← Quay lại trang sách

MƯỜI BA

Dù bản thân chưa từng ăn sữa chua bao giờ nhưng tôi có thấy qua và ước chừng một hũ như vậy có kích thước hai inch, nghĩa là anh sẽ nhét vừa chừng ba trăm hũ như vậy vào mỗi một yard vuông đất. Cứ theo đó nhân lên thì một khoảnh đất rộng một mẫu vuông sẽ nhét vừa một triệu rưỡi hũ sữa chua. Và với diện tích doanh trại Bird này anh sẽ nhét vừa tất thảy là một trăm năm mươi tỷ hũ. Chẳng khác nào đi mò một con vi rút giữa sân vận động Yankee vậy. Tôi vừa tắm rửa và thay quần áo vừa lẩm nhẩm tính giữa buổi trời đêm gần sáng.

Rồi tôi ngồi trên giường và chờ ngày mai đến. Giờ còn quá tối, ra đó cũng chẳng để làm gì, không khéo lại để lỡ mất cơ hội một trên một trăm năm mươi tỷ kia. Tôi ngồi tính toán xem làm thế nào để giới hạn phạm vi tìm kiếm. Thủ phạm dĩ nhiên đã đi từ A đến B. Chúng tôi biết A là đâu. A là hiện trường nơi Carbone bị giết. Và chỉ có một số nơi nhất định có thể là B. B hoặc là một cái lỗ nào đó trên hàng rào hoặc là một trong các tòa nhà chính. Nên nếu khéo, chúng tôi có thể cắt từ hàng tỷ xuống triệu, và sẽ chỉ mất vài trăm năm thay vì cả ngàn năm để kiếm cái hũ.

Lỡ một con chồn nào đó đã tha cái hũ về tổ đánh chén rồi thì đành chịu.

Tôi gặp Summer tại bãi xe dành cho sĩ quan Quân cảnh. Trông cô rạng rỡ và sung sức nhưng cả hai không nói chuyện với nhau. Cũng chẳng có gì để nói, ngoại trừ cái nhiệm vụ bất khả thi mà chúng tôi đã tự đề ra. Và tôi đoán cả hai đều không muốn gây áp lực cho nhau bằng cách nhấn mạnh việc đó. Nên chúng tôi không trò chuyện. Bọn tôi chỉ chọn bừa một chiếc Humvee rồi lên đường. Lần này tôi tự lái xe, trên chặng đường dài ba phút mà mình vừa đi qua trước đó chừng ba mươi tiếng.

Đồng hồ đo quãng đường báo xe đã đi được một dặm rưỡi còn la bàn chỉ về hướng Tây Nam, và rồi chúng tôi cũng đến hiện trường. Ở đó vẫn vương lại mẩu băng keo điều tra của Quân cảnh dán trên vài thân cây. Chúng tôi dừng lại cách con đường mòn mười yard rồi xuống xe. Tôi trèo lên ca pô và ngồi trên nóc xe ngay khung kính chắn gió. Nhìn về hướng Tây Bắc, rồi xoay qua về hướng Đông Nam. Trời vẫn lạnh. Có ngọn gió vừa thổi qua. Khung cảnh trông thật rộng lớn và vương một màu nâu ảm đạm. Tia nắng bình minh yếu ớt và mờ nhạt ở đằng xa.

“Thủ phạm đã đi hướng nào?” tôi hỏi xuống Summer.

“Hướng Đông Bắc,” Summer đáp lại.

Cô có vẻ rất quả quyết.

“Vì sao?” tôi hỏi.

Cô trèo lên nắp xe ngồi cạnh tôi.

“Vì hắn đi xe,” cô đáp.

“Vì sao?”

“Vì ta không tìm thấy chiếc xe nào ở đây, và tôi không tin họ cuốc bộ.”

“Vì sao?”

“Vì nếu đi bộ, nơi xảy ra án mạng sẽ gần điểm họ khỏi hành hơn. Phải mất chừng ba mươi phút đi bộ mới đến đây được dù từ nơi nào tới chăng nữa. Tôi không nghĩ hung thủ có thể giấu được tuýp sắt hay xà beng suốt ba mươi phút đó, mà còn đi bên cạnh nạn nhân như vậy. Nếu giấu dưới áo khoác, thì cử động của hắn sẽ cứng nhắc không tự nhiên. Carbone hẳn sẽ cảnh giác. Nên họ phải đi bằng xe. Bằng chiếc xe của chính hung thủ. Hắn giấu hung khí dưới chiếc áo khoác hay gì đó ở băng ghế sau. Có thể cả con dao lẫn hũ sữa chua nữa.”

“Bọn họ khỏi hành từ điểm nào?”

“Ở đâu chả được. Việc ta cần quan tâm nhất là hung thủ đã biến đi đâu sau vụ việc. Và nếu đi xe, thì hắn chẳng thể lái nó tới hàng rào biên được. Ta cứ cho là hàng rào không có lỗ rách nào to bằng cả chiếc xe. Lỗ hổng ấy có thể người chui lọt, hoặc hươu nai chui lọt, nhưng một chiếc xe bán tải hay thậm chí xe thường thì không thể.”

“OK,” tôi đáp.

“Nên hắn quay về doanh trại. Hắn còn đi đâu được nữa. Làm sao lái một chiếc xe như vậy đi lung tung được. Hắn men theo vết bánh xe trở về và trả xe vào bãi rồi tiếp tục làm việc như thường.”

Tôi gật đầu. Rồi nhìn đường chân trời hướng Tây phía trước mình. Quay qua hướng Đông Bắc, theo đường mòn. Quay về hướng doanh trại. Quãng đường một dặm rưỡi. Tôi tính nhẩm lực bay của hũ sữa chua rỗng, vỏ bằng nhựa nhẹ, dạng như cái ly, với mẩu nắp bằng lá nhôm bay phần phật như chiếc phanh hoi. Tôi tưởng tượng mình vừa ném một cái hũ như vậy, bằng hết sức lực. Nó sẽ bay lượn và chao đảo giữa không trung. Nó sẽ bay được chừng mười feet là xa nhất. Quãng đường một dặm rưỡi, mười feet từ vai hung thủ, về bên trái, từ ghế tài xế. Hàng triệu khả năng rút lại còn hàng ngàn. Nhưng chợt chúng lại bùng ra thành hàng tỷ.

