này ít nhất tám tiếng sau mới mở cửa. Tôi quay lại nhìn qua quán trọ bên kia đường. Trong văn phòng vẫn chẳng thấy ai. Nên tôi trở lại chiếc Humvee vừa kịp lúc nghe đài phát mã lệnh 10-17. Lệnh hồi trại. Tôi đáp đài rồi nhấn ga chạy một mạch về trại Bird. Trên đường vắng tanh nên tôi về tới nơi trong vòng bốn mươi phút. Tôi trông thấy chiếc xe gã Kramer đã thuê đỗ trong bãi xe. Một người mới đang ngồi ở cái bàn bên ngoài văn phòng mượn của tôi. Một viên hạ sĩ. Trực buổi sáng. Cậu ta là một tay nhỏ con ngăm đen trông như dân Louisiana. Chắc chắn là có máu Pháp. Cứ máu Pháp là tôi nhận ra ngay.
“Anh trai sếp lại vừa gọi,” tay hạ sĩ lên tiếng.
“Chi vậy?”
“Không để lại lời nhắn ạ.”
“Phát lệnh 10-17 làm gì thế?”
“Đại tá Garber yêu cầu lệnh 10-19 ạ.”
Tôi mỉm cười. Ta có thể dành cả đời mình không nói gì khác ngoài lệnh 10-này hay lệnh 10-kia. Nhiều lúc tôi có cảm giác chính mình cũng đã như vậy rồi. Lệnh 10-19 tới qua đường điện thoại hay điện đài. Không nghiêm trọng bằng lệnh 10-16, được gửi qua đường dây cố định. Đại tá Garber yêu cầu lệnh 10-19 hiểu đơn giản là Garber muốn anh điện lại cho ông ta, vậy thôi. Nhiều đơn vị Quân cảnh bắt đầu dùng tiếng Anh thông thường rồi, nhưng rõ ràng tay này vẫn quen thói cũ.
Tôi bước vào phòng và trông thấy túi xách của Kramer đặt sát tường còn bên cạnh là chiếc hộp các tông đựng giày tất và quần lót cùng chiếc mũ. Bộ quân phục của gã vẫn còn được treo trên móc quần áo riêng. Họ treo chúng cái trước cái sau trên giá áo khoác của tôi. Tôi bước qua đống đồ tới cái bàn mượn của mình rồi điện cho Garber. Trong lúc nghe tiếng chuông chờ điện thoại tôi thắc mắc không biết anh mình gọi tới làm gì. Thắc mắc làm sao anh dò ra tôi ở đây. Sáu mươi tiếng trước tôi ở Panama. Trước đó nữa thì tôi đi khắp nơi. Tìm được tôi hẳn tốn nhiều công sức lắm. Vậy nên dám là chuyện gì quan trọng đây. Tôi với lấy cây bút chì và viết tên Joe lên một mảnh giấy. Rồi tôi gạch chân cái tên, hai lần.
“A lô?” Leon Garber nói vào tai tôi.
“Tôi Reacher đây,” tôi nói. Đồng hồ trên tường điểm hơn chín giờ sáng một chút. Chuyến bay nối của gã Kramer tới sân bay LAX cất cánh rồi.
“Đúng là trụy tim rồi,” Garber bảo. “Không nghi ngờ gì nữa.”
“Viện Walter Reed nhanh tay nhỉ.”
“Gã cấp tướng mà.”
“Tướng mà tim tệ nhỉ.”
“Động mạch tệ, thế chính xác hơn. Xơ vữa động mạch nặng dẫn tới rung thất. Bên viện họ bảo vậy. Và tôi cũng tin. Chắc gã bị ngay khi ả bán hoa cởi áo ngực.”
“Gã đâu có đem theo thuốc men gì.”
“Chắc có bệnh mà không biết. Thiếu gì trường hợp thế. Cậu đang khỏe, tự dưng lăn ra chết. Dù gì cũng không cách nào dàn dựng được. Cậu có thể giả rung thất bằng cách sốc điện, có lẽ, nhưng làm sao giả được bốn mươi năm phá hoại động mạch.”
“Ta đang lo là vụ này được dàn dựng sao sếp?”
“KGB có thể được lợi,” Garber nói. “Kramer và đội xe tăng của gã là mối lo chiến lược lớn nhất của Hồng Quân đấy.”
“Hiện tại Hồng Quân đang lo ngó chỗ khác mà.”
“Giờ còn quá sớm để biết liệu họ có quay đầu lại hay không.”
Tôi không trả lời. Điện thoại im bặt.
“Tôi không thể để ai chõ mũi vào vụ này được,” Garber nói. “Chưa tới lúc. Trong hoàn cảnh này. Cậu hiểu mà, phải không?”
