← Quay lại trang sách

MƯỜI

Thế giới đang thay đổi. Tôi vốn quen làm kẻ cô độc, nhưng lúc này lại bắt đầu cảm thấy cô đơn. Và tôi thường nhìn đời với con mắt hoài nghi, vậy mà giờ đây lại bắt đầu cảm thấy ngây ngô đến tuyệt vọng. Tôi đang dần vuột mất hai gia đình của mình, một bên vì dòng thời gian vô tâm cuồn cuộn trôi, còn bên kia vì những đạo lý xưa được người ta coi trọng chợt tiêu tan như khói. Tôi như kẻ tỉnh giấc một mình trên đảo hoang và phát hiện mọi người xung quanh đã lén lút lên thuyền ra đi giữa đêm tối. Tôi như một kẻ đứng trên bờ biển, nhìn bóng người khuất dần về chân trời. Như một kẻ trước giờ vẫn dùng tiếng Anh, rồi chợt nhận ra mọi người đều nói một thứ tiếng nào đó xa lạ hoàn toàn. Thế giới đang thay đổi. Còn tôi muốn nó đứng yên.

Ba phút sau Summer trở lại. Tôi đoán cô đã nấp trong góc nào đó, đợi lão Willard ra về. Trong tay cô là một xấp giấy in, còn mắt cô lóe lên vẻ có thông tin nào đó đáng giá.

“Vassell và Coomer tối qua lại ở đây đó sếp,” cô nói.

“Trong nhật ký nhập trại có lưu tên họ.”

“Ngồi xuống đi,” tôi nói.

Cô khựng lại, hơi ngạc nhiên, nhưng rồi ngồi xuống ghế chỗ lão Willard ban nãy.

“Tôi xui xẻo lắm,” tôi bảo. “Từ giờ cô nên tránh xa tôi ra thì tốt hơn.”

“Ý sếp là sao?”

“Hai ta đoán đúng rồi,” tôi đáp. “Trại Bird là một nơi đầy bê bối. Đầu tiên là vụ Kramer, rồi đến Carbone. Lão Willard vừa quyết định chấm dứt điều tra cả hai vụ, để giữ thể diện cho quân đội.”

“Ông ta không thể dẹp vụ Carbone được.”

“Tai nạn khi tập luyện,” tôi bảo. “Tay Carbone trượt chân rồi ngã đập đầu.”

“Cái gì?”

“Lão Willard muốn dùng vụ ấy để thử tôi. Liệu tôi có thuận theo chiều gió hay không?”

“Sếp có theo không?”

Tôi không đáp.

“Chỉ thị của ông ta là trái luật,” Summer nói. “Chắc chắn là như vậy.”

“Cô có sẵn sàng phản đối chúng không?”

Cô không trả lời. Cách khả thi duy nhất để phản đối những chỉ thị trái luật là không tuân theo chúng và đặt cược vào tòa án binh sau đó, cái rốt cuộc sẽ trở thành một trò kéo co giữa ta với một gã ở tít trên cao của chuỗi thức ăn, trước vị quan tòa đã quá hiểu ưu tiên của quân đội đối với những mệnh lệnh là không bao giờ được nghi ngờ chúng.

“Vậy nên chẳng có gì xảy ra cả,” tôi bảo. “Đem toàn bộ giấy tờ về và quên tôi lẫn Kramer và Carbone đi.”

Cô không nói gì.

“Và nhắn lại với những người có mặt đêm qua. Bảo họ quên đi những gì đã chứng kiến.”

Cô nhìn xuống sàn.

“Rồi trở về khu sĩ quan đợi nhiệm vụ khác.”

Cô nhìn tôi.

“Sếp nói thật đấy à?” cô hỏi.

“Đúng vậy,” tôi đáp. “Mệnh lệnh trực tiếp đấy.”

Cô trừng mắt nhìn tôi. “Hóa ra sếp không phải là người như tôi tưởng.”

Tôi gật đầu.

“Tôi đồng ý,” tôi đáp. “Tôi không như cô nghĩ đâu.”

Cô bước ra ngoài và tôi đợi một phút để cô đi khuất rồi mới nhặt mớ giấy tờ cô để lại. Chúng rất dày. Tôi tìm được trang mình cần, và đọc qua.

