MƯỜI BỐN
Đồng cấp của tôi ở quân khu Jackson là một tay tên Sanchez. Tôi có biết anh ta, và cũng khá ưa tay đó. Anh ta thông minh và chính trực. Tôi bật loa ngoài để Summer nghe cùng và bọn tôi bàn vắn tắt với nhau về quyền hạn pháp lý, nhưng không ai có vẻ hào hứng gì. Quyền hạn pháp lý vốn là vấn đề nhập nhoạng, vả lại bọn tôi đã bị vượt mặt ngay từ đầu rồi. Gã Brubaker kia đang nghỉ phép, mặc đồ dân thường, đi lại trong một con hẻm của thành phố, vậy nên Sở Cảnh sát thành phố Columbia có toàn quyền thụ lý vụ gã. Bọn tôi chẳng cách nào xoay chuyển được tình thế nữa. Và Sở Cảnh sát thành phố Columbia đã báo cáo lại với Cục Điều tra Liên bang FBI, bởi nơi cuối cùng người ta thấy gã là một khách sạn sân golf ở Bắc Carolina, khiến vụ việc thêm tính chất liên bang, và điều tra tội giết người xuyên tiểu bang chính là cái thú của Cục. Vả lại về căn bản thì một sĩ quan quân đội cũng là một công chức liên bang, và giết công chức liên bang lại là một tội riêng mà Cục có thể đổ thêm lên đầu thủ phạm nếu có phép mầu nào giúp họ tóm được hắn. Cả Sanchez lẫn tôi hay Summer đều chẳng quan tâm mấy đến sự khác biệt giữa tòa án bang và tòa án liên bang, nhung bọn tôi cùng hiểu rằng nếu có dính đến FBI thì vụ việc này đã quá xa tầm với của mình. Chúng tôi đồng ý rằng nếu may mắn lắm thì mình được xem qua vài tập tài liệu có liên quan đến vụ án, nhưng chỉ để nghiên cứu sơ qua, và phải biết xin hỏi cho nhã nhặn. Summer nhăn mặt rồi quay đi. Tôi tắt loa ngoài rồi nói chuyện riêng với Sanchez.
“Dự cảm của cậu thế nào?” tôi hỏi anh ta.
“Phải là người ông ta quen biết,” Sanchez đáp. “Để đánh lén một tay lính Delta cừ như Brubaker trong một con hẻm đâu phải dễ.”
“Hung khí thì sao?”
“Chuyên viên khám nghiệm cho là một khẩu súng lục đạn chín li. Gì chứ cái này họ rành lắm. Họ thấy vết thương do súng bắn thường xuyên mà. Có vẻ như họ hay gặp mấy vụ như vậy ở khu đó tầm tối thứ Sáu hay thứ Bảy.”
“Nạn nhân làm gì ở khu đó nhỉ?”
“Chịu. Có hẹn, chắc vậy. Với ai đó quen biết.”
“Cậu nhắm được thời điểm chưa?”
“Xác lạnh, da hơi chuyển xanh lá, xác không còn cứng. Họ ước chừng hai mươi tư hay bốn mươi tám tiếng rồi. Chắc ăn nhất là lấy khoảng giữa. Cứ cho là gây án giữa đêm hôm kia đi. Khoảng ba, bốn giờ sáng gì đó. Xe dọn rác phát hiện xác nạn nhân vào mười giờ sáng nay. Trong chuyến dọn rác hằng tuần.”
“Hôm hai mươi tám tháng Mười hai cậu ở đâu?”
“Hàn Quốc. Cậu thì sao?”
“Ở Panama.”
“Sao họ lại thuyên chuyển chúng ta?”
“Tôi nghĩ bọn mình sẽ sớm biết thôi,” tôi đáp.
“Có điều gì lạ lắm đang diễn ra,” Sanchez nói. “Tôi kiểm tra, vì tò mò quá, thì biết rằng có hơn hai chục người như tụi mình bị thuyên chuyển, ở khắp nơi trên thế giới. Và tất cả lệnh đều do đại tá Garber ký duyệt, nhưng tôi nghĩ đó là giả mạo.”
“Tôi cam đoan nó là giả,” tôi đáp. “Trước vụ Brubaker này ở dưới đó có lộn xộn không?”
“Không hề. Tôi chưa từng trải qua tuần nào yên tĩnh như vậy cả.”