“Thì sao ạ?”
“Thì cậu phải lo vụ bà góa chứ sao,” Garber bảo.
“Tôi á? Vợ gã đang ở Đức mà?”
“Bà ta đang ở bang Virginia này. Về đây nghỉ lễ. Họ có nhà riêng ở đấy mà.”
Ông ta đọc tôi địa chỉ và tôi ghi lại trên mẩu giấy, ngay dưới chữ Joetôi gạch chân ban nãy.
“Bà ta có ở cùng ai không?” tôi hỏi.
“Hai người không có con. Nên chắc ở một mình thôi.”
“OK,” tôi bảo.
“Bà ta chưa biết đâu,” Garber nói. “Phải mãi tôi mới dò ra được bà ta.”
“Sếp cần tôi đưa mục sư theo cùng không?”
“Gã có chết trận đâu. Cậu đi cùng một nữ cộng sự cũng được, tôi nghĩ vậy. Có khi bà nhà Kramer cần được ôm vỗ về.”
“OK.”
“Né chi tiết ra, dĩ nhiên. Gã trên đường đến trại Irwin, thế thôi. Đột tử khi nghỉ chân ở khách sạn. Ta phải đồng nhất chi tiết này. Ngoài cậu và tôi ra chưa có ai biết điều gì khác nữa, và ta sẽ giữ kín như vậy. Nhưng cậu muốn kể với cộng sự trong chuyến tới đây thì tùy, vậy nhé. Bà nhà Kramer dám sẽ hỏi nhiều, nên hai người cần biết đường chung mà trả lời. Còn cảnh sát địa phương thì sao? Có khả năng họ rò thông tin không?”
“Người tôi gặp ban nãy từng là lính thủy đánh bộ. Ông ta biết luật mà.”
“Semper Fi,” Garber nói. Trọn đời trung thành.
“Tôi vẫn chưa tìm được chiếc cặp,” tôi bảo.
Điện thoại lại im lặng.
“Cứ lo bà góa trước đi,” Garber nói. “Rồi tìm tiếp.”
Tôi dặn viên hạ sĩ trực ban ngày kia chuyển đồ đạc của Kramer qua phòng mình. Tôi muốn giữ chúng an toàn. Trước sau gì bà góa cũng sẽ đòi chúng. Và đồ đạc thì dễ biến mất lắm, ở cái trại lớn như trại Bird này, mà nếu thế thì mất mặt quá. Rồi tôi ghé nhà ăn sĩ quan tìm xem có ai đang ăn bữa sáng muộn hoặc bữa trưa sớm. Họ thường ngồi tụm lại một góc xa những người khác, bởi những người khác ghét họ. Tôi thấy một nhóm bốn người, hai nam hai nữ. Ai cũng mặc đồ dã chiến ngụy trang rừng cây, vốn là trang phục ở trại tiêu chuẩn. Một trong hai cô là đại úy. Tay cô ta bó bột. Trông ăn uống khó nhọc lắm. Thế thì lái xe cũng khó. Cô kia thì đeo huy hiệu trung úy hai bên ve áo và đính bảng tên ghi Summer. Cô chừng hai mươi lăm tuổi, người thấp và thon gọn. Làn da cô tiệp với màu gỗ gụ của bàn ăn cô đang ngồi.
“Trung úy Summer,” tôi gọi.
“Thưa có?”
“Mừng năm mới,” tôi nói.
“Sếp cũng vậy ạ.”
“Hôm nay cô bận không?”
“Thưa, nhiệm vụ thông thường thôi ạ.”
“Được, ba mươi phút nữa ra cửa, chuẩn bị quân phục lễ phục. Tôi cần cô ôm một bà góa.”
Tôi lại khoác bộ lễ phục của mình lên và gọi bãi xe yêu cầu một chiếc sedan. Tôi không muốn lái chiếc Humvee đến tận bang Virginia. Quá ồn ào và không thoải mái. Một binh nhì đưa tôi chiếc Chevrolet màu xanh ô liu. Tôi ký nhận xe và lái đến trụ sở chỉ huy trại đợi.
Trung úy Summer bước ra vào khoảng giữa phút thứ hai mươi tám trong thời gian ba mươi phút mà tôi cho phép. Cô dừng lại một giây rồi bước tới chỗ xe. Trông ổn lắm. Tuy thấp bé, nhưng cô đi đứng rất linh hoạt, trông uyển chuyển lắm. Cô như phiên bản nhỏ gọn hơn của một người mẫu cao mét tám. Tôi bước ra xe và để cửa phía tài xế mở. Đón cô trên vỉa hè. Cô đeo phù hiệu thiện xạ bậc cao với các thanh nhỏ điểm loại vũ khí móc bên dưới, gồm súng trường, súng trường nòng nhỏ, súng trường tự động, súng lục, súng lục nòng nhỏ, súng máy và súng tiểu liên. Phù hiệu như chiếc thang dây dài chừng năm phân. Dài hơn cả của tôi nữa. Tôi chỉ có hai thanh là súng trường và súng lục thôi. Cô dừng lại trước mặt tôi và đứng nghiêm rồi giơ tay chào đúng chuẩn.