Vì tôi vốn không thích những sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Hai tay Vassell và Coomer nhập trại Bird bằng cổng chính lúc sáu giờ bốn mươi lăm phút tối ngay đêm Carbone mất mạng. Bọn họ rời đi vào mười giờ. Ba tiếng mười lăm phút, ngay khung giờ tử vong của Carbone.

Hay nói cách khác là giờ ăn tối.

Tôi gọi điện đến phòng ăn sĩ quan. Một nhân viên hậu cần đáp máy và bảo rằng hạ sĩ quan chỉ huy sẽ gọi lại cho tôi sau. Rồi tôi gọi cô trung sĩ của mình nhờ tìm xem ai là người đồng cấp của tôi tại trại Irwin, và nhờ nối máy giùm. Cô trở lại trong vòng bốn phút với một cốc cà phê cho tôi.

“Anh ta bận rồi,” cô đáp. “Có thể đến nửa tiếng lận. Tên anh ta là Franz.”

“Không thể,” tôi bảo. “Franz đang ở Panama. Tôi đã trực tiếp nói chuyện với anh ta mà.”

“Thiếu tá Calvin Franz,” cô nói. “Họ bảo tôi vậy.”

“Gọi lại đi,” tôi nhắc. “Kiểm tra lại.”

Cô đặt cốc cà phê lên bàn tôi rồi trở về bàn gọi điện. Bốn phút sau cô quay lại xác nhận thông tin ban nãy là chính xác.

“Thiếu tá Calvin Franz,” cô lặp lại. “Anh ta về đó từ hai mươi chín tháng Mười hai.”

Tôi nhìn lịch. Mồng năm tháng Giêng.

“Và sếp cũng về đây từ hai mươi chín tháng Mười hai,” cô nói.

Tôi nhìn cô.

“Gọi thêm vài trại nữa đi,” tôi bảo. “Chỉ những trại lớn thôi. Bắt đầu bằng trại Benning, rồi cứ theo bảng chữ cái mà gọi. Lấy cho tôi tên các sĩ quan điều hành Quân cảnh của bọn họ, rồi hỏi xem bọn họ ở đó đã bao lâu.”

Cô gật đầu rồi ra khỏi phòng. Viên hạ sĩ quan từ phòng ăn điện cho tôi. Tôi hỏi về Vassell và Coomer. Anh ta xác nhận bọn họ đã dùng bữa tại nhà ăn sĩ quan. Vassell ăn cá bơn, còn Coomer chọn bít tết.

“Bọn họ ăn một mình à?” tôi hỏi.

“Không ạ, họ ngồi cùng vài sĩ quan cấp cao khác,” anh ta đáp.

“Bọn họ hẹn nhau à?”

“Không ạ, chúng tôi nghĩ là vô tình gặp nhau thôi. Nhóm toàn những người không liên quan. Tôi đoán họ quen nhau ở quầy bar, trong lúc uống rượu khai vị. Chắc chắn là phòng ăn không đặt bàn cho nhóm họ.”

“Bọn họ ở đấy bao lâu?”

“Họ ngồi đó từ trước bảy giờ rưỡi, rồi rời đi ngay trước mười giờ.”

“Không ai đứng dậy ra ngoài rồi trở lại à?”

“Không ạ, chúng tôi quan sát họ suốt mà.”

“Suốt bữa?”

“Chúng tôi chú ý họ rất kỹ, thưa sếp. Vì bọn họ toàn cấp cao mà.”

Tôi dập máy. Rồi gọi cổng chính. Hỏi xem ai là người tận mắt thấy Vassell và Coomer vào và ra trại. Họ cho tôi tên một trung sĩ. Tôi nhờ họ tìm anh ta và nhắn gọi lại cho tôi ngay.

Tôi đợi.

Tay trung sĩ trực ở cổng gọi lại tôi trước. Anh ta xác nhận rằng mình đã trực suốt buổi tối hôm trước, và xác nhận đã tận mắt thấy Vassell và Coomer đến trại lúc sáu giờ bốn mươi lăm và rời đi lúc mười giờ.

“Đi bằng ô tô?” tôi hỏi.

“Xe sedan màu đen khá to, thưa sếp,” anh ta đáp. “Loại xe cho công chức Lầu Năm Góc.”

“Grand Marquis?” tôi hỏi.

“Tôi khá chắc là vậy, thưa sếp.”

“Có tài xế không?”

“Đại tá tự lái xe ạ,” anh ta đáp. “Đại tá Coomer ấy. Tướng Vassell ngồi ở ghế trước.”