Chúng tôi cúp máy. Tôi ngồi im lặng một lúc lâu. Có vẻ như thành phố Columbia thuộc bang Nam Carolina cách doanh trại Bird chừng hai trăm dặm. Cứ nhắm hướng Tây Nam trên cao tốc, qua giao lộ liên bang, tìm đường I-20 về hướng Tây, đi thêm một chút nữa là tới nơi. Chừng hai trăm dặm. Đêm hôm kia là đêm chúng tôi tìm thấy xác Carbone. Tôi vừa rời văn phòng của Andrea Norton trước hai giờ sáng. Cô ta sẽ làm chứng cho tôi. Rồi tôi đến nhà xác lúc bảy giờ sáng, để xem kết quả khám nghiệm. Tay bác sĩ kia sẽ xác nhận việc đó. Vậy là tôi đã có hai bằng chứng ngoại phạm riêng. Nhưng giữa hai giờ sáng tới bảy giờ sáng vẫn là một khung giờ đầy nghi vấn của tôi, bởi thời điểm tử nạn của Brubaker nằm gọn trong khoảng ấy. Tôi có thể lái một chuyến, xe dài bốn trăm dặm cả đi cả về trong vòng năm tiếng đồng hồ không?
“Sếp sao vậy?” Summer hỏi.
“Tụi Delta đã nhắm ám toán tôi vì vụ Carbone rồi. Giờ chả biết bọn họ có muốn thịt tôi vì tay Brubaker này không nữa. Cô nghĩ có ai đi được bốn trăm dặm trong năm tiếng đồng hồ không?”
“Tôi nghĩ mình có thể,” cô nói. “Cứ giữ vận tốc trung bình tám mươi dặm một giờ suốt chặng đường. Còn tùy vào loại xe, đương nhiên, rồi đường có thi công hay không, giao thông thế nào, thời tiết ra sao, và có cảnh sát giao thông đứng trực hay không. Nhưng hoàn toàn khả thi.”
“Hay ghê.”
“Nhưng khả thi về mặt lý thuyết thôi mà sếp.”
“Tôi cũng mong vậy. Bởi vì đối với bọn Delta thì giết Brubaker cũng tương đương với việc đóng đinh Chúa vậy đó.”
“Sếp định đi báo tin cho bọn họ sao?”
Tôi gật đầu. “Tôi nghĩ là mình phải vậy. Phải có chút tôn trọng nhau chứ. Nhưng nhờ cô báo với Chỉ huy doanh trại giúp tôi, OK?”
Viên sĩ quan phụ tá bên Lực lượng Đặc nhiệm đành rằng khó ưa, nhưng chung quy cũng là con người. Mặt anh ta biến sắc khi nghe tôi báo tin về Brubaker, mà rõ ràng đâu phải chỉ vì lo chuyện tổ chức lằng nhằng sắp tới. Theo tôi biết thì Brubaker là một nhân vật nghiêm nghị, có chút khó gần và độc đoán, nhưng là một chỉ huy đáng kính, đối với cấp dưới nói riêng và cả đơn vị nói chung. Và đối với đơn vị thì tên gã còn mang một khái niệm lớn. Lực lượng Đặc nhiệm nói chung và đội Delta nói riêng vốn không được lòng các quan lớn ở Lầu Năm Góc lẫn Điện Capitol. Quân đội ghét sự thay đổi và phải mất rất nhiều thời gian mới làm quen được những thay đổi đó. Ý tưởng về một đội quân nhếch nhác chuyên việc săn-giết ngay từ đầu đã cực kỳ khó thuyết phục các quan trên, và chính Brubaker là một trong những người đã đảm nhiệm việc cực kỳ khó đó, và gã chưa từng bỏ cuộc. Cái chết của gã đối với Lực lượng Đặc nhiệm sẽ chấn động hệt như cả nước nghe tin tổng thống bị ám sát vậy.
“Vụ Carbone đã đủ tệ rồi,” viên phụ tá nói. “Nhưng vụ này thì không thể tin nổi. Hai vụ án có liên hệ gì đến nhau không?”
Tôi nhìn anh ta.
“Sao lại có liên hệ gì?” tôi đáp. “Carbone chết vì tai nạn mà.”
Anh ta im lặng.
“Sao Brubaker lại đến khách sạn đó vậy?”
“Vì ông ta thích đánh golf. Ông ta có một căn nhà gần Bragg trên đường về, nhưng lại không ưa sân golf ở đấy.”
“Khách sạn đó ở đâu vậy?”
“Ngoại ô thành phố Raleigh.”
“Ông ta có thường xuyên tới đó không?”
“Hễ có dịp là đi ngay.”
“Vợ ông ta biết đánh golf chứ?”
Viên phụ tá gật đầu. “Hai vợ chồng chơi cùng nhau.”
Rồi anh ta ngập ngừng.