“Có tin tốt và tin xấu đây,” tôi nói. “Tôi nghĩ cô nói đúng, cô vừa giúp tôi rút gọn chín mươi chín phần trăm diện tích ta cần tìm. Có khi còn hơn. Thế là tốt.”

“Nhưng?”

“Nếu hung thủ dùng xe, liệu hắn có ném hũ sữa chua đi thật không?”

Summer im lặng.

“Hắn chỉ cần vứt nó xuống sàn xe,” tôi nói. “Hoặc quẳng ra ghế sau.”

“Nếu hắn dùng xe trong bãi thì không làm vậy được.”

“Có ai cấm hắn vứt nó vào thùng rác trên vỉa hè, sau khi trả xe đâu. Hoặc đem luôn về phòng mình là xong.”

“Có thể. Đây là tình huống năm mươi-năm mươi rồi.”

“Bảy mươi-ba mươi thì đúng hơn,” tôi nói.

“Ta vẫn cứ nên tìm sếp ạ.”

Tôi gật đầu. Tôi chống tay lên khung kính chắn gió lấy đà nhảy xuống đất.

Vào tháng Giêng, thời tiết khá thoải mái. Tháng Hai có lẽ sẽ thuận lợi hơn. Với khí hậu Bắc bán cầu này, thực vật thường tàn vào tháng Hai. Cây cối sẽ thưa thớt hơn bây giờ. Nhưng tháng Giêng này vẫn không hề gì. Cây bụi mọc khá thấp trên mặt đất bằng phẳng màu nâu. Đó là màu lá cành mục ruỗng. Tuyết không rơi. Khung cảnh tự nhiên và lành tính. Thật là một bối cảnh thuận lợi. Tôi đoán hũ đựng sữa chua kia phải có màu trắng sáng. Hoặc màu kem. Hoặc màu hồng, để thể hiện vị dâu hay mâm xôi. Dù sao đi nữa, nó sẽ mang màu dễ nhận thấy. Không phải màu đen, chẳng hạn. Có ai bán hũ sữa chua màu đen bao giờ. Nếu nó thực sự nằm đâu đây và nếu đến đủ gần, chúng tôi sẽ thấy ngay.

Chúng tôi rà soát một vòng bán kính mười feet xung quanh vành đai hiện trường. Không tìm thấy gì. Nên cả hai quay trở lại con đường mòn và đi theo hướng Đông Nam. Summer đi cách mép đường bên trái năm feet, còn tôi cách về bên trái cô năm feet nữa. Như vậy chúng tôi sẽ kiểm tra được một phạm vi mười lăm feet, với bốn con mắt quan sát khu vực năm feet giữa hai người, mà theo tôi ước tính chính là vị trí hũ sữa chua kia đáp xuống.

Cả hai di chuyển chậm, với tốc độ bằng nửa bình thường. Tôi đi từng bước ngắn và xoay đầu từ bên này qua bên kia theo mỗi bước chân. Tôi tự thấy điệu bộ ấy hơi lố bịch. Chẳng khác một con chim cánh cụt. Nhưng cách ấy hiệu quả. Chân tôi tự động bước đi trên mặt đất đang mờ dần trước mắt. Tôi không còn nhìn rõ từng mẩu lá hay cành cây hay ngọn cỏ nữa. Tôi đang lờ đi những thứ bình thường phải có trên mặt đất. Tôi cảm giác nếu có một vật lạ lạc lõng nó sẽ đập vào mắt mình ngay.

Chúng tôi đi suốt mười phút mà chẳng tìm thấy gì.

“Ta đổi bên nhé sếp?” Summer nói.

Chúng tôi đổi chỗ cho nhau rồi tiếp tục. Chẳng có gì trên đường ngoài hàng triệu những mẩu vụn thường thấy nơi rừng cây. Doanh trại quân đội thường được giữ gìn vô cùng sạch sẽ. Việc dọn vệ sinh mỗi tuần trở thành một nghi thức tôn giáo. Bên ngoài hàng rào biên có khi anh tìm thấy đủ loại rác rưởi. Nhưng trong đây thì tuyệt đối không. Sạch bóng rác. Bọn tôi đi tiếp mười phút, thêm ba trăm yard, rồi dừng lại và đổi chỗ lần nữa. Đi lề mề giữa trời lạnh thật không thoải mái chút nào. Tôi cứ chăm chăm nhìn xuống đất như hóa rồ. Nhưng đây có thể là phương án khả thi nhất. Một dặm rưỡi là 2.640 yard. Tôi nghĩ mấy trăm yard đầu lẫn cuối đều không phải vị trí tìm kiếm tốt. Phản ứng ban đầu của hung thủ là muốn tẩu thoát thật nhanh. Khi tới gần các tòa nhà hắn biết mình cần bình tĩnh lại và phải thủ tiêu vật chứng. Vậy nên chặng đường ở giữa sẽ là nơi hắn làm việc đó. Người nào có chút trí khôn trong tình huống đó sẽ đứng lại, hít thở, suy xét tình huống. Hắn sẽ hạ cửa sổ xe để gió đêm phả lên mặt cho tỉnh táo. Tôi bước chậm lại và nhìn thật kỹ hết bên trái, rồi tới bên phải. Vậy mà vẫn chẳng tìm thấy gì.

“Hung thủ có dính máu trên người không?” tôi hỏi.

“Có một chút, chắc vậy,” Summer cất tiếng đáp, từ bên phải tôi.

Tôi không nhìn cô. Mắt vẫn dán xuống đất.

“Dính trên găng tay,” cô nói. “Có thể trên giày.”

“Chắc ít hơn hắn tưởng.” tôi bảo. “Phải rành y khoa mới biết nạn nhân sẽ không chảy máu nhiều.”

“Thì sao?”

“Thì hắn sẽ không lấy xe trong bãi. Hắn tưởng sẽ vấy máu nhiều nên không muốn mạo hiểm dùng thứ phương tiện mà ai đó có thể sử dụng vào ngày hôm sau.”

“Vậy như sếp nói ban nãy, nếu hắn đi xe riêng, thì đã ném hũ sữa chua vào băng ghế sau luôn rồi. Ngoài này đâu còn gì để ta tìm nữa.”

Tôi gật đầu. Không đáp. Và đi tiếp.