“Trong xe chỉ có hai người sao?”

“Đúng vậy, thưa sếp.”

“Anh chắc chứ?”

“Chắc chắn, thưa sếp. Không nghi ngờ gì. Ban đêm chúng tôi dùng đèn pin mà. Xe sedan màu đen, biển số của Bộ Quốc phòng, hai sĩ quan ngồi trước, trình đầy đủ giấy tờ, băng ghế sau trống ạ.”

“OK, cảm ơn cậu,” tôi đáp, và dập máy. Điện thoại reo lên ngay tức thì. Chính là Calvin Franz gọi, từ California.

“Reacher đó à?” anh ta hỏi. “Cậu làm cái quái gì ở đó thế?”

“Tôi phải hỏi cậu câu đó mới đúng.”

Điện thoại im bặt một hồi.

“Tôi chả biết mình làm gì ở đây cả,” anh ta bảo. “Trại Irwin yên ắng lắm. Thường là vậy, họ kể tôi thế. Dù gì thời tiết cũng thoải mái.”

“Cậu có dò hỏi chỉ thị của mình không?”

“Có chứ,” anh ta nói. “Cậu không à? Từ sau Grenada tôi mới đến được một nơi vui như Panama, thế mà bây giờ phải ngồi nhìn sa mạc Mojave sao? Chắc là Garber bị làm sao đó. Tôi tưởng ông ấy giận tôi. Giờ tôi chả hiểu chuyện gì đang xảy ra nữa. Nếu cả hai ta đều làm ông ấy khó chịu thì lạ thật.”

“Chỉ thị của cậu cụ thể là gì?” tôi hỏi.

“Làm sĩ quan điều hành tạm thời cho chỉ huy trưởng Quân cảnh.”

“Chỉ huy trưởng bên cậu có ở đó không?”

“Thật ra là không. Ông ta được chuyển công tác tạm thời đúng ngày tôi đến nhận nhiệm vụ.”

“Vậy cậu đang là quyền sĩ quan chỉ huy sao?”

“Có vẻ vậy,” anh ta đáp.

“Tôi cũng thế.”

“Chuyện gì đang xảy ra vậy?”

“Chịu thôi,” tôi đáp. “Nếu biết tôi sẽ báo cậu. Nhưng trước hết tôi cần hỏi cậu một câu. Tôi gặp một đại tá và một tướng một sao ở đây, nghe nói là đến chỗ cậu dự hội nghị Thiết giáp gì đó ngày mồng một. Tên là Vassell và Coomer. Hai gã đó có tới không?”

“Hội nghị đó bị hủy rồi,” Franz nói. “Bọn tôi nghe bảo ông hai sao của họ ngỏm cù đèo ở đâu đấy. Tên là Kramer thì phải. Có vẻ họ nghĩ chẳng có lý do gì để tiếp tục khi không có ông ta. Hoặc là vậy, hoặc là họ không nghĩ được gì khi không có ông ta. Hoặc là đang quá bận tranh giành chiếc ghế trống của ông ta.”

“Vậy Vassell và Coomer không đến California sao?”

“Không tới trại Irwin,” Franz đáp. “Chắc chắn là vậy. Còn tới California hay không thì tôi chịu. Bang này to mà.”

“Còn ai khác lẽ ra phải đến dự hội nghị không?”

“Toàn bộ nhóm chủ chốt của Thiết giáp. Vài người ở trại này. Vài người khác tới rồi ra về luôn. Vài người không đến.”

“Cậu có biết gì về chương trình nghị sự không?”

“Tôi không để ý. Có quan trọng không?”

“Tôi chịu. Vassell và Coomer bảo rằng làm gì có thứ đó.”

“Hội nghị nào mà chẳng có chương trình nghị sự.”

“Tôi cũng nghĩ vậy.”

“Để tôi để ý xem sao.”

“Chúc cậu năm mới vui vẻ,” tôi bảo. Rồi tôi dập máy và ngôi yên lặng một lúc. Ngẫm nghĩ khá lâu. Calvin Franz là một quân nhân giỏi. Đúng hơn thì, anh ta rất giỏi. Cứng cỏi, công minh, và có tài. Chả có gì ngăn được anh ta cả. Rời Panama tôi cũng khá yên lòng, vì biết anh ta vẫn còn ở đó. Nhưng giờ anh ta lại ở đây. Tôi đi, anh ta cũng đi. Thế thì ai ở đó?

