← Quay lại trang sách

CHÍN

Tôi dò dẫm bước đầu tiên để tìm lời giải đáp cho thắc mắc của mình vào lúc bảy giờ một phút sáng ngày hôm sau, tại nhà xác trại Bird. Tôi ngủ có ba tiếng đồng hồ và còn chưa ăn sáng. Thực ra việc điều tra án mạng của quân đội không có nguyên tắc cố định nào để ta bám vào. Nhiều khi chỉ dựa vào trực giác và tùy cơ ứng biến. Nhưng có một nguyên tắc ai cũng rõ: chớ dại mà ăn đầy bụng trước khi bước vào nhà xác quân đội.

Vậy nên tôi dành thì giờ ăn sáng để đọc qua bản báo cáo hiện trường. Một tập hồ sơ khá dày, nhưng không chứa thông tin nào hữu ích. Có bản liệt kê mớ quân trang được thu hồi và những mô tả với độ chi tiết tối thiểu. Thêm bản mô tả xác chết. Thời gian và nhiệt độ. Cả ngàn từ kèm theo cả tá ảnh Polaroid. Nhưng từng ấy chữ lẫn hình đều chẳng nói lên điều gì tôi cần biết.

Tôi cất hồ sơ vào ngăn tủ rồi gọi điện cho văn phòng Chỉ huy trưởng Quân cảnh hỏi xem có báo cáo về quân nhân nào vắng mặt không phép hay không. Họ hẳn đã phát hiện nạn nhân vắng mặt đêm qua, nên chúng tôi có thể dò ra được nhân thân của hắn. Nhưng không có báo cáo nào như vậy. Không có điều gì bất thường cả. Số quân nhân có mặt vẫn đầy đủ.

Tôi bước ra cái lạnh của buổi sáng.

Nhà xác được xây từ thời Tổng thống Eisenhower còn tại nhiệm và vẫn được sử dụng tới giờ. Chúng tôi không cần những gì quá phức tạp trong vụ này. Ở đây khác với thế giới dân thường. Chúng tôi biết nạn nhân tối qua không trượt vỏ chuối mà chết. Tôi chẳng quan tâm vết thương nào mới là trí mạng. Tôi chỉ muốn biết khoảng thời gian tử vong và danh tính của nạn nhân.

Bên trong cửa chính là tiền sảnh trải gạch với ba cánh cửa bên trái, ở giữa và bên phải. Nếu quẹo trái, anh sẽ vào văn phòng. Nếu rẽ phải, anh sẽ vào phòng đông lạnh. Tôi đi thẳng tới trước, nơi có dao cắt, cưa rít và nước chảy.

Hai chiếc bàn dài bằng kim loại có bồn rửa đặt giữa phòng. Bên trên gắn đèn sáng lóa và bên dưới lắp ống thoát nước kêu ầm ầm. Xung quanh đầy những cán cân treo trên xích sắt dùng để xác định cân nặng của các bộ phận cắt ra từ thi thể, cạnh đó là những lọ thủy tinh để trên xe đẩy bằng thép sẵn sàng để chứa chúng, và vài xe khác đặt mấy hàng dài nào dao nào kéo nào cưa nào kềm nằm trên tấm vải màu xanh lá sẵn sàng để sử dụng. Cả căn phòng sáng bóng loại gạch lát trắng còn không khí thì lạnh và thoảng mùi phoóc môn.

Chiếc bàn bên phải sạch sẽ và trống trơn. Bàn bên trái thì có một toán người vây quanh. Có một chuyên viên khám nghiệm tử thi cùng trợ lý và một thư ký ghi chép. Summer cũng đang ở đó, cô đứng phía sau, lặng lẽ quan sát. Trông như họ đã làm xong nửa quy trình rồi. Mọi vật dụng đều đang được sử dụng. Vài lọ thủy tinh đã được chứa. Ống nước bên dưới hút nước ầm ĩ. Tôi thấy đôi chân tử thi thấp thoáng trong toán người. Chân đã được lau chùi sạch sẽ. Đèn bên trên hắt xuống khiến lớp da xác chết có màu trắng xanh. Mọi vết đất cát bẩn thỉu và máu khô đã biến mất.

Tôi đứng cạnh Summer cùng quan sát. Họ đặt tử thi nằm ngửa. Chóp sọ đã được gỡ ra. Họ cắt vòng quanh giữa trán và lột da mặt hắn xuống. Lớp da lật ngược ra ngoài, như tấm chăn trải trên giường. Nó xuống tới cằm hắn. Xương gò má lẫn con mắt của hắn lộ ra. Chuyên viên khám nghiệm đang xem xét não hắn, tìm kiếm gì đó. Anh ta đã cưa chóp sọ và nhấc nó ra như mở một cái nắp.

“Đầu đuôi thế nào đây?” tôi hỏi.

“Ta có dấu vân tay rồi,” anh ta đáp.

“Tôi vừa gửi chúng đi thẩm định,” Summer nói. “Nội trong hôm nay sẽ biết là ai.”

“Nguyên nhân tử vong là gì?”

“Chết do vật mạnh đánh vào,” chuyên viên khám nghiệm bảo. “Vết thương ở sau gáy. Ba cú mạnh, hình như bằng tuýp sắt nạy lốp xe, tôi nghĩ vậy. Những trò kinh dị kia được bồi vào sau khi nạn nhân đã chết. Đơn thuần là trang trí thôi.”

“Có vết thương nào do chống cự không?”

“Không hề,” anh ta đáp. “Tấn công bất ngờ. Như từ dưới đất trồi lên vậy. Không có đánh trả hay chống cự gì.”

“Bao nhiêu kẻ động thủ?”

“Tôi có phải thầy bói đâu mà biết. Những cú trí mạng hẳn đều do một người gây ra. Tôi không rõ liệu có ai khác đứng xung quanh xem hay không.”

“Anh đoán thế nào?”

“Tôi làm khoa học, chứ đâu giỏi đoán mò.”

“Hung thủ chỉ có một thôi,” Summer nói. “Trực giác bảo tôi vậy.”

Tôi gật đầu.

“Thời điểm tử vong?” tôi hỏi.

“Không chắc chắn được,” chuyên viên khám nghiệm đáp. “Khoảng chín hay mười giờ tối đêm qua. Nhưng đừng vin vào chẩn đoán ấy.”

Tôi gật đầu lần nữa. Khoảng chín hay mười giờ tối cũng có lý. Phải nhằm lúc trời đã tối, vài giờ trước khi thời điểm ước tính sẽ có người tìm ra cái xác. Đủ thời gian để hung thủ dụ nạn nhân ra ngoài ấy, rồi lặn mất tăm khi có báo động.

“Nạn nhân bị giết tại hiện trường sao?” tôi hỏi.

Anh ta gật đầu.

“Hoặc gần nơi ấy,” anh ta bảo. “Vì không có dấu vết y học nào chứng minh điều ngược lại.”