“Không còn nữa,” anh ta nói tiếp, rồi im bặt và không nhìn tôi nữa. Tôi tưởng tượng ra tay Brubaker kia trong đầu. Dù chưa từng gặp mặt, nhưng tôi biết típ người ấy. Hôm trước họ còn sôi nổi bàn tán cách gài mìn theo góc độ nào sao cho khi nổ mấy viên bi ở trong có thể bắn tung xương sống đối phương ra khỏi lưng của chúng với hiệu quả tối đa. Nhưng hôm sau đã mặc áo màu phấn với logo hình con cá sấu nhỏ trên ngực, đánh golf với vợ, vừa nắm tay cười nói vừa cùng nhau cưỡi trên chiếc xe điện xinh xắn đi khắp sân cỏ. Mấy gã như vậy tôi gặp suốt. Chính bố tôi cũng cùng một khuôn đó. Nhưng ông không đánh golf. Mà thích ngắm chim trời cơ. Ông chu du khắp thiên hạ, thấy được muôn giống chim trời.
Tôi đứng dậy.
“Cứ gọi tôi nếu anh cần,” tôi nói. “Nếu như tôi có thể giúp được chút nào đó.”
Viên phụ tá gật đầu.
“Cảm ơn anh đã ghé qua,” anh ta bảo. “Còn hơn gọi điện báo tin.”
Tôi trở về văn phòng. Summer không có ở đó. Tôi dành hơn một tiếng đồng hồ xem qua danh sách của cô. Tôi đốt cháy giai đoạn một chút và loại chuyên viên khám nghiệm khỏi danh sách. Loại luôn Summer. Loại luôn Andrea Norton. Rồi loại tuốt các nữ quân nhân. Kết quả khám nghiệm đã nói rằng hung thủ phải là người có chiều cao và sức mạnh. Tôi loại luôn nhân viên phòng ăn sĩ quan. Viên hạ sĩ quan hậu cần nói rằng nhân viên của anh ta làm việc rất chăm chỉ, mải lu bu phục vụ khách. Tôi loại tay đầu bếp, nhân viên quầy bar, và cả tốp bảo vệ trụ sở Quân cảnh. Tôi loại những người đang nhập viện lẫn người có bệnh cản trở việc đi lại. Tôi loại bản thân mình ra. Tôi loại luôn Carbone, bởi vì anh ta đâu có tự tử.
Rồi tôi đếm những người còn lại, và viết con số 973 lên một mẩu giấy. Chừng đó nghi phạm. Tôi đưa mắt nhìn khoảng không. Điện thoại reo lên. Tôi đáp máy. Sanchez gọi lại, từ trại Jackson.
“Sở Cảnh sát Columbia vừa gọi tôi,” anh ta nói. “Để chia sẻ vài phán đoán ban đầu.”
“Rồi thế nào?”
“Chuyên viên khám nghiệm của họ không hoàn toàn đồng ý với tôi. Thời điểm tử nạn không phải ba bốn giờ sáng. Mà là một giờ hai mươi ba phút sáng, ngày kia.”
“Chính xác quá vậy.”
“Một viên đạn găm vào đồng hồ đeo tay của nạn nhân mà.”
“Đồng hồ tay bị hư hả? Vậy làm sao mà chắc chắn được.”
“Không, đảm bảo luôn. Họ kiểm tra đủ kiểu hết rồi. Mùa này không thể xét hoạt động của côn trùng, được thế thì đỡ quá, nhưng phần thức ăn trong bụng ông ta cho thấy thời điểm gây án xảy ra chính xác năm sáu tiếng đồng hồ sau một bữa ăn tối hoành tráng.”
“Vợ ông ta nói gì?”
“Kể rằng ông ta biến mất lúc tám giờ đêm đó, sau một bữa tối no ngang càng. Ông ta rời khỏi bàn rồi không trở lại nữa.”
“Bà ta phản ứng thế nào?”
“Chả có phản ứng gì cả,” Sanchez nói. “Ông ta là lính Đặc nhiệm mà. Suốt cuộc hôn nhân, ông ta thường xuyên biến mất mà không báo trước, giữa bữa tối, hay giữa đêm khuya, đi từ vài ngày tới vài tuần mà không thể nói mình đã đi đâu và vì sao. Bà ta quen rồi.”
“Có người gọi điện cho ông ta à?”
“Bà vợ nghĩ vậy. Bà ta không rõ lắm. Trước lúc ăn tối thì bà ta đang ở phòng spa. Đó là sau khi hai vợ chồng vừa chơi xong màn golf hai mươi bảy lỗ.”
“Nhờ cậu gọi cho bà ta được không? Bà ta sẽ dễ nói chuyện với cậu hơn là cảnh sát dân sự đó.”
“Để tôi thử xem sao.”
“Còn gì nữa không?” tôi hỏi.