Chúng tôi rà soát hết chặng đường giữa mà không có kết quả. Suốt hai ngàn yard chỉ tìm thấy những mẩu vụn lá cành mà tuyệt nhiên không hề có dấu ấn của con người. Dù có là mẩu thuốc lá, mẩu giấy, hay chai lọ gì đó chăng nữa. Nỗ lực của sĩ quan chỉ huy doanh trại thật đáng khen. Nhưng trong trường hợp này thì chán thay. Chúng tôi dừng lại khi trụ sở doanh trại hiện ra trước mắt, cách đó ba trăm yard.

“Tôi muốn lần ngược trở lại,” tôi nói. “Bắt đầu ở khoảng giữa đường lần nữa.”

“OK,” cô đáp. “Đằng sau, quay.”

Cô quay lại rồi đổi bên cho tôi. Lần này chúng tôi quyết định đảo vị trí rà soát từng đoạn ba trăm yard. Khi trước tôi đi vùng trong, bây giờ tôi sẽ đảm nhiệm vùng ngoài, và ngược lại. Cũng chẳng có lý do gì cao siêu, chỉ là góc nhìn của chúng tôi khác nhau nên mới làm vậy. Tôi cao hơn cô cả mấy chục phân, vì thế tầm nhìn của tôi cũng xa hơn cô cả mấy chục phân. Cô ở gần mặt đất hơn tôi và cũng tự nhận mình rất tinh mắt.

Hai chúng tôi đi ngược lại, cất bước thật chậm và từ tốn.

Khu vực đầu tiên không có gì khả nghi. Chúng tôi đổi vị trí. Tôi đứng cách con đường mòn mười feet. Nhìn từ trái sang phải. Gió phả vào mặt chúng tôi, và mắt tôi cay xè vì hơi lạnh. Tôi đút tay vào túi quần.

Khu vực thứ hai cũng vậy. Chúng tôi lại đổi vị trí. Tôi đi cách con đường mòn năm feet, song song với mép đường. Khu vực thứ ba cũng vậy. Chúng tôi đổi chỗ lần nữa. Vừa đi tôi vừa tính nhẩm trong đầu. Đến giờ cả hai đã rà soát được 15 feet bề rộng trên một đoạn đường dài 2.340 yard. Vậy là 11.700 yard vuông, tức chỉ hơn hai phẩy tư mẫu vuông một chút. Chỉ gần hai mẫu vuông rưỡi, trên tổng số 100.000. Tỷ lệ là một trên bốn mươi ngàn, vẫn đỡ hơn vào thị trấn bỏ một đô la mua xổ số. Nhưng cũng chẳng bao nhiêu.

Chúng tôi đi tiếp. Gió trở mạnh và lạnh hơn trước. Cả hai vẫn chưa tìm được gì.

Nhưng rồi tôi trông thấy nó.

Nó nằm ở phía xa bên phải tôi. Có lẽ chừng hai mươi feet. Không phải hũ sữa chua. Thứ gì đó khác. Tôi suýt bỏ qua nó vì nó nằm xa hẳn ngoài phạm vi khả năng. Một vật làm bằng nhựa nhẹ không thể nào bay xa như vậy khi bị ném từ cửa sổ xe trên đường. Nên khi mắt tôi vừa lướt thấy nó thì não đã ngay lập tức suy luận và loại trừ luôn, hoàn toàn dựa theo cơ sở đã xác định sẵn.

Nhưng rồi tôi khựng lại. Thuần túy do bản năng.

Bởi vật ấy trông như một con rắn. Phần não bò sát của tôi thì thầm rắn kìa và trong tôi chợt nảy lên nỗi sợ nguyên thủy mà trước đây đã giúp tổ tiên tôi sinh tồn trong suốt cuộc tiến hóa. Nhưng nỗi sợ đó biến mất ngay tức khắc. Nó bị át đi ngay lập tức. Phần tri thức văn minh trong tôi lên tiếng và bảo, Tháng Giêng lạnh thế này làm sao có rắn được hả ông. Tôi thở phào rồi tiến tới để nhìn cho rõ, hoàn toàn vì tò mò.

Giữa mảng cỏ héo úa là một vật cong cong màu đen. Dây thắt lưng à? Hay vòi nước? Nhưng vật làm bằng da hay vải hay cao su không thể nào rơi xuống mà lún sâu tít dưới bụi cây khô cứng như vậy được. Nó vướng tuốt trong hàng rễ cơ mà. Vậy thì nó phải là vật nặng. Phải nặng mới bay xa được như vậy nếu bị ném từ đường mòn. Vậy thì nó làm bằng kim loại. Thân đặc, chứ không rỗng. Vậy thì nó là vật thể lạ. Bởi đồ quân dụng ít có vật nào cong như vậy.

Tôi bước tới. Đến sát bên. Rồi quỳ xuống.

Đó là một thanh xà beng.

Một thanh xà beng sơn đen, ở phần đầu dính bết lại những vệt tóc vấy máu.

Tôi ở lại canh tang vật còn Summer trở về lấy xe. Cô quay lại sớm hơn tôi tưởng và còn thở dốc nữa nên tôi đoán cô đã chạy nhanh hết sức có thể.

“Ta có đem theo túi đựng tang vật không?”

“Đây đâu phải tang vật,” cô đáp. “Tai nạn luyện tập thì làm gì có tang vật.”

“Tôi không định dùng thứ này làm chứng đâu,” tôi bảo. “Tôi chỉ không muốn đụng tay vào nó, vậy thôi. Tôi không muốn vân tay của tôi dính lên đó. Biết đâu lão Willard lại bày ra gì nữa.”

Cô kiểm tra sau xe.

“Không có túi đựng rồi sếp ạ,” cô đáp.

Tôi ngẫm nghĩ một lúc. Thông thường anh cần phải bảo quản chứng cứ hiện trường thật kỹ và cách ly chúng với những dị vật như vân tay hay tóc hay xơ vải của người khác, tránh ảnh hưởng tới quá trình điều tra. Nếu không thì anh sẽ gặp phiền phức với bên công tố. Nhưng trường hợp này phiền phức sẽ khác, bởi có dính líu tới lão Willard nữa. Tôi mà phạm sai sót nào, có khi phải ngồi tù. Cách thức, động cơ, thời điểm gây án, dấu vân tay của tôi trên hung khí. Quả là may mắn trời cho. Nếu vụ này vỡ lở, lão ta sẽ lôi tôi ra ngay lập tức.