“Thưa, Trung úy Summer có mặt,” cô nói.
“Không cần thế đâu,” tôi đáp. “Xưng hô thông thường thôi, OK? Cứ gọi tôi là Reacher, hoặc thôi. Khỏi giơ tay chào. Tôi không thích đâu.”
Cô khựng lại. Rồi thả lỏng người.
“OK,” cô nói.
Tôi mở cửa ghế phụ và ngồi vào.
“Tôi lái ạ?” cô hỏi.
“Tôi thức gần nguyên đêm rồi.”
“Ai chết thế sếp?”
“Tướng Kramer,” tôi nói. “Tướng Thiết giáp cấp cao ở châu Âu.”
Cô khựng lại lần nữa. “Thế ông ta làm gì ở đây? Trại này toàn bộ binh thôi mà.”
“Chỉ đi ngang thôi,” tôi đáp.
Cô bước vào phía cửa kia và chỉnh ghế tài ra trước hết cỡ. Chỉnh lại gương chiếu hậu. Còn tôi đẩy ghế phụ ra đằng sau thật xa cho thật thoải mái.
“Đi đâu đây sếp?” cô hỏi.
“Tới khu Green Valley, bang Virginia,” tôi đáp. “Khoảng bốn tiếng chạy xe, tôi đoán thế.”
“Nhà bà góa ở đấy ạ?”
“Bà ta về chơi lễ,” tôi đáp.
“Vậy ta là người báo tin sao sếp? Kiểu như, mừng bà năm mới nhé, à nhân tiện, chồng bà chết rồi, thế ư?”
Tôi gật đầu. “Lộc dành cho ta đấy.” Nhưng tôi không quá lo lắng. Vợ tướng cũng mạnh mẽ lắm. Hoặc họ dành ba mươi năm chống đẩy cho chồng leo lên cột cấp bậc nhầy nhụa ấy, hoặc họ chịu đựng ba mươi năm khốn khổ từ quá trình tự mình leo lấy của mấy ông chồng. Dù thế nào cũng chẳng còn gì đủ sức quật ngã được họ nữa. Vợ tướng gan lì hơn lang quân của mình nhiều, thường là vậy.
Summer cởi mũ và ném ra băng ghế sau. Tóc cô hớt ngắn. Gần như cạo. Cô có hộp sọ nhỏ nhắn và đôi gò má đẹp. Làn da mịn màng. Tôi thích vẻ ngoài của cô. Và còn cô lái nhanh nữa. Không phải bàn cãi. Cô cài dây an toàn rồi trực chỉ hướng Bắc lao đi như thể đang tập đua xe giải NASCAR.
“Chết do tai nạn hả sếp?” cô hỏi.
“Trụy tim thôi,” tôi đáp. “Động mạch tơi tả hết.”
“Ở đâu thế? Nhà khách sĩ quan?”
Tôi lắc đầu. “Tại một quán trọ nhếch nhác trong thị trấn. Gã lăn ra chết đè lên gái bán hoa giá hai mươi đô nằm đâu đó bên dưới.”
“Ta không nhắc đến chi tiết đó với bà góa chứ?”
“Không, đương nhiên. Không nói ai biết luôn.”
“Thế ông ta ghé ngang đây làm gì?”
“Gã có đến trại Bird đâu. Gã nối chuyến bay ở Thủ đô. Từ Frankfurt đến Dulles, rồi hai mươi tiếng sau từ National đến LAX. Gã định đến trại Irwin dự hội nghị.”
“OK,” cô đáp, rồi im lặng rất lâu. Xe vẫn lăn bánh. Chúng tôi đã đi được ngang quãng đường tới quán trọ, nhưng chếch về hướng Tây, thẳng tới đường cao tốc.
“Xin phép được có ý kiến?” cô nói.
“Cứ thoải mái,” tôi đáp.
“Đây là bài kiểm tra ạ?”
“Sao lại kiểm tra?”
“Sếp đến từ Đội Đặc nhiệm số 110, phải không ạ?”
“Phải,” tôi đáp. “Đúng rồi.”
“Chả là tôi đang chờ được phê duyệt chuyển công tác qua ấy.”
“Qua Đội 110 á?”