Tôi uống xong cà phê rồi đem cốc trả lại bên máy pha. Cô trung sĩ đang gọi điện. Trước mặt cô là một tờ giấy nguệch ngoạc những dòng chữ. Cô giơ lên một ngón tay như vừa nghe được tin gì lớn. Rồi cúi xuống hí hoáy tiếp. Tôi trở lại bàn của mình. Năm phút sau cô vào phòng cùng tờ giấy kia. Mười ba dòng, ba cột. Cột thứ ba ghi toàn con số. Chắc là ngày tháng.

“Tôi gọi đến tận trại Rucker,” cô nói. “Rồi thôi. Vì rõ ràng một yếu tố cứ lặp đi lặp lại.”

“Nói tôi nghe nào,” tôi bảo.

Cô đọc qua tên mười ba doanh trại, theo bảng chữ cái. Rồi cô đọc tiếp tên của sĩ quan điều hành Quân cảnh tại đó. Tôi biết cả mười ba cái tên đấy, bao gồm cả Franz và tôi. Rồi cô đọc ngày mà bọn họ được thuyên chuyển tới. Đều cùng một ngày. Tất cả đều đến ngày hai mươi chín tháng Mười hai. Tám ngày trước.

“Đọc lại tên họ giúp tôi,” tôi bảo cô.

Cô đọc lại. Tôi gật đầu. Trong cái giới Quân cảnh vừa bí hiểm vừa nhỏ tí, nếu anh muốn lựa ra một nhóm tinh nhuệ, và sau khi dành cả đêm vắt óc suy nghĩ lựa chọn, thì chắc chắn anh sẽ chọn ra mười ba cái tên đó. Không còn nghi ngờ gì. Mười ba cái tên nặng ký, xuất sắc nhất. Còn chừng mười cái tên lẽ ra phải trong danh sách, nhưng tôi tin cũng phải hai trong đó hiện đang đảm nhiệm những doanh trại nằm cuối bảng chữ cái, và đâu tám cái tên kia sẽ công tác ở những nơi quan trọng khác trên khắp thế giới. Và tôi tin tất cả bọn họ cũng đều mới nhận nhiệm vụ từ tám ngày trước. Đội hình siêu sao chúng tôi. Tôi không muốn phân biệt cấp bậc cao thấp với họ, nhưng nhìn chung, xét theo năng lực hoạt động hiện trường, chúng tôi là đỉnh cao của cảnh sát quân đội, và đó là điều không phải bàn cãi.

“Kỳ lạ thật,” tôi bảo. Và thực sự nó quá kỳ lạ. Để thuyên chuyển từng ấy sĩ quan cụ thể trong cùng ngày cần phải có quyết tâm và tính toán trước, và để làm được ngay giữa Chiến dịch Chính nghĩa chắc chắn cần một động cơ nào đó gấp rút. Căn phòng dường như lặng đi, như có thể nghe được tiếng lá rơi bên ngoài.

“Tôi đến chỗ Delta đây,” tôi nói.

Tôi lái chiếc Humvee vì không muốn đi bộ. Tôi không biết lão khốn Willard đã rời khỏi doanh trại chưa, và tôi chẳng muốn đụng mặt lão chút nào. Tay gác cửa dẫn tôi vào khu nhà tù cũ và tôi đến thẳng văn phòng sĩ quan phụ tá. Anh ta vẫn ngồi ở bàn làm việc, trông có vẻ mệt mỏi hơn hồi sáng sớm tôi gặp.

“Chết vì tai nạn luyện tập,” tôi bảo.

Anh ta gật đầu. “Tôi nghe nói vậy.”

“Anh ta luyện tập kiểu gì?” tôi hỏi.

“Thao luyện buổi đêm,” anh ta bảo.

“Một mình ư?”

“Thế thì tập thoát thân và lẩn trốn vậy.”

“Trong doanh trại?”

“OK, anh ấy chạy bộ. Muốn giảm cân sau mùa lễ tết. Gì cũng được.”

“Tôi cần cái gì họp lý,” tôi nói. “Bản báo cáo sẽ đề tên tôi đấy.”

Tay đại úy gật đầu. “Vậy bỏ vụ chạy bộ. Tôi không nghĩ Carbone thích chạy. Anh ấy ưa tập tạ hon. Nhiều người như vậy.”

“Nhiều người là ai?”