“Ta gọi chuyên viên xử lý hiện trường tới là được mà,” Summer bảo. Cô đứng ngay sau tôi. Tôi cảm thấy vậy.

“Ta không thể kéo ai vào cuộc nữa,” tôi đáp. “Thậm chí tôi còn không muốn kéo cô vào nữa mà.”

Cô vòng ra bên cạnh tôi rồi cúi xuống thấp. Cô lấy tay vạt cỏ qua một bên, để nhìn cho rõ.

“Đừng có đụng vào nó,” tôi nói.

“Tôi có định vậy đâu sếp,” cô đáp.

Cả hai cùng ngắm nghía tang vật, thật kỹ lưỡng. Một thanh xà beng đúc từ thép hình tám cạnh. Nhìn có vẻ là hàng chất lượng tốt. Trông còn mới lắm. Nó được phủ bằng thứ sơn đen mà người ta vẫn tô lên tàu thuyền hay xe cộ. Hình dáng na ná chiếc kèn saxophone. Phần thân dài chừng ba feet, hơi uốn theo hình chữ S, một đầu uốn cong hơn đầu kia, giống như chữ J vậy. Hai đầu được đập dẹp và khía thành móng để cạy đinh khỏi ván gỗ. Thiết kế của nó rất chuẩn xác, tân tiến, tối giản, và không kém phần tàn bạo.

“Có vẻ ít được sử dụng,” Summer nói.

“Chưa từng được sử dụng luôn,” tôi đáp. “Ít ra cũng không phải dùng trong xây dựng.”

Tôi đứng dậy.

“Khỏi lấy dấu vân tay,” tôi bảo. “Chắc hung thủ đã đeo bao tay khi vung nó.”

Summer đứng dậy bên cạnh tôi.

“Khỏi kiểm tra mẫu máu luôn vậy,” cô nói. “Chắc là máu của Carbone rồi.”

Tôi không đáp.

“Ta cứ để nó ở đây được mà sếp,” Summer bảo.

“Không,” tôi đáp. “Ta không làm vậy được.”

Tôi cúi xuống cởi giày chân phải. Tôi rút dây giày ra buộc hai đầu lại. Và thế là tôi có một thòng lọng với đường kính mười lăm inch. Tôi móc nó vào tay phải rồi rê đầu kia qua mớ cỏ úa móc vào một đầu thanh xà beng. Tôi nắm tay lại và cẩn thận nhấc thanh thép nặng kia lên khỏi đám cỏ. Tôi giơ nó lên, như một người câu cá đang khoe chiến tích vậy.

“Đi thôi,” tôi bảo.

Tôi đi cà nhắc từng bước ra ghế trước ngồi với thanh xà beng đung đưa trong tay và một bên giày sắp tuột. Tôi ngồi sát vào phía cần số và tựa thanh xà beng xuống sàn vừa đủ để nó khỏi va vào chân tôi khi xe chạy.

“Đến đâu hả sếp?” Summer hỏi.

“Nhà xác,” tôi đáp.

Tôi đinh ninh chuyên viên khám nghiệm và nhân viên của anh ta đã ra ngoài ăn sáng, nhưng hóa ra không phải. Bọn họ vẫn đang làm việc trong phòng. Chính chuyên viên khám nghiệm kia bắt gặp chúng tôi ngay tiền sảnh. Anh ta cầm tập hồ sơ toan đi đâu đó. Anh ta nhìn chúng tôi rồi chuyển qua vật lưu niệm mà tôi móc bằng dây giày trên tay. Mất nửa giây anh ta đã nhận ra đó là thứ gì, và nửa giây nữa để nhận ra chuyện này đẩy cả ba chúng tôi vào một tình thế khó xử.

“Để lát bọn tôi quay lại,” tôi nói. Khi anh đi chỗ khác rồi ấy.

“Không,” anh ta đáp. “Vào văn phòng tôi đi.”

Anh ta dẫn đường. Tôi trông từ đằng sau. Anh ta nhỏ người, da ngăm, chân ngắn, nhanh nhẹn, có chuyên môn, lớn hơn tôi ít tuổi. Có vẻ là một người dễ ưa. Và chắc chắn không phải dạng khờ khạo rồi. Có tay bác sĩ quân y nào khờ đâu. Phải học đủ thứ chuyên môn phức tạp xong, anh ta mới lên được vị trí này. Và tôi đoán anh ta chẳng phải người không có nguyên tắc. Hiếm bác sĩ quân y nào không như vậy lắm, theo tôi biết, về căn bản bọn họ vẫn là những nhà khoa học, mà nhà khoa học thì chỉ quan tâm đến chứng cứ và sự thật mà thôi. Hoặc ít nhất cũng có trí tò mò bẩm sinh. Anh ta là dạng nào cũng được, vì trong tình huống này thái độ của anh ta đóng vai trò rất quan trọng. Hoặc anh ta nhường đường cho chúng tôi, hoặc bán đứng chúng tôi bằng một cú điện thoại.

Văn phòng anh ta xây hình vuông, được bài trí đơn giản với vài chiếc bàn làm việc bằng thép và tủ đựng hồ sơ. Trên tường còn treo bằng cấp đóng khung. Vài kệ đầy những sách và sách hướng dẫn. Không có bình đựng mẫu vật. Không có chai lọ ngâm những thứ quái dị trong phoóc môn. Trông chẳng khác nào phòng một luật sư quân đội, chỉ khác ở chỗ những tấm bằng được cấp từ trường y, chứ không phải trường luật.

Anh ta ngồi xuống chiếc ghế xoay. Tiện tay đặt tập hồ sơ lên bàn. Summer đóng cửa phòng lại rồi tựa người lên đó. Tôi đứng giữa phòng, trên tay vẫn đung đưa thanh xà beng. Sáu mắt nhìn nhau. Đợi xem ai chào hàng trước.

“Vụ Carbone đơn thuần chỉ là tai nạn trong lúc tập luyện thôi,” tay bác sĩ mở lời, như thể vừa đẩy quân tốt lên hai ô để mở thế cờ.

Tôi gật đầu.