“OK,” tôi nói. Tôi nhìn quanh. Khúc cây gãy đang nằm trên một xe đẩy. Bên cạnh là lọ thủy tinh đựng dương vật và hai tinh hoàn.

“Tìm thấy trong miệng nạn nhân à?” tôi hỏi.

Anh ta gật đầu lần nữa. Nhưng không nói thêm.

“Cắt bằng loại dao gì?”

“Chắc dùng K-bar,” anh ta đáp.

“Tuyệt,” tôi bảo. Gần chục triệu dao găm quân dụng K-bar đã được sản xuất trong suốt năm mươi năm qua. Chúng nhan nhản như huân chương vậy.

“Người dùng dao thuận tay phải,” viên khám nghiệm nói.

“Còn thanh sắt?”

“Cũng vậy.”

“OK,” tôi bảo.

“Thứ dịch kia là sữa chua,” anh ta nói.

“Vị dâu hay mâm xôi?”

“Tôi có nếm thử đâu.”

Bên cạnh mấy lọ thủy tinh là bốn tấm ảnh polaroid. Chúng đều là ảnh chụp cận cảnh các vết thương trí mạng. Tấm đầu tiên như lúc phát hiện xác chết. Tóc nạn nhân khá dài và bẩn và bết máu nên tôi không nhìn ra được chi tiết. Tấm thứ hai chụp sau khi đã chùi rửa hết máu và đất bẩn. Tấm thứ ba chụp sau khi dùng kéo cắt bớt mớ tóc. Tấm thứ tư thì khi tóc tai đã gọt sạch, bằng dao cạo.

“Nếu hung thủ dùng xà beng thì sao?” tôi hỏi.

“Có thể,” chuyên viên khám nghiệm đáp. “Chắc là tốt hơn tuýp sắt. Dù gì tôi cũng đúc mẫu thạch cao vết đánh rồi. Anh đem hung khí đến đây, tôi sẽ cho biết có phải hay không.”

Tôi bước tới để nhìn kỹ hơn. Tử thi sạch sẽ. Da có màu xám trắng điểm chút hồng. Từ người tỏa ra hương xà phòng, cũng như mùi máu và các mùi cơ thể khác. Phía hạ bộ be bét cả. Như ở lò mổ vậy. Vết dao cắt trên hai tay và hai vai rất sâu và rõ. Tôi thấy cả cơ và xương bên dưới. Mép vết cắt có màu xanh và lạnh. Lưỡi dao cắt xuyên qua lớp hình xăm ở bắp tay trái nạn nhân. Hình một con đại bàng cắp dải băng ghi chữ Mẹ. Nhìn chung, cái xác không đẹp đẽ gì. Nhưng vẫn đỡ kinh khủng hơn tôi đã tưởng tượng.

“Tôi tưởng còn nhiều vết bầm và sưng hơn nữa mà,” tôi bảo.

Chuyên viên khám nghiệm liếc mắt nhìn tôi.

“Tôi bảo anh rồi,” anh ta nói. “Những trò kinh dị được gây ra sau khi nạn nhân đã chết. Tim hết đập, không còn huyết áp, máu không lưu thông, nên làm gì có vết sưng hay bầm giập nào. Máu rỉ cũng ít. Do trọng lực mà thôi. Nếu nạn nhân còn sống khi hung thủ băm người anh ta, hẳn máu đã tung tóe như suối.”

Chuyên viên khám nghiệm quay trở lại bàn mổ và kết thúc việc xét não tử thi rồi úp chóp sọ vào chỗ cũ. Anh ta gõ hai lần lên đó cho nó dính chắc lại rồi dùng miếng mút xốp lau qua vết cắt đang rỉ nước. Rồi anh ta lật da mặt nạn nhân về lại chỗ cũ. Vừa xê dịch vừa chỉnh lại vùng da ấy bằng ngón tay, rồi khi anh ta nhấc tay lên tôi chợt nhận ra gương mặt của tay trung sĩ Lực lượng Đặc nhiệm mà mình đã trò chuyện tại quán bar thoát y, đang giương mắt vô hồn nhìn ánh đèn sáng rọi bên trên.

Tôi lái chiếc Humvee qua trường huấn luyện tác chiến tâm lý của Andrea Norton tới trụ sở Lực lượng Delta. Khu này tương đối độc lập từ thời còn là trại giam, trước khi quân đội gom hết bọn vô lại trong ấy tới trại Leavenworth tại Kansas. Hàng dây thép gai cũ kỹ cùng bốn thành tường xưa vẫn hợp với mục đích sử dụng hiện tại. Bên cạnh còn có cả một nhà chứa máy bay khổng lồ từ thời Thế chiến thứ hai. Có vẻ như nó bị lôi ra từ một căn cứ cổ xưa nào đó và được lắp ráp lại để cất quân nhu xe cộ cùng những chiếc Humvee bọc thép và có khi là vài chiếc trực thăng phản ứng nhanh nữa.

Viên gác cổng trong cho tôi vào và tôi tới thẳng văn phòng sĩ quan phụ tá. Dù mới bảy giờ rưỡi sáng, nhưng nơi này đã xôn xao náo động, điều này khiến tôi để ý. Viên phụ tá ngồi ở bàn làm việc. Anh ta là đại úy. Trong thế giới lộn ngược của Lực lượng Delta thì trung sĩ cấp dưới mới là những ngôi sao đích thực, còn các sĩ quan chỉ ở nhà làm giấy tờ mà thôi.

“Bên anh có ai mất tích không?” tôi hỏi.

Anh ta quay mặt đi, khiến tôi càng để ý hơn.

“Tôi đoán là anh biết rồi,” anh ta đáp. “Chứ khi không anh đến đây làm gì?”

“Anh cho tôi cái tên được không?”

“Tên à? Tôi tưởng anh đã bắt anh ấy vì tội nào đó.”

“Đây không phải việc bắt bớ,” tôi bảo.

“Vậy chứ việc gì?”

“Tay này hay bị bắt lắm à?”

“Không. Anh ấy là một quân nhân gương mẫu.”

“Tên anh ta là gì?”

Tay đại úy không trả lời. Mà chỉ cúi xuống mở ngăn kéo lấy ra một tập hồ sơ. Rồi đưa cho tôi. Như tất cả lý lịch của bên đội Delta mà tôi từng đọc, tập hồ sơ ấy được chiết lọc từng chi tiết để tiện khoe người ngoài. Bên trong chỉ có hai trang giấy. Tờ đầu tiên ghi tên, cấp bậc, số thứ tự và một khung tóm tắt thành tích của một gã có tên Christopher Carbone. Anh ta chưa kết hôn và là quân nhân đã mười sáu năm. Anh ta dành bốn năm trong một sư đoàn bộ binh, bốn năm trong một sư đoàn dù, bốn năm tiếp trong một đại đội biệt động, và bốn năm cuối trong Lực lượng Đặc nhiệm chi đội D. Anh ta hơn tôi năm tuổi. Cấp trung sĩ nhất. Không thêm chi tiết màu mè nào khác cũng như không có giải thưởng hay huân chương gì.