“Vâng,” cô nói. “Vậy đây có phải bài sát hạch kín không ạ?”
“Sát hạch việc gì?”
“Việc tôi xin gia nhập,” cô nói.
“Tôi cần một nữ cộng sự cho chuyến này. Phòng khi bà góa thích được ôm ấp an ủi. Tôi ngẫu nhiên chọn cô thôi. Viên đại úy gãy tay kia làm sao lái được xe. Vả lại đợi đến dịp có ông tướng nào đó lăn ra chết mới tổ chức sát hạch thì không hiệu quả lắm đâu.”
“Chắc vậy,” cô nói. “Nhưng không biết có phải sếp đang đợi tôi hỏi những câu hỏi hiển nhiên không.”
“Tôi luôn trông đợi những cán bộ Quân cảnh có đầu óc biết hỏi cho rõ ngọn ngành sự việc, dù họ có đang chờ duyệt đơn thuyên chuyển qua đội đặc nhiệm hay không.”
“OK, vậy để tôi hỏi. Tướng Kramer có hai mươi tiếng đợi nối chuyến bay ở khu Thủ đô, ông ta cũng muốn chơi bời và sẵn lòng móc hầu bao. Vậy sao phải lái xe đến tận đây cho chuyện đó? Phải đến gần ba trăm dặm, đúng không?”
“Hai trăm chín mươi tám dặm,” tôi chỉnh.
“Rồi còn phải quay ngược lại cả chặng đường ấy nữa.”
“Rõ ràng.”
“Vậy thì tại sao?”
“Cô nói đi chứ,” tôi bảo. “Cứ đề xuất giả thuyết nào tôi chưa nghĩ tới rồi tôi sẽ tiến cử để cô được thuyên chuyển.”
“Sếp đâu làm được. Sếp đâu phải sĩ quan chỉ huy của tôi.”
“Có thể chứ,” tôi bảo. “Ít ra cũng trong tuần này.”
“Thực ra tại sao sếp lại ở đây? Có chuyện gì đang diễn ra mà tôi cần biết không?”
“Tôi có biết mình làm gì ở đây đâu,” tôi bảo. “Tôi nhận được lệnh. Chỉ biết vậy thôi.”
“Sếp có thực là thiếu tá không vậy?”
“Lần cuối tôi kiểm tra thì đúng,” tôi bảo.
“Tôi tưởng ban điều tra của Đội 110 thường là chuẩn úy thôi chứ. Mặc thường phục hay công tác ngầm thôi.”
“Thường là vậy.”
“Vậy sao phải đưa chính sếp ra tận đây trong khi chỉ cần cử một viên chuẩn úy giả làm thiếu tá là được?”
“Hỏi hay lắm,” tôi bảo. “Chắc sớm muộn tôi cũng biết thôi.”
“Cho phép tôi hỏi sếp nhận được lệnh gì vậy?”
“Nhiệm vụ biệt phái tạm thời là đảm nhận vai trò sĩ quan điều hành cho chỉ huy trưởng Quân cảnh của trại Bird.”
“Chỉ huy trưởng đương nhiệm hiện đang vắng mặt,” cô nói.
“Tôi biết,” tôi nói. “Tôi phát hiện ra chuyện đó. Hắn ta được chuyển đi cùng ngày tôi chuyển đến. Có việc gì tạm thời ấy mà.”
“Vậy ra sếp là quyền sĩ quan chỉ huy.”
“Tôi nói rồi mà.”
“Sĩ quan điều hành Quân cảnh đâu phải việc của đội đặc nhiệm,” cô nói.
“Tôi giả vờ được mà,” tôi bảo. “Gốc tôi là Quân cảnh, như cô thôi.”
Summer không nói gì. Lặng lẽ lái xe.
“Gã Kramer,” tôi lên tiếng. “Sao gã phải thực hiện một chuyến đi sáu trăm dặm vừa đi vừa về? Có hai mươi tiếng nghỉ thì đã mất mười hai tiếng đi rồi. Chỉ để tiêu mười lăm đô thuê phòng và hai mươi đô chơi gái thôi sao?”
“Thì có làm sao? Trụy tim là trụy tim, phải không sếp? Ý tôi là, còn vấn đề gì khác không?”
Tôi lắc đầu. “Viện Walter Reed khám nghiệm xong rồi.”
“Vậy thì trụy tim ở đâu hay lúc nào có hề gì.”
“Gã mất chiếc cặp táp.”
“Ra vậy,” Summer đáp.
Tôi thấy cô đang ngẫm nghĩ. Mi mắt dưới của cô hơi hấp háy.
“Làm sao sếp biết ông ta có chiếc cặp táp?” cô hỏi.