“Không phải bàn cãi rồi,” tôi đáp, như vừa đi quân tốt của mình lên.

“Thật mừng vì hai ta đều đồng ý chuyện đó,” anh ta nói.

Nhưng nghe giọng anh ta như muốn nói: Ai mà tin nổi cái chuyện nhảm nhí đó hả trời?

Tôi nghe Summer thở phào, vì ta đã có đồng minh. Nhưng đồng minh này lại muốn tránh thật xa sự thật. Đồng minh này chỉ muốn trốn sau những thứ bình phong hào nhoáng này. Và tôi không trách anh ta. Anh ta đang trả nợ tiền học trường y của mình bằng những năm tháng phục vụ quân đội. Vậy nên anh ta cảnh giác là phải. Vậy nên chúng tôi cần tôn trọng ý muốn của vị đồng minh này.

“Carbone bị ngã đập đầu,” tôi nói. “Hết chuyện. Tai nạn ngoài ý muốn đơn thuần, sự việc rất đáng tiếc.”

“Nhưng?”

Tôi giơ thanh xà beng lên cao một chút.

“Tôi nghĩ anh ta đập đầu vào thứ này,” tôi đáp.

“Những ba lần?”

“Chắc đầu anh ta nẩy lên nẩy xuống. Có thể dưới lớp lá khô kia đầy những cành gãy, làm mặt đất đàn hồi, giống tấm bạt lò xo trẻ con hay chơi ấy.”

Tay bác sĩ gật đầu. “Đến mùa này, đất đai dễ nẩy lắm.”

“Chết người đấy,” tôi bảo.

Tôi hạ thanh xà beng xuống. Và đợi.

“Sao anh lại đem nó tới đây?” tay bác sĩ hỏi.

“Có thể là một vụ thiếu cẩn thận gây ra tai nạn,” tôi đáp. “Kẻ nào vứt thứ này lung tung để Carbone ngã đập đầu vào cần phải chịu phạt.”

Tay bác sĩ gật đầu lần nữa. “Xả rác là một tội nghiêm trọng mà.”

“Nhất là trong doanh trại này,” tôi đáp.

“Anh muốn tôi làm gì?”

“Chẳng làm gì hết,” tôi đáp. “Chúng tôi đến để giúp anh mà, chỉ vậy thôi. Vụ án cũng kết thúc rồi, bọn tôi nghĩ anh cũng chẳng muốn bày bừa văn phòng bằng mấy mẫu thạch cao mà anh đã đắp đâu. Mấy mẫu đắp đối chứng vết thương của nạn nhân ấy. Nên bọn tôi định ghé qua lấy chúng đặng vứt vào bãi rác giùm anh thôi.”

Tay bác sĩ gật đầu lần thứ ba.

“Bọn anh làm vậy cũng được,” anh ta đáp. “Đỡ mất công tôi đi lại.”

Anh ta ngẫm nghĩ một hồi lâu. Rồi dọn gọn tập hồ sơ trước mặt và mở hộc tủ lấy mấy tấm giấy sạch trải lên mặt bàn và đặt trên ấy sáu phiến kính tiêu bản.

“Trông nặng nề quá nhỉ,” anh ta nói với tôi.

“Nặng chứ,” tôi đáp.

“Hay thôi anh bỏ nó xuống đi. Cho vai đỡ nặng.”

“Đó là lời khuyên y khoa hả bác sĩ?”

“Kẻo anh làm đứt dây chằng đấy.”

“Tôi biết bỏ nó xuống đâu bây giờ.”

“Anh thấy chỗ nào phẳng thì bỏ.”

Tôi bước tới đặt thanh xà beng nhẹ nhàng xuống bàn làm việc của anh ta, bên trên mặt giấy và đống phiến kính. Tháo nút thòng lọng dây giày ra. Quỳ xuống xâu chúng lại vào trong giày. Buộc chặt. Tôi vừa ngẩng đầu lên thì thấy tay bác sĩ vừa di chuyển một phiến kính. Anh ta cầm nó lên và quẹt nó vào mép thanh xà beng có dính máu và tóc.

“Chết thật,” anh ta nói. “Tôi làm bẩn phiến kính này rồi. Bất cẩn quá đi mất.”

Anh ta bất cẩn hệt như vậy với năm phiến kính còn lại.

“Các anh có cần vân tay không nhỉ?” anh ta nói.

Tôi lắc đầu. “Bọn tôi đoán đương sự có đeo găng tay.”

“Nên kiểm tra đi, tôi nghĩ vậy. Thiếu cẩn thận gây tai nạn là một vụ việc nghiêm trọng đấy.”

Anh ta mở một ngăn tủ khác và rút đôi găng tay đeo vào tay mình. Có chút bột tan bay lên. Rồi anh ta nhặt thanh xà beng đem ra khỏi phòng.

Anh ta trở lại chừng mười phút sau. Trên tay vẫn đeo găng. Thanh xà beng được rửa sạch trơn. Nước sơn đen bóng loáng. Trông hệt như mới.

“Không có dấu vân tay nào,” anh ta bảo.

Anh ta đặt thanh xà beng xuống ghế rồi kéo ngăn tủ lấy một hộp các tông màu nâu. Trong đó đựng hai tấm thạch cao màu trắng. Cả hai dài chừng sáu inch ghi chữ Carbone bằng mực đen dưới đáy. Một tấm lồi lên, bằng cách đắp trực tiếp vào vết thương. Tấm kia lõm xuống, bằng cách đắp lên tấm trước. Tấm lồi cho thấy hình dáng vết thương do hung khí tạo thành, và tấm lõm cho thấy hình dáng của chính hung khí đó.

Tay bác sĩ đặt tấm đắp lồi bên cạnh thanh xà beng. Rồi sắp xếp lại để chúng nằm song song với nhau. Tấm thạch cao dài chừng sáu inch. Nó màu trắng và hơi rỗ do quá trình đắp nhưng trông y hệt như mẩu thép đen sáng bóng. Y hệt. Hình dáng y hệt, độ dày y hệt, nét cong y hệt nhau.