Tờ thứ hai chứa mười dấu vân tay đen màu mực và một tấm ảnh màu của người tôi từng nói chuyện trong quán bar mà giờ đây đang nằm trong nhà xác.

“ Anh ấy đang ở đâu?” tay đại úy hỏi. “Chuyện gì đã xảy ra?”

“Có người giết anh ta rồi,” tôi đáp.

“Sao?”

“Một vụ giết người,” tôi bảo.

“Lúc nào?”

“Đêm qua. Chừng chín hay mười giờ tối.”

“Ở đâu?”

“Ngay bìa rừng.”

“Rừng nào?”

“Rừng của ta chứ đâu. Trong khuôn viên doanh trại.”

“Lạy Chúa. Vì sao?”

Tôi thu hồ sơ lại rồi cắp nó trong tay.

“Tôi chưa biết vì sao,” tôi đáp. “Chưa thôi.”

“Chúa ơi,” anh ta lại kêu. “Ai là thủ phạm?”

“Tôi chưa biết,” tôi bảo. “Chưa thôi.”

“Chúa ơi,” anh ta lại kêu, lần thứ ba.

“Gia quyến thế nào?” tôi hỏi.

Tay đại úy ngừng lại. Thở ra một hơi.

“Hình như anh ấy có mẹ sống ở đâu đó,” anh ta nói. “Tôi sẽ báo lại với anh sau.”

“Khỏi,” tôi bảo. “Anh tự mà điện cho bà ấy.”

Anh ta không nói gì.

“Tay Carbone này có thù hằn với ai ở đây không?” tôi hỏi.

“Theo tôi biết thì không.”

“Có mâu thuẫn với ai không?”

“Mâu thuẫn thế nào?”

“Về lối sống chẳng hạn?”

Tay đại úy nhìn tôi chằm chằm. “Anh ám chỉ gì vậy?”

“Anh ta là người đồng tính à?”

“Cái gì? Đương nhiên là không rồi.”

Tôi không đáp.

“Anh muốn nói Carbone là bê đê sao?” tay đại úy thì thầm.

Tôi nhớ lại điệu bộ của Carbone, cách anh ta ngả ngớn ngồi cách sân khấu thoát y sáu bộ, xem cô gái nào đó lăn lê bò toài bằng tứ chi với cặp mông vểnh lên trời còn cặp vú quết sàn sân khấu, miệng anh ta nhoẻn cười còn chai bia cầm trên tay. Có vẻ là một cách giải trí kỳ quặc đối với một người đồng tính. Nhưng rồi tôi nhớ lại ánh mắt lảng tránh và cách anh ta ngượng ngùng từ chối cô ả tóc nâu.

“Tôi có biết Carbone là người thế nào đâu,” tôi đáp.

“Không biết thì câm mẹ mồm anh lại đi,” tay đại úy nói. “Sếp ạ.”

Tôi cầm tập hồ sơ của Carbone về nhà xác và đón Summer tới ăn sáng tại nhà ăn sĩ quan. Chúng tôi ngồi riêng một góc, tránh xa mọi người. Tôi ăn một phần trứng với thịt xông khói và bánh mì nướng. Summer ăn ngũ cốc cùng trái cây trong khi đảo qua tập hồ sơ. Tôi uống cà phê. Summer uống trà.

“Chuyên viên khám nghiệm cho rằng đây là một vụ kỳ thị đồng tính,” cô bảo. “Anh ta nghĩ chắc chắn là như vậy.”

“Anh ta lầm to.”

“Carbone chưa kết hôn.”

“Tôi cũng thế,” tôi bảo. “Cô cũng vậy. Thế cô có đồng tính không?”

“Không.”

“Thì đó.”

“Nhưng trò tung hỏa mù này phải được dựa trên điều gì đó có sẵn chứ, phải không? Ý tôi là, thí dụ hung thủ biết nạn nhân là một kẻ cờ bạc, chẳng hạn, thì hẳn chúng đã nhét đầy giấy nợ vào mồm nạn nhân hoặc rải bài khắp nơi rồi. Để chúng ta nghĩ rằng đây là một vụ do nợ nần bài bạc. Sếp hiểu ý tôi không? Nếu chẳng dựa trên điều gì thì làm sao được. Dàn cảnh mà vừa nhìn vào chừng năm phút đã phủ định được ngay thì ngớ ngẩn, chứ đâu có thông minh.”

“Giả thuyết của cô là gì?”

“Carbone đồng tính, có người biết điều ấy, nhưng đó không phải động cơ gây án.”

Tôi gật đầu.

“Đó không phải động cơ gây án,” tôi đáp. “Giả thử anh ta đồng tính thật đi. Anh ta tại ngũ cũng mười sáu năm. Hắn vượt qua được phần lớn thập niên bảy mươi và toàn bộ thập niên tám mươi rồi. Vậy thì tại sao bây giờ mới gặp chuyện? Thời buổi khác biệt, không còn kỳ thị nhiều như trước, anh ta cũng giỏi che giấu hơn, cũng biết đi vũ quán thoát y cùng bạn bè. Chẳng lý gì mà tự nhiên anh ta gặp nạn lúc này cả. Nếu là trước đây thì còn có lý. Bốn năm trước, hoặc tám năm, hoặc mười hai, hoặc mười sáu. Khi anh ta chuyển vào đơn vị mới và người ta phát hiện con người thật của anh ta chẳng hạn.”

“Vậy động cơ gây án thật sự là gì?”

“Tôi chịu.”

“Dù gì chăng nữa, vụ này có thể sẽ là một bê bối lớn. Như vụ Kramer trong quán trọ ấy.”

Tôi gật đầu lần nữa. “Trại Bird có vẻ là một nơi bê bối.”

“Sếp nghĩ đó là nguyên nhân mà sếp có mặt ở đây à? Vì Carbone sao?”

“Cũng có thể. Tùy việc anh ta tượng trưng cho điều gì đã.”

Tôi nhờ Summer chuyển lại cho mình toàn bộ thông tin lẫn các bản báo cáo cần thiết rồi trở về văn phòng. Tin đồn lan truyền rất nhanh. Tôi gặp ba trung sĩ đội Delta đang đợi mình, để hỏi thông tin. Bọn họ đặc chất lính Đặc nhiệm. Cả ba đều nhỏ con, gọn người, dẻo dai, hơi nhếch nhác, rắn rỏi vô cùng. Trong nhóm có hai người có vẻ lớn tuổi hơn người còn lại. Tay trẻ nhất có râu quai nón. Da anh ta rám nắng, như vừa từ một nơi nào đó nóng gắt trở về vậy. Cả ba rảo qua lại trước văn phòng tôi. Cô trung sĩ có đứa con trai nhỏ đang tiếp họ. Tôi đoán cô trực ca chiều nay. Thái độ của cô như thể đang bị bọn họ vừa đảo bước qua lại vừa tán tỉnh vậy. Trông cô rất văn minh, so với ba người kia. Đến mức đài các là khác. Tôi đưa bọn họ vào văn phòng của mình rồi đóng cửa lại, đoạn ngồi xuống bàn và mặc kệ ba người nọ đứng đó.