“Có biết đâu. Nhưng cô có bao giờ thấy ông tướng nào đi dự hội nghị mà không đem theo cặp táp không?”
“Không,” cô nói. “Sếp nghi cô nàng kia cuỗm mất à?”
Tôi gật đầu. “Giả thiết hiện tại của tôi là vậy.”
“Vậy thì, phải tìm cô ta.”
“Đó là ai?”
Mi mắt của cô lại hấp háy.
“Thật vô lý,” cô đáp.
Tôi gật đầu lần nữa. “Chính xác.”
“Có bốn lý do khả thi vì sao Kramer không ở lại khu Thủ đô. Một, ông ta hẳn đã đi cùng vài sĩ quan khác và không muốn mất mặt với họ khi dắt gái vào phòng. Có khả năng họ sẽ thấy cô ta ngoài hành lang hay nghe tiếng trong phòng vọng ra. Vậy nên ông ta viện lý do nào đó để chuyển trọ nơi khác. Hai, nếu có đi một mình chăng nữa thì ông ta hẳn cũng dùng giấy đi đường do Bộ Quốc phòng cấp và Ông ta nơm nớp lo sợ chuyện một tay tiếp tân nào đó nhìn thấy cô gái rồi điện báo cho tờ Washington Post. Việc ấy có đấy. Thế là ông ta chọn dùng tiền mặt ở một điểm khỉ ho cò gáy. Ba, nếu không tiêu tiền chính phủ thì ông ta cũng có thể là khách trọ quen thuộc tại một khách sạn thành phố lớn. Nên, tương tự vậy, ông ta đi tìm một nơi hẻo lánh khác ngoài thành phố. Hoặc bốn, gu chơi gái của ông ta vượt quá những gì mà dịch vụ tại Thủ đô có thể mang lại, vậy nên ông ta phải tìm đến nơi chắc chắn sẽ có thứ mình muốn.”
“Nhưng?”
“Vấn đề một, hai và ba của ông ta có thể dễ dàng giải quyết bằng cách ra khỏi Thủ đô chừng mười hay mười lăm dặm, hoặc ít hơn. Đi những hai trăm chín mươi tám dặm là quá thừa. Và dù cho tôi sẵn lòng tin rằng có những gu mà ở Thủ đô không đáp ứng được đi, tôi cũng không hiểu ở nơi hoang vu tận Bắc Carolina này thì có hơn gì, và nếu có đi nữa thì dạng cao lương mỹ vị đấy ắt cũng phải hơn hai chục đô.”
“Vậy sao gã phải vòng đi vòng lại cả sáu trăm dặm?”
Cô không trả lời. Chỉ lặng lẽ lái xe, và ngẫm nghĩ. Tôi nhắm mắt. Để cho mắt nhắm suốt gần ba mươi lăm dặm.
“Ông ta biết cô gái,” Summer lên tiếng.
Tôi mở mắt. “Bằng cách nào?”
“Nhiều người có đối tượng yêu thích riêng. Có thể hai người đã gặp nhau từ lâu. Ông ta mê cô nàng, kiểu vậy. Việc đó cũng khả dĩ mà. Có thể coi như yêu đương ấy.”
“Liệu gã đã gặp cô ta ở đâu?”
“Ngay đây.”
“Trại Bird là trại bộ binh. Gã thuộc Thiết giáp.”
“Có thể hai bên có buổi tập trận chung chứ. Sếp kiểm tra lại xem.”
Tôi không nói gì. Thiết giáp và bộ binh tập huấn chung suốt. Nhưng họ thường tổ chức ở chỗ có xe tăng, chứ không phải ở chỗ bộ binh. Đưa người vượt lục địa thì dễ hơn xe tăng chứ.
“Hoặc hai người gặp nhau tại trại Irwin,” Summer nói. “Ở California ấy. Có thể cô ta hoạt động tại khu Irwin, nhưng phải rời California vì lý nào đó, nhưng vì vốn thích hoạt động gần các doanh trại, nên cô ta chuyển đến trại Bird này.”
“Gái làng chơi nào lại thích doanh trại quân đội?”
“Loại hám tiền đó sếp. Mà, loại nào không thế. Doanh trại quân đội thường hỗ trợ kinh tế địa phương bằng nhiều cách mà.”
Tôi không nói gì.
“Hoặc cô ta vốn luôn hoạt động ở trại Bird, nhưng theo đội bộ binh đi tập huấn ở trại Irwin một dịp nào đó. Thường thời gian tập huấn kéo dài tới một hai tháng. Khách đi hết rồi thì ở lại làm gì.”
“Cô đoán thế nào?” tôi hỏi.