Rồi tay bác sĩ đặt tấm lõm lên bàn. Nó to hơn tấm kia một chút, và cũng méo mó hơn. Nó là bản sao chính xác của hộp sọ Carbone sau khi bị đập. Tay bác sĩ cầm thanh xà beng lên. Thử độ nặng của nó. Ướm nó trong tay. Rồi hạ xuống, thật chậm, một, cho cú đánh đầu tiên, rồi hai cho cú thứ hai. Và ba cho cú cuối cùng. Anh ta chạm nó vào tấm thạch cao. Vết thương thứ ba và cũng là cuối cùng thì rõ nhất. Trên tấm thạch cao có một vết hõm sâu ba phần tư inch, và thanh xà beng kia để vào vừa khít.

“Tôi sẽ kiểm tra mẫu máu và tóc,” tay bác sĩ nói. “Dù chúng ta cũng đoán ra nó thuộc về ai rồi.”

Anh ta nâng thanh xà beng lên khỏi tấm thạch cao và hạ nó xuống lần nữa. Nó vẫn vừa khít, không sai một li và sâu hoắm. Anh ta nhấc thanh xà beng lên và cầm trong lòng bàn tay, như đang đo trọng lượng của nó. Chợt anh ta nắm phần cán thẳng rồi vung cật lực, như vận động viên bóng chày đón một cú ném bóng nhanh. Anh ta vung nó lần nữa, mạnh hơn, một cú đánh chắc chắn và hiểm hóc. Trông thanh xà beng khá to trong tay anh ta. To, và hơi nặng đối với anh ta. Cú vung hơi mất kiểm soát một chút.

“Phải là một người rất khỏe,” anh ta bảo. “Một cú đánh hiểm ác. Một gã to lớn, thuận tay phải, cực kỳ khỏe mạnh. Nhưng phần lớn quân nhân trong doanh trại này đều như vậy, nhỉ.”

“Làm gì có gã nào như vậy,” tôi nói. “Đã bảo là Carbone ngã đập đầu cơ mà.”

Tay bác sĩ cười vắn rồi lại cầm thanh thép trong lòng bàn tay.

“Trông đẹp thật, theo kiểu riêng của nó,” anh ta bảo. “Tôi nói vậy nghe có kỳ không?”

Tôi hiểu ý anh ta muốn nói gì. Một thanh thép khá tốt, được thiết kế cho đúng chức năng của nó, và không hơn. Như khẩu Colt Detective Special, hay dao K-bar, hay một con gián vậy. Anh ta cất nó vào hộc tủ thiếc. Tiếng kim loại chà vào nhau rồi khẽ đánh canh một tiếng khi anh ta thả tay ra.

“Để tôi giữ nó cho,” anh ta nói. “Nếu anh muốn. Như vậy an toàn hơn.”

“OK,” tôi đáp.

Anh ta đóng tủ lại.

“Anh thuận tay phải à?” anh ta hỏi tôi.

“Phải,” tôi đáp. “Đúng vậy.”

“Đại tá Willard bảo tôi anh là thủ phạm,” anh ta nói tiếp. “Nhưng tôi không tin ông ta.”

“Vì sao?”

“Trông anh rất ngạc nhiên khi thấy nạn nhân. Lúc tôi đặt da mặt anh ta vào chỗ cũ ấy. Phản ứng của anh rất rõ ràng. Cái đó người ta thường khó làm giả lắm.”

“Anh có bảo Willard như vậy không?”

Tay bác sĩ gật đầu. “Ông ta thấy điều đó hơi bất tiện. Nhưng ông ta không đổi ý. Và tôi đoán chắc ông ta đang dựng lên một giả thuyết để giải thích cho phản ứng của anh đó.”

“Tôi sẽ cẩn thận,” tôi đáp.

“Vài tay trung sĩ đội Delta cũng tới tìm tôi. Bên ngoài đang lan truyền tin đồn gì đó. Tôi nghĩ anh nên cảnh giác cao độ thì hơn.”

“Tôi sẽ làm vậy,” tôi đáp.

“Cảnh giác cao độ nhé,” tay bác sĩ nói.

Summer và tôi cùng trở về chiếc Humvee. Cô nổ máy rồi ngồi để chân lên bàn đạp thắng.

“Đến phòng hậu cần,” tôi bảo.

“Hắn đâu dùng đồ trong quân đội đâu sếp,” cô nói.

“Trông nó khá đắt tiền,” tôi đáp. “Đắt tiền dạng Lầu Năm Góc ấy.”

“Thế thì nó phải màu xanh lá chứ.”

Tôi gật đầu. “Có thể lắm. Nhung ta vẫn nên kiểm tra. Sớm muộn ta cũng sẽ cần toàn bộ manh mối mà.”

Cô nhấc chân khỏi thắng xe rồi lái về hướng khu nhà hậu cần. Cô ở trại Bird trước tôi từ lâu nên rất thông thạo nơi này. Cô dừng xe tại một căn nhà kho trông bình thường. Tôi đoán bên trong có một quầy lễ tân dài đặt trước phòng chứa hàng cấm người không phận sự rộng thênh thang. Ở đấy sẽ chất đầy những kiện quần áo, bánh xe, chăn gối, hộp đựng cơm, xẻng đào hầm, cùng hằng hà sa số những dụng cụ khác.

Chúng tôi vào gặp một tay lính trẻ măng đang mặc đồ dã chiến mới đứng sau quầy lễ tân. Một thằng nhóc nhà quê hoạt bát. Trông nó như đang phụ bố bán hàng tại tiệm đồ phụ tùng của gia đình, và có vẻ rất tự hào với công việc này. Thằng nhóc hăng hái lắm. Tôi bảo bọn tôi đang cần tìm vài công cụ xây dựng. Nó liền lật ngay ra một cuốn sổ dày bằng tám quyển danh bạ gộp lại. Tìm đến đúng mục đó. Tôi hỏi nhờ xem hộ danh sách xà beng. Thằng nhóc liếm đầu ngón trỏ lật qua một đống trang và tìm được hai mục. Xà cạy, hàng phổ thông, loại dài, một đầu có móc rồi tới xà beng, hàng phổ thông, ngắn, hai đầu có móc. Tôi hỏi xem loại thứ hai.