“Tin về Carbone có chính xác không?” một gã hỏi.

“Anh ta bị sát hại,” tôi đáp. “Không biết thủ phạm là ai, không biết nguyên nhân vì sao.”

“Vào lúc nào?”

“Đêm qua, khoảng chín hay mười giờ tối.”

“Ở đâu?”

“Ở đây.”

“Doanh trại này kín cổng cao tường mà.”

Tôi gật đầu. “Thì thủ phạm đâu phải là người ngoài.”

“Nghe bảo anh ấy bị hành dã man lắm.”

“Cũng tương đối.”

“Khi nào anh mới biết được thủ phạm?”

“Hy vọng là sớm thôi.”

“Anh có manh mối nào chưa?”

“Chưa có gì cụ thể.”

“Khi anh biết thủ phạm, thì chúng tôi có được thông báo không?”

“Các anh muốn vậy à?”

“Chứ sao nữa.”

“Để làm gì?”

“Anh thừa biết mà,” gã đáp.

Tôi gật đầu. Dù đồng tính hay không, Carbone cũng từng là thành viên của băng nhóm đáng gờm nhất thế giới. Đồng đội của anh ta sẽ ở bên anh ta đến cùng. Tôi thoáng có chút ghen tị. Nếu tôi là người bị thịt vào một đêm tối trời, thì chắc gì đã có ba gã đầu gấu xông thẳng đến văn phòng ai đó, vào tám giờ sáng, hừng hực sát khí, một lòng muốn báo thù cho mình. Tôi nhìn lại toán người này lần nữa và nghĩ thầm, Tên thủ phạm kia chết chắc. Tôi chỉ cần bật ra một cái tên.

“Tôi cần hỏi ba người vài câu của cảnh sát,” tôi nói. Tôi hỏi họ những câu điều tra thông thường. Carbone có thù oán với ai không? Dạo gần đây liệu có xung đột nào? Có ai hăm dọa không? Có đánh nhau chăng? Bọn họ lắc đầu và cùng trả lời không cho mọi câu hỏi.

“Còn gì khác nữa không?” tôi hỏi. “Việc nào đó đe dọa tính mạng anh ta chẳng hạn?”

“Ví dụ như việc gì?”

“Bất kể việc gì cũng được,” tôi đáp. Tôi không muốn đi quá xa.

“Không,” bọn họ cùng trả lời.

“Các anh có giả thuyết nào không?”

“Đi soi bọn Biệt động,” gã trẻ tuổi lên tiếng. “Tìm thằng nào trượt khóa huấn luyện đội Delta và vẫn muốn chứng tỏ bản thân ấy.”

Rồi bọn họ bỏ về, để tôi ngồi lại ngẫm nghĩ câu nói cuối. Một lính Biệt động muốn chứng tỏ bản thân ư? Tôi không nghĩ vậy: Không hợp lý. Chẳng có tay trung sĩ Delta nào lại lặn lội vào rừng với một người mình không rõ là ai để rồi bị nện vào đầu cả. Quá trình huấn luyện vừa khổ nhọc vừa lâu dài của họ chính là để những trường hợp như vậy không thể xảy ra. Nếu một tay Biệt động muốn gây sự với Carbone, thì cái xác dưới gốc cây phải là của tay lính Biệt động đó. Nếu có hai lính Biệt động ra cùng anh ta, thì chúng tôi đã thấy xác của hai tay lính Biệt động đó. Hoặc chí ít cũng phải có dấu vết chống trả trên người Carbone. Anh ta không thể dễ dàng bị hạ gục như vậy.

Có nghĩa là anh ta đã đi cùng với người mình quen biết và tin tưởng. Tôi tưởng tượng anh ta đã rất thoải mái, có thể còn tán gẫu, hoặc tươi cười như trong quán bar kia. Có thể anh ta đang đi trước dẫn đường đến đâu đó, quay lưng về phía hung thủ, không chút nghi ngờ. Rồi tôi tưởng tượng một tuýp sắt hay xà beng gì đó xuất hiện từ dưới lớp áo khoác, vung lên, đập vào đánh bốp. Rồi một cú nữa. Và một cú nữa. Phải tới ba cú trời giáng mới hạ được anh ta. Ba cú đánh bất ngờ. Mà một người như Carbone thì hiếm khi nào bị bất ngờ.

Điện thoại tôi đổ chuông. Tôi nhấc máy. Người gọi là đại tá Willard, lão khốn trong văn phòng Garber, ở Rock Creek.

“Cậu đang ở đâu?” lão hỏi.

“Trong văn phòng,” tôi đáp. “Không thì làm sao tôi nghe máy?”

“Ngồi yên đó,” lão nói. “Không được đi đâu, không được làm gì, không được gọi ai. Đó là mệnh lệnh trực tiếp. Ngồi yên đó và đợi.”

“Chi vậy?”

“Tôi đang trên đường tới.”

Lão tắt máy. Tôi dập điện thoại.

Tôi đợi. Tôi không đi đâu, không làm gì, không gọi ai. Cô trung sĩ mang cho tôi cốc cà phê. Tôi nhận nó. Lão Willard đâu ra lệnh cho tôi chết khát.

Sau một tiếng đồng hồ thì tôi nghe giọng ai đó ở phòng ngoài, rồi tay trung sĩ trẻ đội Delta ban nãy trở lại, một mình. Tay có râu da rám nắng ấy. Tôi mời anh ta ngồi rồi suy ngẫm lại chỉ thị dành cho mình. Không được đi đâu, không được làm gì, không được gọi ai. Tôi đoán nói chuyện với anh ta thì cũng coi như là làm gì rồi, và vậy là vi phạm mục không được làm gì. Nhưng về căn bản, chỉ ngồi không mà thở cũng là đang làm gì thôi. Cũng như trao đổi chất. Tóc tôi đang dài ra, râu tôi đang dài ra, móng tay tôi cũng đang dài ra, cơ thể tôi đang tụt cân ngay lúc này. Chẳng cách nào mà người ta không làm gì được cả. Nên tôi quyết định rằng mục đó trong lệnh của mình chỉ mang tính ẩn dụ mà thôi.

“Tôi giúp gì được anh đây, Trung sĩ?” tôi hỏi.

“Tôi nghĩ Carbone đồng tính,” tay trung sĩ nói.

“Anh nghĩ à?”

“Thôi được, anh ấy là người đồng tính.”

“Còn ai khác biết không?”

“Tất cả bọn tôi đều biết.”

“Rồi sao nữa?”

“Chả sao cả. Tôi chỉ nghĩ anh cần thông tin đó thôi.”

“Anh cho rằng điều này có liên quan gì chăng?”