“Hai người gặp ở California,” cô đáp. “Kramer sẽ ở trại Irwin cả mấy năm, dù không liên tục. Rồi cô nàng chuyển đến Bắc Carolina, nhưng ông ta hãy còn quyến luyến lắm nên vẫn vòng ra tận đây mỗi lần ghé Thủ đô.”
“Với hai chục đô thì ả dọn cỗ gì đặc biệt cho được.”
“Có lẽ ông ta cũng đâu cần thứ gì đặc biệt.”
“Để hỏi bà góa thử xem sao.”
Summer mỉm cười. “Có lẽ ông ta chỉ thích cô nàng thôi. Có lẽ cô nàng có cách làm ông ta phải mê mệt. Gái bán hoa giỏi việc ấy lắm. Bọn họ thích nhất là khách quen. Sẽ an toàn hơn nhiều nếu họ đã quen mặt khách.”
Tôi lại nhắm mắt.
“Sao nào sếp?” Summer hỏi. “Tôi có luận ra được điểm nào sếp không nghĩ ra không?”
“Không,” tôi đáp.
Tôi đã ngủ thiếp đi trước khi xe rời khỏi bang và giật mình tỉnh dậy gần bốn tiếng đồng hồ sau đó, khi Summer phi qua con dốc ở khu Green Valley quá nhanh. Đầu tôi giật qua phải va vào cửa sổ.
“Xin lỗi sếp,” cô nói. “Sếp nên kiểm tra danh sách cuộc gọi trong điện thoại Kramer. Hẳn ông ta đã gọi báo trước, để xem cô nàng có ở đó không. Ông ta làm gì dám chạy hết chặng đường đấy khi chưa biết chắc.”
“Gã gọi ở đâu mới được chứ?”
“Ở Đức ạ,” cô đáp. “Trước khi bay ấy.”
“Nhiều khi gã gọi bằng điện thoại công cộng ở Dulles. Nhung chúng ta sẽ kiểm tra.”
“Chúng ta ạ?”
“Cô có thể làm cộng sự với tôi.”
Cô không đáp.
“Cứ xem như là tôi đang sát hạch cô ấy,” tôi bảo.
“Có quan trọng không ạ?”
“Chắc không đâu. Nhưng cũng có thể. Tùy xem hội nghị kia bàn về chuyện gì. Tùy xem gã mang tài liệu gì theo đến ấy. Dám gã khuân theo toàn bộ kế hoạch tác chiến của Chiến khu Châu Âu trong cái cặp lắm. Hoặc là chiến thuật mới, đánh giá thiệt hại, mấy thứ thông tin mật kiểu thế.”
“Hồng Quân sẽ chịu thua.”
Tôi gật đầu. “Tôi thì lo quân đội sẽ mất mặt trước. Báo đài, truyền hình. Thử nghĩ đến cảnh một tay phóng viên tìm thấy hồ sơ mật trong bãi rác gần một câu lạc bộ thoát y, làm sao mà chịu nổi cái nhục ấy.”
“Có lẽ bà góa sẽ biết. Có thể ông ta có bàn với bà ta.”
“Làm sao hỏi được,” tôi nói. “Bà ta chỉ cần biết gã chết trong khi ngủ, chăn đắp đến cằm, và mọi việc khác đều ổn thỏa. Những vấn đề ta có hiện tại thì chỉ tôi, cô và Garber biết mà thôi.”
“Cả sếp Garber ư?” cô hỏi.
“Tôi, cô và ông ta,” tôi đáp.
Tôi thấy cô mỉm cười. Dù đây là một vụ nhỏ tí, nhưng được tham gia điều tra cùng Garber chắc chắn là dịp may, nhất là với người đang mong chờ được duyệt chuyển công tác sang Đội Đặc nhiệm 110.