Anh ta nhìn thẳng tôi.

“Người đội Delta,” anh ta nói.

“Anh ta có chuyên môn nào không?”

“Chuyên môn nào họ cũng biết. Ở đây mọi người cái gì cũng giỏi.”

“Không ai chuyên về điện đàm hay y tế sao?”

“Ai cũng giỏi điện đàm. Ai cũng giỏi y tế. Đó là biện pháp phòng ngừa. Phòng khi họ bị bắt giữ, họ có thể tự nhận là y tế đại đội. Như vậy có thể tránh phải ăn đạn. Và họ có thể thể hiện kỹ năng, nếu bị kẻ thù kiểm tra.”

“Có buổi luyện tập y tế nào vào buổi đêm không?”

Tay đại úy lắc đầu. “Không hẳn.”

“Có thể anh ta ra ngoài thử bộ điện đàm không?”

“Anh ấy có thể lấy xe ra chạy thử,” tay đại úy nói. “Anh ấy giỏi cơ khí. Tôi nghĩ có lẽ anh ấy trông nom xe của đơn vị. Nếu muốn nói về chuyên môn của anh ấy thì chỉ có như vậy thôi.”

“OK,” tôi bảo. “Có thể anh ta bị nổ bánh, rồi lúc thay bánh bị xe trượt khỏi kích nâng đè trúng đầu?”

“Cũng được,” tay đại úy nói.

“Đường xấu, có thể kích nâng bị kênh, nên cả xe không vững.”

“Cũng được,” tay đại úy nhắc lại.

“Tôi sẽ bảo lính tôi đã kéo xe về.”

“OK.”

“Vậy đó là loại xe gì?”

“Anh thích loại gì cũng được.”

“Chỉ huy của anh có đây không?” tôi hỏi.

“Đi rồi. Nghỉ lễ.”

“Sếp anh là ai?”

“Anh làm sao biết được.”

“Cứ thử nói xem.”

“Đại tá Brubaker,” tay đại úy đáp.

“David Brubaker à?” tôi nói. “Tôi biết ông ta.” Điều đó cũng gần đúng. Tôi chỉ mới nghe danh mà thôi. Gã là một tay cuồng tín hổ báo của Lực lượng Đặc nhiệm. Đối với gã thì tất cả bọn tôi cứ nên dọn đồ về quê để biệt đội tinh nhuệ của gã bảo vệ cả thế giới. Có thể để lại vài tiểu đoàn trực thăng túc trực, để chở lính của gã. Có thể để lại một văn phòng Lầu Năm Góc hoạt động, để chuẩn bị số vũ khí mà gã muốn.

“Bao giờ thì ông ta về?” tôi hỏi.

“Lúc nào đó ngày mai.”

“Anh có gọi ông ta không?”

Tay đại úy lắc đầu. “Ông ta không muốn dính líu đâu. Và sếp tôi không muốn nói chuyện với anh đâu. Nhưng tôi sẽ nhắn sếp tái thiết một vài thủ tục an ninh, ngay khi ta xác định được kiểu tai nạn gì.”

“Bị xe đè chết,” tôi nói. “Tai nạn như vậy đó. Thế cho sếp anh mừng. An toàn xe cộ ngắn hơn an toàn súng ống.”

“Ngắn ở đâu?”

“Trong cẩm nang tác chiến ấy.”

Tay đại úy mỉm cười.

“Brubaker không dùng cẩm nang tác chiến đâu,” anh ta nói.

“Tôi cần xem qua phòng của Carbone,” tôi nói.

“Để làm gì?”

“Vì tôi cần phải dọn dẹp nó. Nếu khai rằng anh ta chết trong tai nạn xe, tôi không muốn để sót lại khúc mắc nào.”

Carbone ngủ ở một nơi giống hệt mọi người trong đơn vị, một mình trong một phòng giam cũ. Một phòng sáu nhân tám bộ trát xi măng có bồn rửa mặt và bồn cầu. Nó có một chiếc giường tiêu chuẩn quân đội, một cái rương và ngăn kệ trên tường dài ngang giường. Nhìn chung là một chỗ ở khá ổn dành cho một trung sĩ. Trên thế giới có những người sẽ chẳng đắn đo một giây để đổi lấy một phòng như vậy.

Summer đã dán sẵn băng phong tỏa hiện trường ngang cửa. Tôi kéo nó xuống vò lại rồi bỏ vào trong túi quần. Tôi bước vào phòng.