Anh ta lắc đầu. “Bọn tôi thoải mái với điều đó. Và kẻ thủ ác không phải chúng tôi. Không phải ai trong đơn vị. Không thể nào. Chúng tôi không làm những việc như thế. Ngoài đơn vị thì không ai biết hết. Nên đó không thể là nguyên nhân được.”

“Vậy anh kể với tôi làm gì?”

“Thì đằng nào anh cũng phát hiện thôi. Tôi muốn anh chuẩn bị tinh thần trước. Tôi không muốn anh bị bất ngờ.”

“Vì sao?”

“Như thế anh có thể giữ kín chuyện đó. Vì dẫu sao đó cũng không phải nguyên nhân.”

Tôi không đáp.

“Thanh danh của anh ấy sẽ bị ô uế,” tay trung sĩ bảo. “Thế không được. Anh ấy là người tốt và là một người lính gương mẫu. Đồng tính không phải cái tội.”

“Tôi đồng ý,” tôi đáp.

“Quân đội cần phải thay đổi.”

“Quân đội ghét thay đổi lắm.”

“Họ cho rằng việc đó làm hỏng tính đoàn kết của đon vị,” anh ta nói. “Họ nên tận mắt chứng kiến đội chúng tôi tác chiến. Cùng với Carbone.”

“Tôi không thể giữ kín chuyện đó,” tôi bảo. “Nếu được thì tôi đã làm. Nhưng hiện trường vụ án như vậy, ai nhìn vào cũng sẽ biết mà thôi.”

“Sao? Là một vụ tình dục à? Lúc trước anh có nói vậy đâu.”

“Tôi muốn giữ kín chuyện đó mà,” tôi bảo.

“Nhưng có ai biết đâu. Không ai ngoài đơn vị.”

“Phải có người biết rồi. Nếu không thì thủ phạm nằm trong đơn vị của các anh.”

“Không khả thi. Không thể nào, không cách nào được.”

“Phải là một trong hai thôi,” tôi bảo. “Anh ta có gặp gỡ người nào bên ngoài không?”

“Không, không bao giờ.”

“Vậy anh ta ở vậy suốt mười sáu năm trời à?”

Tay trung sĩ khựng lại một chút.

“Giờ tôi không chắc nữa,” anh ta đáp.

“Phải có ai đó biết,” tôi bảo. “Nhưng tôi không nghĩ đó là động cơ gây án. Tôi nghĩ có người muốn dàn dựng sự việc cho giống như vậy. Ít nhất, chúng ta cũng có thể làm rõ điều đó.”

Tay trung sĩ lắc đầu. “Sau này người ta sẽ chỉ nhớ về anh ấy như vậy thôi.”

“Tôi rất tiếc,” tôi bảo.

“Tôi không đồng tính,” anh ta nói.

“Thực tình thì tôi chả quan tâm.”

“Tôi có vợ con rồi.”

Anh ta để lại tôi với thông tin đó và tôi quay trở lại chấp hành chỉ thị của Willard.

Tôi dành thời gian chờ đợi để suy nghĩ. Người ta không thu hồi được hung khí nào tại hiện trường. Không chứng cứ pháp y nào đáng kể. Không sợi vải nào vướng lại trong bụi cây, không dấu chân trên đất, không mẩu da nào của hung thủ trong kẽ móng tay của Carbone. Những việc đó cũng dễ hiểu thôi. Thủ phạm đã đem hung khí đi, hắn có lẽ đã mặc bộ đồ dã chiến, thứ phục trang do Bộ Lục quân chú trọng thực hiện với mục đích không để rách và vương lại sợi vải khắp nơi. Các xưởng dệt trong nước phải đáp ứng yêu cầu chất lượng nghiêm ngặt trong việc sản xuất loại vải chéo và vải bông theo đúng tiêu chuẩn sử dụng của quân đội. Mặt đất đóng băng cứng như đá, nên không thể lưu lại dấu chân. Bắc Carolina này có một khoảng thời gian đóng băng dài đến một tháng, mà chúng tôi lại đang ở ngay giữa thời kỳ ấy. Đồng thời đó cũng là một cuộc tấn công bất ngờ. Carbone không có thời gian để quay lại cào cấu chống cự kẻ thủ ác.

Vậy nên chẳng có vật chứng cụ thể nào. Nhưng chúng tôi vẫn có chút lợi thế. Chúng tôi có một rổ nghi phạm xác định. Doanh trại này kín cổng cao tường, và quân đội rất giỏi lưu lại thông tin ai đã ở đâu, mọi lúc. Chúng tôi có thể bắt đầu với hàng chồng hàng đống giấy rồi dò từng cái tên một, theo hệ nhị phân đơn giản, có khả năng hay không có khả năng. Rồi gom những kẻ có khả năng lại và lọc chúng bằng bộ ba câu hỏi điều tra thần thánh: cách thức, động cơ, cơ hội. Cách thức và cơ hội thường không có ý nghĩa gì nhiều, về căn bản thì ai cũng có thể có khả năng cho đến khi chứng minh được rằng họ không có cơ hội gây án. Và ai trong quân đội cũng đủ sức để bất ngờ vung một cây sắt hay xà beng vào gáy nạn nhân. Việc đó gần như có thể coi là yêu cầu tối thiểu để nhập ngũ.

Vậy nên thứ quyết định sẽ là động cơ gây án, vốn là mục tiêu tôi đã theo đuổi từ đầu. Lý do động thủ là gì?

Tôi đợi thêm một giờ đồng hồ nữa. Không đi đâu, không làm gì, không gọi ai. Cô trung sĩ pha thêm cà phê cho tôi. Tôi gợi ý cô gọi cho trung úy Summer và rủ cô ấy sang chơi.

Summer có mặt trong vòng năm phút sau. Tôi có đủ thứ chuyện để trao đổi với cô, nhưng cô đã lường trước hết những điều tôi cần. Cô đã yêu cầu một danh sách toàn bộ sĩ quan tại trại, thêm bản ghi chép nhật ký ra vào cửa để chúng tôi dễ dàng loại trừ nghi phạm. Cô đã ra lệnh phong tỏa khu sinh hoạt của Carbone, chuẩn bị cho một cuộc điều tra. Cô đã sắp xếp một cuộc thẩm vấn sĩ quan chỉ huy của nạn nhân để thu thập thêm thông tin về đời sống cá nhân cũng như nghiệp vụ của anh ta.

“Xuất sắc lắm,” tôi bảo.

“Chuyện với Willard là sao vậy sếp?” cô hỏi.

“Thi nắn gân nhau, chắc vậy,” tôi đáp. “Những vụ nghiêm trọng thế này, lão muốn đến tận nơi trực tiếp chỉ đạo. Và nhắc nhở là tôi vẫn nằm dưới chân lão.”

Nhưng tôi đã sai.