Green Valley là một thị trấn của dân định cư đẹp như tranh vẽ và nhà của Kramer là một căn nhà cũ đẹp đẽ nằm trong khu đắt tiền nhất nơi ấy. Nhà gã là một sự pha trộn của kiến trúc thời Victoria với gạch mái lắp kiểu vảy cá cùng các tháp nhỏ trang trí và hiên nhà được sơn trắng muốt, nằm trên một bãi cỏ rộng vài mẫu vuông mướt màu lục. Chung quanh điểm dăm ba cây thường xanh bệ vệ. Trông như ai đó đã kỹ tính chọn nơi trồng chúng, mà có vẻ đúng như vậy thật, gần cả trăm năm trước. Xe chúng tôi dừng ngay vỉa hè và đợi, chỉ ngắm nhìn. Không biết Summer đang nghĩ gì, nhưng tâm trí tôi đang chụp lại cảnh tượng này và lưu vào thư mục tên Nước Mỹ trong đầu. Tôi cũng có số an sinh xã hội và cuốn hộ chiếu màu xanh dương xen bạc như hết thảy mọi người, nhưng giữa những lần công tác của bố và cả của chính tôi thì tổng thời gian tôi thực sự sống trên đất Mỹ chừng có năm năm thôi. Nên tuy tôi biết những thứ lặt vặt như tên thủ phủ vài tiểu bang hay cầu thủ bóng chày Lou Gehrig đánh được bao nhiêu cú home-run, và dăm ba mớ kiến thức cao hơn như các tu chính án Hiến pháp hay tầm quan trọng của trận Antietam, nhưng tôi chịu không biết giá một hộp sữa là bao nhiêu hay dùng điện thoại trả xu như thế nào hay cảnh quang mùi vị mỗi vùng quê ra làm sao. Nên có dịp là tôi cố lưu lại mọi thứ. Và nhà gã Kramer này quả rất đáng để ghi nhớ. Chắc chắn là như vậy. Tia nắng mơn man làm mái nhà lấp lánh. Quanh chúng tôi thoang thoảng cơn gió nhẹ cùng hương củi khô lan tỏa trong không khí êm đềm của ban chiều se lạnh. Đây là nơi mà người ta muốn ông bà mình sống. Rồi họ sẽ ghé thăm vào mùa thu mát mẻ, quét lá rơi và ung dung uống cạn ly rượu táo, để sau đó trở lại vào mùa hè, buộc chiếc ca nô nhỏ lên nóc con xe goòng mười năm tuổi của mình rồi vi vu đến một vùng hồ nào đó. Trông nơi này, tôi nhớ lại những tập ảnh được tặng hồi ở thành phố Manila, Guam hay Seoul.
Đó là trước khi vào trong nhà.
“Sếp sẵn sàng chưa?” Summer hỏi.
“Rồi,” tôi đáp. “Làm thôi. Lo bà góa nào.”
Cô im lặng. Tôi đồ rằng cô đã từng làm việc này. Tôi cũng vậy, hơn một lần rồi. Chả vui vẻ gì cho cam. Cô chạy tiếp lên và tiến vào ngõ nhà. Xe chạy chầm chậm đến cửa trước rồi dừng lại cách đó chừng mười bước. Chúng tôi mở cửa xe bước ra, đoạn chỉnh đốn lại áo xống cho thẳng thớm. Cả hai cất mũ lại trong xe. Bà nhà Kramer sẽ hiểu chuyện phần nào từ hành động ấy, nếu bà ta đang từ trong nhà nhìn ra. Một đôi cán bộ Quân cảnh ghé nhà gõ cửa chẳng bao giờ đem đến tin gì tốt lành rồi, nhưng đến đầu trần không đội mũ thì chỉ có hung tin thôi.
Cánh cửa được sơn màu đỏ trầm kiểu xưa và có một lớp kính chống bão bên ngoài. Tôi bấm chuông cửa và chúng tôi cùng đợi. Và đợi. Tôi bắt đầu tin là nhà vắng người. Tôi bấm chuông thêm lần nữa. Gió lạnh quá. Buốt hơn tôi tưởng.
“Lẽ ra ta nên gọi trước một tiếng sếp nhỉ,” Summer lên tiếng.
“Sao được,” tôi đáp. “Sao mà nói, mong cô ở nhà trong tầm bốn tiếng nữa để tụi tôi đến báo trực tiếp một tin cực nghiêm trọng nhé. Hơi lộ liễu quá, cô thấy đúng không?”
“Vượt đèo vượt núi đến đây mà người đâu không thấy.”
“Nghe như nhạc đồng quê nhỉ. Rồi xe cô hỏng còn chú cún cưng lìa đời. “
Tôi bấm chuông lần nữa. Không ai đáp.
“Mình nên kiểm tra xem có xe cộ nào quanh đây không,” Summer nói.
Bọn tôi tìm được một chiếc đang đỗ trong gara rộng vừa hai xe xây tách khỏi căn nhà chính. Chúng tôi nhìn vào qua cửa sổ thì thấy nó. Một chiếc Grand Marquis hiệu Mercury, màu xanh kim loại, to đùng. Quả là hợp với một bà vợ tướng. Không mới quá, không cũ quá, sang trọng nhưng không quá đắt, màu sắc cũng thích họp, đậm chất Mỹ vô cùng.
“Sếp nghĩ xe này của bà góa à?” Summer hỏi.
“Có thể,” tôi đáp. “Có khả năng họ từng lái một chiếc Ford cho đến khi ông chồng được đề bạt lên trung tá. Rồi lên thành chiếc Mercury. Chắc hai vợ chồng đang đợi thêm một ngôi sao nữa rồi đổi qua một chiếc Lincoln.”