Thằng nhóc quay đi biến mất vào kho hàng. Bọn tôi đợi ở ngoài. Tôi hít vào thứ mùi bụi bặm cũ kỹ lẫn mùi cao su mới và mùi vải bông dệt chéo bị ẩm đặc trưng của các khu hậu cần. Năm phút sau thằng nhóc kia đã trở lại cùng một thanh xà beng dạng phổ thông. Nó đặt lên quầy trước mặt chúng tôi. Thanh thép vang lên một tiếng nặng nề khi hạ xuống. Summer nói đúng. Nó được sơn màu xanh ô liu. Và trông hoàn toàn khác thanh xà beng để ở phòng chuyên viên khám nghiệm. Hình dáng khác, ngắn hơn sáu inch, hơi mỏng hơn, nếp cong cũng hơi khác. Trông có vẻ được sản xuất rất tinh vi. Nhìn nó thì sẽ hiểu lối làm việc của quân đội như thế nào. Nhiều năm trước nó có lẽ là mục thứ chín mươi chín trong bản chương trình nghị sự về việc tái trang bị quân đội của ai đó. Rồi họ lập một tiểu ban để bàn việc tái sản xuất, với góp ý chuyên môn từ những vị cựu công binh còn sống sót tới giờ. Họ cân nhắc độ dài và trọng lượng và độ bền cần thiết của thanh xà beng. Sau đó nghiên cứu độ mỏi của kim loại. Rồi họ suy xét địa thế mà nó sẽ được sử dụng. Họ cân nhắc xem khí hậu đông giá của Bắc Âu sẽ khiến kim loại dễ gãy thế nào. Rồi cái nóng gay gắt của miền nhiệt đới sẽ làm kim loại dễ uốn ra sao. Sau đó họ tạo nhiều bản vẽ khác nhau. Loại đi những mẫu thiết kế không phù hợp. Các xưởng kim khí tại hai bang Pennsylvania và Alabama tranh nhau đấu thầu sản xuất. Rồi họ làm ra hàng mẫu. Những thanh xà beng đó được thử đi thử lại tường tận. Rồi chỉ chọn duyệt một mẫu xuất sắc nhất mà thôi. Nào là loại sơn, rồi độ dày của thanh xà beng được định rõ và giám sát khắt khe để đảm bảo tính đồng nhất của sản phẩm. Rồi họ quên béng luôn toàn bộ quá trình phức tạp trên. Nhưng thành quả của hàng tháng trời dằng dặc suy đo cân nhắc kia vẫn được các xưởng kim khí giao tới, hàng ngàn đơn vị mỗi năm, dù chúng có được sử dụng hay không.

“Cảm ơn nhé, anh lính,” tôi nói.

“Sếp có lấy nó không ạ?” thằng nhóc hỏi.

“Chỉ xem qua thôi,” tôi đáp.

Chúng tôi trở về văn phòng. Nửa buổi sáng của một ngày ảm đạm đã trôi qua, và tôi cảm thấy mất phương hướng vô cùng. Cho tới bây giờ, thập niên mới này chẳng mang lại gì tốt đẹp cho tôi cả. Sáu ngày đã qua, và tôi vẫn không ưa thập niên 1990 này cho lắm.

“Sếp có định làm báo cáo về tai nạn kia không đấy?” Summer hỏi.

“Cho lão Willard á? Hãy khoan.”

“Lão đòi hôm nay nộp đấy.”

“Tôi biết. Nhưng tôi muốn lão phải mất công giục trước.”

“Sao phải thế?”

“Thì tôi thích thế chứ sao. Như xem dòi bò lổn nhổn trong thứ gì vừa chết ấy.”

“Thứ gì vừa chết chứ?”

“Động lực kéo tôi ra khỏi giường mỗi sáng.”

“Một quả táo thối thôi,” cô bảo. “Cũng chẳng thể làm hỏng cả rổ được đâu.”

“Có thể không,” tôi đáp. “Miễn là chỉ có một quả.”

Cô không trả lời.

“Xà beng,” tôi nói. “Ta có hai vụ án khác nhau đều dính tới xà beng, mà tôi lại không thích sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng tôi không hiểu nổi mối liên kết của chúng. Chẳng cách nào ghép lại được. Carbone và bà Kramer mỗi người một nơi, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Thế giới của hai người họ khác nhau hoàn toàn.”

“Vassell và Coomer ghép họ lại với nhau,” cô bảo. “Hai người bọn họ để ý tới thứ gì đó cất trong nhà bà Kramer, và bọn họ một lần nữa có mặt tại trại Bird này vào đêm Carbone bị sát hại.”

Tôi gật đầu. “Tôi đang điên đầu về điểm đấy. Đó sẽ là một cầu nối hoàn hảo, nhưng tiếc là không phải vậy. Bọn họ chỉ nhận một cú điện thoại duy nhất ở Thủ đô, lại ở cách khu Green Valley quá xa để có thể tự tay làm hại bà Kramer, mà cũng chẳng gọi ai ở khách sạn. Rồi họ ở đây trong đêm Carbone bị giết, nhưng lại ngồi trong phòng ăn sĩ quan cùng cả tá nhân chứng khác, ăn bít tết và cá nướng.”

“Lần đầu tới đây, bọn họ có tài xế đó sếp. Thiếu tá Marshall, sếp nhớ không? Nhưng lần sau, bọn họ lại tự lái đến. Tôi thấy mờ ám thế nào ấy. Như thể bọn họ ở đây vì một lý do nào đó bí mật.”

“Đến ngồi ăn nhậu trong phòng ăn sĩ quan thì bí mật kiểu gì. Mà bọn họ không hề vắng mặt lấy một phút, suốt cả buổi tối hôm ấy.”

“Vậy tay tài xế kia đi đâu? Cớ gì bọn họ lại tự lái xe? Tôi cứ ví dụ tay Marshall kia đã đưa hai người họ tới đám tang trước đó. Rồi bỗng bọn họ lại muốn tự lái hơn ba trăm dặm? Rồi hơn ba trăm dặm về nữa sao?”

“Có thể Marshall không rảnh,” tôi bảo.

“Marshall là cún cưng của họ,” cô đáp. “Hắn bận hay rảnh là do bọn họ quyết.”

“Nhưng sao phải tới tận đây nhỉ? Đi xa vậy chỉ để ăn một bữa tầm thường.”

“Bọn họ tới tìm chiếc cặp táp, sếp Reacher. Norton nhầm rồi. Chắc chắn là vậy. Có ai đó đã đưa nó cho họ. Bọn họ đã đem nó ra khỏi đây.”