Lão Willard cuối cùng cũng tới nơi sau tổng cộng chính xác bốn tiếng đồng hồ. Tôi nghe tiếng lão ở văn phòng ngoài. Tôi khá chắc cô trung sĩ sẽ không mời lão uống cà phê. Cô có mắt nhìn người mà. Cửa phòng tôi mở và lão tiến vào. Lão không buồn nhìn tôi. Chỉ đóng cửa lại sau lưng rồi quay lại ngồi phịch xuống ghế dành cho khách. Vừa đặt mông xuống đã ngay lập tức cựa quậy liên hồi. Cả người cứ nhấp nhổm rồi giật giật ống quần như thể nó đang thiêu bỏng da lão vậy.

“Bắt đầu từ hôm qua,” lão bắt đầu. “Tôi muốn biết toàn bộ hoạt động của cậu. Tôi muốn nghe nó từ chính miệng cậu.”

“Ông tới đây để thẩm vấn tôi á?”

“Phải,” lão đáp.

Tôi nhún vai.

“Tôi ở trên máy bay đến hai giờ,” tôi bảo. “Rồi gặp ông đến năm giờ.”

“Rồi sao nữa?”

“Lúc tôi về đến đây đã mười một giờ.”

“Cậu đi mất sáu tiếng sao? Tôi đi chỉ bốn tiếng thôi mà.”

“Thì chắc ông tự lái. Tôi bắt hai chuyến buýt rồi đi nhờ xe mà.”

“Sau đó thì sao?”

“Tôi gọi điện cho anh trai mình,” tôi đáp.

“Tôi biết anh trai cậu,” lão Willard nói. “Tôi từng làm việc với anh ta.”

Tôi gật đầu. “Anh tôi có nhắc đến.”

“Rồi sau đó?”

“Tôi nói chuyện với trung úy Summer,” tôi đáp. “Chuyện xã giao thôi.”

“Tiếp đó?”

“Xác Carbone được tìm thấy vào khoảng nửa đêm.”

Lão gật đầu rồi cựa quậy ra chiều khó ở lắm.

“Cậu còn giữ cuống vé xe buýt không?” lão hỏi.

“Hình như không,” tôi đáp.

Lão mỉm cười. “Vậy còn nhớ ai đưa cậu về doanh trại không?”

“Hình như không. Để làm gì?”

“Vì có thể tôi cần biết. Để xác nhận rằng tôi không phạm sai lầm nào.”

Tôi không đáp.

“Cậu đã phạm sai lầm đấy,” lão Willard nói.

“Tôi sao?”

Lão gật đầu. “Tôi không rõ cậu bị đần hay cố tình như vậy nữa.”

“Như thế nào cơ?”

“Cậu đang cố bôi nhọ quân đội à?”

“Hả?”

“Mục đích của cậu là gì đây, hả Thiếu tá?” lão hỏi.

“Nhờ Đại tá giải đáp luôn giùm tôi.”

“Chiến tranh lạnh sắp kết thúc rồi. Sẽ có những chuyển biến lớn. Mọi thứ có thể sẽ không còn như cũ. Do đó chúng tôi muốn mọi thành phần trong quân đội phải cố chứng tỏ được bản thân mình để khỏi bị loại bỏ. Và cậu biết gì không?”

“Gì cơ?”

“Lục quân chúng ta luôn nằm bét. Không quân thì có những chiến đấu cơ hoành tráng. Thủy quân thì đầy tàu ngầm lẫn tàu chuyên chở. Thủy quân lục chiến vẫn luôn bất khả xâm phạm. Còn mỗi chúng ta lẫn trong bùn đây thôi, theo đúng nghĩa đen. Nằm dưới đáy. Lục quân quá chán, Reacher ạ. Các quan lớn ở Washington nghĩ vậy đấy.”

“Thì sao?”

“Thằng Carbone này là bê đê. Một thằng bóng, vì Chúa. Biệt đội tinh nhuệ lại chứa chấp thứ biến thái ấy sao? Cậu nghĩ quân đội muốn người ngoài biết điều đó chắc? Vào thời điểm nhạy cảm này sao? Đáng lẽ cậu phải báo cáo rằng hắn chết do tai nạn khi tập luyện chứ.”

“Như vậy đâu có đúng sự thật.”

“Ai quan tâm đâu?”

“Nạn nhân đâu bị giết vì khuynh hướng tính dục của mình.”

“Lại còn không phải sao.”

“Điều tra là nghề kiếm ăn của tôi,” tôi bảo. “Và tôi cam đoan không phải vậy.”

Lão lườm tôi. Rồi nín thinh một lúc.

“OK,” lão nói. “Chuyện đấy tính sau. Còn ai ngoài cậu thấy cái xác?”

“Người của tôi,” tôi đáp. “Thêm một chuyên viên huấn luyện tác chiến tâm lý mà tôi tham khảo ý kiến. Và một chuyên viên giám định pháp y nữa.”

Lão gật đầu. “Cậu đi mà lo người của cậu. Để tôi nói chuyện với giảng viên tâm lý và bác sĩ pháp y kia.”

“Nói chuyện gì?”

“Nói rằng chúng ta sẽ báo cáo cái chết chỉ là tai nạn khi đang luyện tập. Họ sẽ hiểu thôi. Không vấn đề gì nghiêm trọng. Không cần điều tra.”

“Ông đùa tôi à.”

“Cậu nghĩ quân đội muốn việc này truyền ra ngoài sao? Ngay lúc này à? Việc đội Delta chứa chấp một quân nhân trái luật suốt bốn năm ư? Cậu điên rồi à?”

“Các trung sĩ đều mong muốn vụ việc được điều tra.”

“Còn tôi cam đoan với cậu rằng cấp trên của bọn họ thì không đâu. Tin tôi đi. Cậu không phải lăn tăn về chuyện ấy.”

“Thế thì tôi cần ông ra mệnh lệnh trực tiếp,” tôi bảo. “Rõ ràng súc tích.”

“Đọc môi tôi này,” lão Willard nói. “Không được điều tra thằng bê đê kia. Viết một bản báo cáo rằng hắn chết vì tai nạn khi luyện tập. Thao luyện buổi đêm, khi đang tập chạy, tập thể dục, gì cũng được. Hắn trượt chân ngã đập đầu xuống đất. Vụ án kết thúc. Mệnh lệnh trực tiếp đấy.”

“Tôi cần văn bản đàng hoàng,” tôi bảo.

“Bớt trẻ con đi,” lão nói.

Hai chúng tôi ngồi yên một hồi, chỉ nhìn nhau từ hai phía đối diện. Tôi ngồi im lặng, còn lão Willard hết cựa bên này đến bên kia rồi lại kéo quần. Tôi siết chặt nắm tay, ở góc khuất mà lão không trông thấy. Trong đầu tôi đang ướm một quả vào giữa ngực lão. Tôi đoán chỉ một đấm đó thôi cũng đủ đập nát quả tim xấu xa của lão. Tôi có thể khai rằng đó là tai nạn luyện tập. Tôi sẽ khai rằng lão tập đứng lên ngồi xuống trên ghế, rồi trượt chân đập lồng ngực vào cạnh bàn.