Về mặt kỷ luật và đồng bộ thì phân đội D của Lực lượng Đặc nhiệm khác xa những chỗ khác trong quân đội. Các cấp bậc giao lưu với nhau khá thoải mái. Chẳng ai còn nhớ cách chào tiêu chuẩn. Sự ngăn nắp không được lấy làm trọng. Đồng phục không bắt buộc. Nếu ai thấy thoải mái với cái áo khoác mẫu cũ mòn vẹt mà mình đã mặc qua nhiều năm, thì cứ mặc. Nếu ai thích đôi giày thể thao New Balance hơn đôi bốt dã chiến của bộ binh, thì cứ mang. Nếu quân đội đặt mua bốn trăm ngàn khẩu Beretta, mà đội Delta thích SIG hơn, thì cứ dùng SIG.

Nên Carbone không có một cái tủ đầy quân phục phẳng phiu sạch sẽ. Không có những hàng áo được giặt giũ, là gấp thẳng thớm, sẵn sàng lôi ra mặc. Không có đôi bốt sáng bóng nào dưới chân giường. Quần áo của anh ta chất đầy trên ba phần tư cái kệ dài ngay phía trên giường. Cũng chẳng nhiều nhặn gì. Chủ yếu là màu xanh ô liu, nhưng ngoài ra có vài thứ mà sĩ quan hậu cần hiện thời sẽ không nhận ra. Có vài món thuộc trang phục mặc trong môi trường lạnh kéo dài cũ của quân đội. Vài bộ dã chiến tiêu chuẩn đã phai màu. Không hề có dấu đơn vị hay huy hiệu trung đoàn. Một khăn quấn đầu màu xanh. Vài áo thun màu xanh lá cũ, bị giặt nhiều lần đến nỗi gần như mất hẳn màu. Bên cạnh mớ áo thun là một bộ ALICE được cuộn gọn gàng. ALICE là viết tắt của All-Purpose Lightweight Carrying Equipment, cái tên mà quân đội đặt cho cái đai mà anh đeo để treo vật dụng trên người.

Ở phần cuối kệ đặt một chồng sách, và một bức ảnh nhỏ gắn khung đồng. Trong ảnh là một người phụ nữ lớn tuổi nhìn khá giống Carbone. Chắc chắn là mẹ anh ta rồi. Tôi còn nhớ hình xăm của anh ta, bị con dao K-bar cắt qua. Một con đại bàng, nắm trong chân cuộn giấy ghi chữ Mẹ. Tôi nhớ lại mẹ tôi, lùa anh em tôi vào chiếc thang máy bé tí sau khi ôm chào tạm biệt.

Tôi lướt qua hàng sách của Carbone.

Có năm cuốn bìa mềm và một cuốn mỏng khổ lớn bìa cứng. Tôi lần tay qua những cuốn bìa mềm. Tồi không nhận ra tựa đề hay tác giả của chúng. Gáy cuốn nào cũng gãy còn giấy thì ố vàng. Dường như toàn những truyện phiêu lưu với máy bay thử nghiệm hoặc tàu ngầm mất tích. Cuốn bìa cứng là ấn phẩm lưu niệm từ một buổi lưu diễn của nhóm Rolling Stones. Xét theo kiểu in trên gáy sách thì nó đã chừng mười năm tuổi.

Tôi lật chiếc nệm lên rồi kiểm tra bên dưới. Chẳng có gì ở đó. Tôi nhìn qua bồn cầu rồi dưới bồn rửa mặt. Không có gì lạ. Tôi xem qua cái rương. Vật đầu tiên tôi tìm thấy là chiếc áo khoác da màu nâu gấp đặt ở trên cùng. Dưới đó là hai chiếc áo sơ mi trắng gài cúc và hai chiếc quần bò. Cái áo vải thì đã sờn cũ và mềm, còn chiếc áo khoác kia trông chẳng rẻ cũng chẳng đắt. Kết hợp lại ta sẽ có bộ quần áo đi chơi điển hình của một người lính vào tối thứ Bảy. Đi ngoài, cạo râu, tắm rửa, khoác lên mình bộ thường phục, dồn nhau lên xe, đi bar, vui vẻ.