“Tội ghê.”
“Sao mà tội? Đừng quên đêm qua gã chồng đã ở đâu nhé.”
“Vậy bà nhà đâu nhỉ? Có khi nào đang đi dạo không?”
Chúng tôi quay người lại và cảm thấy một cơn gió lùa qua lưng, rồi nghe tiếng cửa đóng sập phía sau nhà.
“Bà nhà đang ở ngoài sân,” Summer nói. “Chắc đang làm vườn.”
“Ai lại đi làm vườn sáng mồng một,” tôi bảo. “Nhất là ở phía bán cầu này. Mùa này làm gì có cây nào mọc được.”
Nhưng chúng tôi vẫn đảo qua cửa trước và bấm chuông lần nữa. Để bà nhà chủ động quyết định tiếp bọn tôi thì vẫn tốt hơn. Nhưng bà ta vẫn chưa ra. Rồi bọn tôi nghe tiếng cánh cửa sau nhà lần nữa, mở ra sập vào liên tục. Như thể gió đang kiểm soát nó vậy.
“Ta nên kiểm tra xem sao sếp ạ,” Summer nói.
Tôi gật đầu. Tiếng cửa mở ra sập vào liên tục là một thứ âm thanh kỳ bí. Nó ám chỉ nhiều điều.
“Ừ,” tôi đáp. “Nên vậy.”
Chúng tôi dạo ra sau nhà, vai kề vai, tiến về nơi có gió. Có một con đường lát đá, dẫn đến cửa nhà bếp. Cửa mở vào trong, và hẳn mặt sau có lò xo để giữ cửa đóng. Cái lò xo có lẽ hơi yếu, vì cơn gió giật cứ đẩy cửa mở ra khoảng tám hay chín inch. Rồi khi ngọn gió hết hơi, cái lò xo lại kéo cánh cửa sập vào khung. Nó mở ra sập vào như vậy thêm ba lần trước mắt chúng tôi. Cánh cửa như thế là do ổ khóa đã bị phá tung.
Ổ khóa là loại bền, bằng thép. Nhưng lớp cửa gỗ xung quanh ổ khóa thì yếu hơn. Có kẻ đã phá nó bằng một cây xà beng. Cánh cửa đã bị giật mạnh, có lẽ hai lần, và ổ khóa tuy còn nguyên nhưng phần gỗ thì tan nát. Cánh cửa mở toang còn ổ khóa rơi khỏi vị trí. Nó nằm ngay trên mặt đường lát đá. Cửa bị khoét một vùng như vết cắn. Những mảnh gỗ vỡ bị gió thổi tứ tán.
“Giờ sao đây sếp?” Summer hỏi.
Không hệ thống an ninh. Không chuông chống trộm. Không đệm chống đột nhập hay dây nhợ gì. Không cài chức năng điện báo cảnh sát khu vực. Không cách nào ta biết được kẻ gian đã đi chưa, hay còn núp trong nhà.
“Giờ sao ạ?” Summer hỏi lại.
Chúng tôi đến đây tay không. Không đem vũ khí, trong một chuyến viếng thăm trang trọng trong bộ quân phục hạng A.
“Cô ra canh ngoài mặt tiền,” tôi nói. “Phòng có ai thoát ra.”
Cô đi ngay mà không nói lời nào và tôi cho cô một phút để vào vị trí. Rồi tôi đẩy cửa bằng cùi chỏ để bước vào phòng bếp. Tôi đóng cửa lại và đẩy người đóng cho kín. Rồi tôi đứng yên một lúc lắng nghe.
Không một tiếng động. Im ắng vô cùng.
Trong bếp phảng phất mùi rau củ hầm và cà phê. Căn phòng rộng. Trông không gọn cũng không bừa. Không gian được sử dụng hợp lý. Bên kia phòng còn một cánh cửa nữa. Ngay bên phải tôi. Nó đang mở. Tôi trông thấy một góc mặt sàn gỗ sồi bóng bẩy. Một hành lang. Tôi chậm rãi tiến vào. Rón rén ép sát mé tường bên phải để có cái nhìn bao quát. Cánh cửa lại mở ra sập vào sau lưng. Tôi nhìn được thêm một phần hành lang. Hình như nó dẫn thẳng đến cửa trước. Phía trái là một cánh cửa đang đóng. Chắc là phòng ăn. Còn về phía bên phải là một dạng thư phòng hay gì đó. Nơi đó cửa mở toang. Tôi trông thấy một bộ bàn ghế làm việc và một kệ sách bằng gỗ tối màu. Tôi thận trọng tiến tới một bước. Dịch thêm một chút nữa.
Đập vào mắt tôi là xác một phụ nữ nằm giữa sàn hành lang.