“Thời gian tử vong?” lão hỏi.

“Chừng chín hay mười giờ tối qua,” tôi đáp.

“Còn cậu tới mười một giờ đêm mới về trại?”

“Nãy ông hỏi tôi trả lời rồi,” tôi đáp.

“Cậu chứng minh được việc đó chứ?”

Tôi nhớ đến đội gác cổng. Chính họ đã lưu giờ về của tôi mà.

“Tôi có cần phải làm vậy không?” tôi hỏi.

Lão lại nín thinh. Ngả người sang trái trên ghế.

“Câu hỏi tiếp theo,” lão nói. “Cậu cho rằng thằng bê đê kia bị giết không phải vì hắn bê đê. Bằng chứng của cậu là gì?”

“Hung thủ đã dàn dựng hiện trường một cách thái quá,” tôi bảo.

“Để che giấu động cơ thực sự à?”

Tôi gật đầu. “Đánh giá của tôi là vậy.”

“Chứ động cơ thật là gì?”

“Sao tôi biết. Phải điều tra mới trả lời được.”

“Thử suy đoán xem,” lão Willard nói. “Coi như tay hung thủ giả định này sẽ đạt được lợi ích nào đó khi giết nạn nhân. Nói tôi nghe đó sẽ là gì.”

“Như thường lệ,” tôi đáp. “Để ngăn chặn hành động sắp tới nào đó của trung sĩ Carbone. Hoặc để che giấu tội ác nào đó mà trung sĩ Carbone có tham gia hoặc biết được.”

“Nói theo cách khác, là muốn bịt miệng hắn.”

“Muốn đẩy vụ việc nào đó vào bế tắc,” tôi đáp. “Tôi đoán như vậy.”

“Và cậu suy đoán kiểu này để kiếm ăn.”

“Phải,” tôi đáp. “Đúng vậy.”

“Nếu là cậu thì làm cách nào truy tìm hung thủ?”

“Bằng việc mở một cuộc điều tra.”

Lão Willard gật đầu. “Và khi tìm được hung thủ, giả định thôi nhé, cứ cho rằng là cậu tìm được đi, cậu sẽ làm gì tiếp theo?”

“Tôi sẽ bắt giam hắn,” tôi đáp. Giam giữ có bảo vệ, tôi nghĩ thầm. Tôi tưởng tượng đám huynh đệ của Carbone, nhấp nhổm không yên, sẵn sàng ăn tươi nuốt sống hung thủ.

“Và nghi phạm của cậu là tất cả số quân nhân có mặt ở trại lúc đó à?”

Tôi gật đầu. Trung úy Summer chắc đang vất vả lặn ngụp trong mớ danh sách lúc này.

“Họ sẽ được kiểm chứng bằng chỉ số sức khỏe và nhật ký ra vào trại,” tôi đáp.

“Còn dữ kiện thực tế thì sao,” lão Willard nói. “Tôi cứ tưởng với người kiếm sống bằng nghề điều tra thì dữ kiện thực tế là tối quan trọng chứ. Doanh trại này rộng gần một trăm ngàn mẫu vuông. Lần cuối cùng họ rào lại hàng rào biên của nơi này là năm 1943. Đó là dữ kiện thực tế. Tôi chẳng mất bao công đã biết, đáng lẽ cậu cũng nên như vậy chứ. Cậu không nghĩ là không nhất thiết phải qua cổng chính mới vào được trại ư? Cậu không nghĩ là có thể một người nào đó không được ghi trong danh sách có mặt ở trại đã lẻn vào qua hàng rào kia ư?”

“Khó có khả năng đó,” tôi đáp. “Nếu hung thủ lẻn từ ngoài vào sẽ phải cuốc bộ đến hơn hai dặm, giữa trời tối mù, vả lại ta còn đội xe mô tô tuần tra thâu đêm.”

“Nếu là một kẻ được huấn luyện thì có thể tránh đội tuần tra chứ.”

“Khó có khả năng đó,” tôi lặp lại. “Và nếu thế thì làm sao hắn ta gặp được trung sĩ Carbone?”

“Có hẹn địa điểm trước.”

“Nào có phải địa điểm rõ ràng đâu,” tôi bảo. “Chỉ là một nơi gần đường mòn.”

“Vậy họ canh theo bản đồ.”

“Khó có khả năng đó,” tôi nói, lần thứ ba.

“Nhưng có thể chứ?”

“Việc gì cũng có thể.”

“Vậy có thể hung thủ đã gặp thằng bóng kia, giết hắn, lần trở ra ngoài hàng rào biên, vòng ngược lại cổng chính, rồi đường hoàng ký tên nhập trại?”

“Việc gì cũng có thể,” tôi lặp lại.

“Sẽ mất bao nhiêu thời gian nhỉ? Từ việc giết hắn đến ký tên nhập trại ấy?”

“Tôi chịu. Tôi sẽ phải biết hắn đã cuốc bộ bao xa trước.”

“Biết đâu hắn chạy thục mạng.”

“Biết đâu đấy.”

“Nếu thế thì đến được cổng chính cũng hết cả hơi.”

Tôi không đáp.

“Thử đoán xem,” lão Willard nói. “Mất bao lâu?”

“Chừng một hay hai tiếng đồng hồ.”

Lão gật đầu. “Vậy nếu thằng đồng cô kia bị thịt lúc chín hay mười giờ tối, hung thủ có thể đã nhập trại vào mười một giờ?”

“Khả thi,” tôi đáp.

“Và động cơ gây án là muốn đẩy vụ việc nào đó vào bế tắc.”

Tôi gật đầu. Không nói thêm.

“Và cậu mất sáu giờ để đi một chặng đường dài bốn giờ đồng hồ, kết quả là dôi ra hai tiếng, mà cậu giải thích một cách mông lung rằng mình đã chọn cách đi chậm.”

Tôi không nói gì.

“Và cậu đồng tình rằng hai tiếng đồng hồ là quá dư dả để gây án. Cụ thể hai tiếng đó là từ chín đến mười một giờ tối qua, tình cờ thay chính là khung thời gian mà cậu không có bằng chứng ngoại phạm.”

Tôi vẫn lặng thinh. Willard mỉm cười.

“Và cậu đã thở dốc khi đến cổng trại,” lão nói. “Tôi có hỏi rồi.”

Tôi không đáp.

“Nhưng động cơ của cậu có thể là gì mới được?” lão bảo. “Tôi nghĩ cậu không thân quen gì với tay Carbone kia. Tôi nghĩ cậu cũng không cùng một giuộc với hắn. Ít nhất tôi thật sự hy vọng là cậu không cùng thể loại đó.”

“Ông đang phí thời gian thôi,” tôi nói. “Và còn đang phạm sai lầm lớn đó. Ông không muốn biến tôi thành kẻ thù đâu.”

“Không à?”

“Không,” tôi nhắc lại. “Thật sự không đâu.”