“Tôi không nghĩ Norton nhầm đâu. Tôi thấy cô ta đáng tin.”

“Vậy thì bọn họ lấy chiếc cặp trong bãi đậu xe. Chỗ đó Norton làm sao thấy được. Tôi đoán cô ta chẳng cất công lê ra trời lạnh để vẫy chào tạm biệt bọn họ đâu. Nhưng chắc chắn hai người đó đã mang chiếc cặp đi. Không thì sao bọn họ lại bằng lòng bay về Đức?”

“Có thể hai người đó bỏ cuộc rồi. Đằng nào cũng phải về Đức. Làm sao ở đây mãi được. Bọn họ còn phải tranh ghế trống của Kramer nữa.”

Summer không đáp.

“Nhìn tới nhìn lui,” tôi nói tiếp. “Chẳng có sự liên kết rõ ràng nào cả.”

“Đời thật khó lường.”

Tôi gật đầu. “Vậy hai người đó tính sau. Giờ ưu tiên vụ Carbone trước.”

“Ta có ra ngoài tìm hũ sữa chua kia nữa không?”

Tôi lắc đầu. “Hung thủ vứt nó trong xe, hay trong thùng rác rồi.”

“Tìm được nó chắc cũng nhiều cái lợi.”

“Ta tập trung vào thanh xà beng thì hơn. Nó mới tinh. Có khi hung thủ cũng mới mua nó cùng đợt với hũ sữa chua kia không chừng.”

“Ta không có nhân lực.”

“Thanh tra Clark ở Green Valley sẽ thay ta lùng sục nó. Anh ta cũng đang đi tìm thanh xà beng kia cơ mà. Thể nào chẳng xới tung mấy tiệm dụng cụ quanh đó lên. Ta sẽ nhờ anh ta mở rộng khu vực nghi vấn và khung thời gian phù hợp.”

“Nhiều việc cho anh ta quá đấy sếp.”

Tôi gật đầu. “Ta phải tặng lại anh ta cái gì đó. Ta cần nhử anh ta theo cùng. Ta sẽ bảo mình đang có một đầu mối có thể sẽ giúp ích cho anh ta.”

“Đầu mối gì vậy sếp?”

Tôi cười mỉm. “Ta có thể nói xạo. Ta có thể đưa tên Andrea Norton cho anh ta. Để anh ta thấy quân đội này đùm bọc nhau đến mức nào.”

Tôi gọi cho thanh tra Clark. Nhưng không nêu tên Andrea Norton. Tôi bịa chuyện khác. Tôi bảo rằng nếu không nhầm thì vết nạy phá trên cửa nhà Kramer, lẫn vết thương trên đầu bà ta đều do một thanh xà beng gây ra, và trùng hợp thay vừa mới đây thôi các cơ sở quân sự dọc Bờ Tây đều bị đột nhập có vẻ như bằng xà beng, mà anh ta lại đang giữa công đoạn truy tìm hung khí trong vụ án ở Green Valley nên bọn tôi muốn nhờ anh ta nhân tiện hỗ trợ luôn. Anh ta ngập ngừng một chút, và tôi tranh thủ kể thêm rằng phòng hậu cần quân đội không cấp xà beng nên tôi tin chắc bọn thủ ác kia phải mua chúng từ nguồn dân sự. Tôi vờ rằng mình ngại đẩy thêm việc cho anh ta nhưng vì đang bận truy đuổi một đầu mối khác có triển vọng hơn. Anh ta tiếp tục ngập ngừng, đúng cái kiểu đặc trưng của cảnh sát, ý muốn phải có qua có lại. Tôi bảo sẽ điện báo anh ta khi biết tên hay tiểu sử hay mô tả nào đó của hung thủ, và fax chạy nhanh chừng nào thì anh ta biết thông tin sớm chừng đó. Anh ta phấn khởi ngay. Clark lúc ấy cũng bí lắm rồi, đang đụng vào ngõ cụt. Anh ta hỏi tôi muốn nhờ làm gì cụ thể. Tôi bảo sẽ rất tốt nếu anh ta có thể mở rộng phạm vi tìm kiếm chừng ba trăm dặm quanh khu Green Valley, đồng thời kiểm tra khung thời gian từ tối muộn đêm Giao thừa tới mồng bốn tháng Giêng, xem các tiệm dụng cụ quanh đó bán ra những mặt hàng gì.

“Đầu mối triển vọng của anh là gì vậy?” anh ta hỏi.

“Hung thủ hẳn có mối liên kết quân sự nào đó tới bà Kramer. Có khả năng bọn tôi sẽ tóm được hắn và bày lên mâm cho anh chỉ việc xơi thôi.”

“Được vậy thì tôi mừng lắm.”

“Thế giới sẽ đi về đâu,” tôi bóng gió. “Nếu không có sự hợp tác nhỉ?”

“Hẳn rồi,” anh ta đáp.

Nghe giọng anh ta hí hửng lắm. Tin hết những gì tôi vừa nói. Anh ta hứa sẽ mở rộng phạm vi tìm kiếm và sẽ cập nhật cho tôi ngay. Tôi cúp máy và gần như ngay lập tức nó lại reo lên. Tôi đáp, nghe thấy giọng phụ nữ. Chất giọng miền Nam, ấm áp và thân mật. Cô ta nhắn tôi phải 10-33 cho một cái 10-16 từ sĩ quan điều hành Quân cảnh tại trại Jackson, hiểu theo nghĩa thường sẽ là Xin Thiếu tá chờ nghe một cuộc điện thoại từ người đồng cấp ở Nam Carolina. Tôi giữ ống nghe trên tai chờ trong khi đầu bên kia vang lên tiếng đường truyền tí tách. Rồi một tiếng tách lớn và người đồng cấp của tôi ở Nam Carolina báo rằng họ tìm thấy đại tá David C. Brubaker, Chỉ huy Lực lượng Đặc nhiệm ở trại Bird, sáng nay tại thành phố Columbia, thủ phủ bang Nam Carolina, cách khách sạn sân golf Bắc Carolina vốn là nơi gã đang đi nghỉ phép cùng vợ mình hai trăm dặm, trong một con hẻm nhếch nhác với hai viên đạn găm vào đầu. Và theo lời nhân viên y tế địa phương thì gã đã chết được một, hai ngày gì rồi.