Dưới quần bò là một chiếc ví. Nó nhỏ, làm bằng da màu nâu như chiếc áo khoác kia. Như mớ quần áo, nó cũng chứa sẵn những thứ thiết yếu dành cho một buổi đi chơi tối thứ Bảy. Trong đó có bốn mươi ba đô bằng tiền mặt, đủ mua vài tuần bia để bắt đầu cuộc vui. Ngoài ra còn một thẻ căn cước quân nhân và bằng lái xe Bắc Carolina, phòng khi cuộc vui bị gián đoạn bởi Quân cảnh hoặc cảnh sát dân sự. Có thêm cả một gói bao cao su chưa mở, cuộc vui phát sinh diễn biến mới.

Có tấm ảnh chụp một cô gái, nhét trong ngăn nhựa trong. Có thể là chị hay em gái, hay họ hàng, hay bạn bè. Hay có thể chẳng là ai cả. Để làm bình phong, chắc rồi.

Dưới chiếc ví là một hộp giày đựng một xấp ảnh chụp cỡ A6. Toàn những hình tự chụp của các nhóm quân nhân. Chính Carbone cũng có mặt trong vài tấm. Những nhóm nhỏ quân nhân đứng tạo kiểu, đều như những nhóm vũ công, tay quàng vai nhau. Vài tấm ảnh chụp dưới mặt trời chói chang trong khi họ cởi trần, đầu đội mũ len, vừa nheo mắt vừa cười. Vài tấm trong rừng. Vài tấm tại những con đường gập ghềnh vương tuyết. Tấm nào cũng thể hiện một tình cảm thân thiết. Huynh đệ tay trong tay, được nghỉ phép, còn sống, và vui vẻ.

Trong căn phòng sáu nhân tám bộ của Carbone chẳng còn gì khác. Không có gì đáng chú ý, không có gì bất thường, không có gì giúp giải nghĩa. Không có gì tiết lộ quá khứ, cũng như tính cách, đam mê hay sở thích của anh ta. Anh ta đã sống một cuộc đòi bí mật, gài kín cúc, như chiếc áo sơ mi mặc đi chơi đêm thứ Bảy của mình.

Tôi đi bộ trở lại chiếc Humvee. Vừa quẹo một góc đã chạm mặt tay trung sĩ trẻ mặt râu da rám nắng kia. Anh ta đứng chắn tôi, và không định nhường đường.

“Anh dám chơi tôi,” anh ta nói.

“Có sao?”

“Về vụ Carbone. Anh để tôi kể lể như vậy. Viên thư ký đại đội vừa cho tôi xem một văn bản khá thú vị.”

“Thì sao?”

“Giờ bọn tôi đang nghĩ đây.”

“Đừng cố quá,” tôi nói.

“Vui lắm nhỉ? Để xem còn vui không khi bọn tôi phát hiện ra anh chính là hung thủ.”

“Không phải tôi.”

“Đó là anh nói.”

Tôi gật đầu. “Tôi nói đấy. Giờ tránh đường giùm.”

“Không thì sao?”

“Thì tôi cho anh một trận.”

Anh ta dợm chân tới. “Mày nghĩ cho nổi không?”

Tôi không di chuyển. “Anh hẳn đang thắc mắc có phải tôi đã cho Carbone một trận không. Mà anh ta có khi còn bản lĩnh gấp đôi anh.”

“Mày không lường nổi đâu,” anh ta nói.

Tôi không đáp.

“Tin tao đi,” anh ta tiếp.

Tôi nhìn đi nơi khác. Tôi tin lời anh ta. Nếu tôi đã vào tầm ngắm của đội Delta, thì tôi sẽ chẳng tài nào lường nổi. Chắc chắn như vậy. Vài tuần sau hay vài tháng sau hay vài năm sau khi tôi bước vào một ngõ vắng sẽ có một bóng đen nhảy bổ ra lụi một dao K-bar vào bên sườn tôi hoặc bẻ cổ tôi với một tiếng rắc vang vọng khắp hai bên tường, và thế là tôi hết đời.

“Mày có đúng một tuần,” anh ta nói.

“Để làm gì?”

“Để chứng minh với bọn tao kẻ giết Carbone không phải là mày.”

Tôi không đáp.

“Tùy mày thôi,” anh ta tiếp. “Hoặc tự minh oan, hoặc sống bảy ngày ấy sao cho trọn vẹn. Nhớ cố hoàn thành mọi ước mơ ấp ủ. Có đọc thì lựa cuốn sách nào ngăn ngắn thôi.”