“Cậu muốn vụ gì rơi vào bế tắc nhỉ?” lão hỏi tôi.

Tôi không trả lời.

“Một dữ kiện thực tế thú vị này,” lão Willard nói. “Trung sĩ nhất Christopher Carbone chính là người đã tố cáo vụ ẩu đả của cậu đấy.”

Lão chứng minh bằng việc rút ra một bản sao tố cáo từ trong túi. Lão vuốt cho phẳng phiu rồi đặt lên bàn. Trên đầu văn bản ghi số tham chiếu cùng ngày giờ và địa chỉ. Ngày ghi mồng hai tháng Giêng, địa điểm là văn phòng Chỉ huy trưởng Quân cảnh trại Bird, và thời gian là 8 giờ 45. Dưới đó là hai đoạn lời khai có tuyên thệ. Tôi đọc lướt qua dòng chữ ghi bằng câu từ trịnh trọng. Tôi đã tận mắt chứng kiến một thiếu tá Quân cảnh tên Reacher tấn công dân thường đầu tiên bằng cách dùng chân đạp vào gối phải đương sự. Ngay sau đó thiếu tá Reacher tiếp tục tấn công vào mặt dân thường thứ hai bằng trán mình. Theo tôi biết thì cuộc ẩu đả xảy ra hoàn toàn là vô cớ. Tôi không thấy có yếu tố tự vệ. Rồi tới chữ ký của Carbone và số định danh của anh ta bên dưới. Tôi nhận ra số trong hồ sơ của Carbone. Tôi nhìn lên chiếc đồng hồ lặng lẽ gắn trên tường và tưởng tượng ra cảnh Carbone, lách ra cửa quán bar thoát y vào bãi đậu xe, thoáng nhìn tôi, rồi hòa vào nhóm người đang tựa lưng lên xe thong thả uống bia. Rồi tôi nhìn xuống và mở ngăn tủ ra cất tờ văn bản vào trong.

“Đội Delta tự bảo vệ mình,” lão Willard nói. “Ai cũng biết vậy. Có lẽ điều đó khiến tác phong họ thêm phần thần bí. Vậy nên giờ bọn họ sẽ làm gì đây? Khi một thành viên của mình bị đánh đến chết sau khi tố cáo một tay thiếu tá Quân cảnh xấc xược, và tay thiếu tá Quân cảnh xấc xược ấy lại đang cố vớt vát sự nghiệp của mình, và chính hắn cũng không có bằng chứng ngoại phạm rõ ràng vào đêm án mạng?”

Tôi không trả lời.

“Một bản sao của văn bản này sẽ được chuyển đến văn phòng sĩ quan chỉ huy của đội Delta,” lão Willard nói tiếp. “Quy trình chung với mọi tố cáo vi phạm thôi. Nơi nào cũng sẽ nhận được một bản. Nên tin tức sớm sẽ lan truyền. Sau đó họ sẽ bắt đầu đặt câu hỏi. Tôi biết phải trả lời sao đây? Tôi có thể bảo rằng cậu chắc chắn không phải nghi phạm. Nhưng tôi cũng có thể nói rằng cậu chắc chắn là một nghi phạm, nhưng vì một vài rắc rối trong quy trình khiến tôi không thể đụng tới cậu được. Để xem ý thức chính nghĩa của họ sẽ xử lý thế nào với sự bất công kiểu ấy.”

Tôi không đáp.

“Đó là đơn tố cáo duy nhất của Carbone,” lão nói. “Trong suốt mười sáu năm tại ngũ. Tôi cũng kiểm tra luôn rồi. Việc đó cũng dễ hiểu thôi. Người như hắn luôn phải tránh gây chú ý. Nhưng cả đội Delta kia sẽ nhận thấy vụ việc có gì kỳ lạ. Lần đầu tiên Carbone lên tiếng chống lại ai đó, họ sẽ nghĩ trước đó hai cậu đã từng có chuyện gì. Họ sẽ cho rằng đấy là Carbone trả thù. Mà như vậy cậu cũng chẳng được họ ưa hơn đâu.”

Tôi không đáp.

“Vậy nên tôi phải làm gì?” lão Willard hỏi. “Tôi có nên sang đó bóng gió với họ về mấy rắc rối vớ vẩn trong quy trình không? Hay chúng ta trao đổi nhỉ? Tôi giữ cho phía Delta không động đến cậu, còn cậu thì bắt đầu nghe lời một chút?”

Tôi không đáp.

“Cá nhân tôi không tin cậu đã giết hắn,” lão nói. “Ngay cả cậu cũng không liều đến vậy. Nhưng thực tình thì tôi cũng không phiền lòng lắm nếu cậu đã xuống tay. Bọn bóng trong quân đội đều đáng chết. Chúng nhập ngũ vì những mục đích sai trái. Nhưng có thể cậu đã chọn nhầm nguyên nhân để ra tay, vậy thôi.”

“Ông chỉ đe dọa hão,” tôi lên tiếng. “Ông chưa bao giờ nói với tôi rằng chính anh ta đã đệ đơn tố cáo. Hôm qua ông chưa hề cho tôi xem nó. Ông chưa bao giờ cho tôi biết ai đã làm việc đó.”

“Đám trung sĩ kia sẽ chẳng tin nửa lời của cậu. Cậu là điều tra viên thuộc đội đặc nhiệm. Đây là công việc kiếm ăn của cậu. Chẳng khó gì để cậu lôi ra một cái tên trong đống giấy tờ mà họ nghĩ chúng ta xử lý mỗi ngày cả.”

Tôi không đáp.

“Tỉnh đi nào, Thiếu tá,” lão Willard nói. “Phải thuận theo chiều gió thôi. Garber đã đi xa rồi. Mọi việc bây giờ đều phải theo ý của tôi.”

“Ông đang phạm sai lầm đấy,” tôi bảo. “Biến tôi thành kẻ thù của ông.”

Lão lắc đầu. “Tôi không nghĩ vậy. Tôi không phạm sai lầm đâu. Vả lại tôi cũng đâu có biến cậu thành kẻ thù. Tôi đang rèn cho đơn vị này vào nếp thôi. Rồi cậu sẽ cảm ơn tôi. Tất cả các cậu. Thế giới đang thay đổi. Mà mắt tôi có thể thấy rõ đại cục.”

Tôi không đáp.

“Giúp quân đội,” lão nói. “Và đồng thời giúp chính bản thân mình.”

Tôi không đáp.

“Hai ta thỏa thuận được chưa?” lão hỏi.

Tôi không trả lời. Lão nháy mắt với tôi.

“Tôi nghĩ là rồi nhỉ,” lão nói. “Cậu đâu đần đến vậy.”

Lão đứng dậy bước ra khỏi văn phòng và đóng cửa lại. Tôi ngồi đó nhìn tấm nệm cứng bọc vinyl trên ghế dành cho khách dần phồng trở lại hình dáng trước. Nó phồng lên rất chậm, tiếng không khí bị nó hút vào rin rít.