“Vết thương do đạn chín li gây ra,” anh ta đáp. “Bắn hai phát, hai viên xuyên thẳng qua người, vết đạn thâm nhập rất gọn, nhưng vết đạn ra thì bung bét.”
“Đạn xuyên giáp rồi,” tôi nói.
“Bắn cự ly gần. Trên da có vết bỏng. Và nhám đen nữa.”
Tôi khựng lại. Không thể tưởng tượng được. Bắn hai phát? Cự lygần? Vậy có nghĩa là một viên đạn găm vào người, bay xuyên qua đầu kia, vòng ngược trở lại, roi xuống đúng mặt đồng hồ tay của gã sao?
“Ông ta đặt tay lên đầu à?”
“Nạn nhân bị bắn từ đằng sau, Reacher ạ. Hai phát đạn, vào sau ót. Đoàng đoàng, bé ơi ngủ ngoan. Viên đạn thứ hai hẳn đã xuyên qua sọ ông ta và ghim vào chiếc đồng hồ tay. Đường đạn đi từ trên xuống đất. Hung thủ phải khá cao.”
Tôi không đáp.
“Đấy,” Sanchez nói tiếp. “Thế mới kỳ nhỉ? Cậu có quen ông ta không?”
“Chưa gặp bao giờ,” tôi đáp.
“Ông ta cừ lắm. Rất chuyên nghiệp đó. Và cực tinh vi. Bất cứ sơ hở, hay lợi thế, hay mẩu thông tin nào, ông ta nắm được là sẵn sàng dùng ngay.”
“Người như vậy mà lại để bị nã đạn vào ót sao?”
“Thì chắc chắn hung thủ là người quen biết nạn nhân rồi. Phải là như vậy. Chứ không thì làm sao ông ta lại xoay lưng về phía hung thủ, giữa đêm khuya, trong một con hẻm như vậy?
“Cậu có nghi phạm nào ở trại Jackson không?”
“Ở đây quá trời người luôn.”
“Ở đây cũng vậy.”
“Ông ta có xích mích với ai ở trại Bird không?”
“Theo tôi biết thì không,” tôi đáp. “Nhưng chắc có kình nhau với các sếp lớn.”
“Bọn ẻo lả văn phòng ấy làm sao có gan hẹn gặp ai trong hẻm vắng giữa đêm khuya chứ.”
“Con hẻm ấy ở đâu vậy?”
“Ở một khu xô bồ của thành phố.”
“Vậy mà không ai nghe thấy gì hết?”
“Không,” Sanchez đáp. “Sở Cảnh sát Columbia dò la xung quanh mà không có manh mối nào hết.”
“Gì kỳ vậy.”
“Thì dân thường mà. Có gì lạ đâu?”
Rồi anh ta im bặt.
“Cậu gặp lão Willard chưa?” tôi hỏi anh ta.
“Ông thần ấy đang trên đường tới chỗ tôi này. Có vẻ là dạng khốn thích can thiệp.”
“Con hẻm kia ra làm sao?”
“Nơi lui tới của gái mại dâm và phường buôn ma túy. Chẳng thứ nào mà lứa ông cha sáng lập thành phố Columbia này lấy làm tự hào đâu.”
“Lão Willard ghét mấy vụ bê bối lắm,” tôi nói. “Kiểu gì lão cũng phát sốt với thể diện mất.”
“Thể diện của thành phố Columbia á? Lão quan tâm làm gì?”
“Thể diện của quân đội cơ,” tôi đáp. “Lão Willard chẳng muốn đặt Brubaker bên cạnh gái bán dâm với bọn buôn ma túy đâu. Một đại tá Lực lượng Đặc nhiệm cơ mà. Chắc sẽ đổ thừa cho phe Xô Viết thôi. Lão nghĩ ta sẽ cần một chiến dịch quảng bá hình ảnh tốt. Lão tưởng mình nắm rõ đại cục lắm.”
“Đại cục ở đây là dù thế nào tôi cũng chẳng được tiếp cận vụ này. Vậy lão có quyền hành gì với Sở Cảnh sát Columbia và Cục FBI? Bởi vì phải qua họ mới xong.”
“Cậu cứ chuẩn bị tinh thần đi là vừa,” tôi nói.
“Hình như ta sắp có mấy năm biến động nhỉ.”
“Không lâu vậy đâu.”
“Sao vậy?”
“Cảm giác vậy thôi,” tôi đáp.
“Cậu để tôi tự thu xếp liên lạc ở đây nhé? Hay tôi kêu bọn họ gọi thẳng cho cậu? Dù sao về căn bản thì Brubaker là người khu cậu mà.”
“Cậu tự làm đi,” tôi đáp. “Tôi đang nhiều việc lắm.”
Chúng tôi dập máy rồi tôi trở lại với đống danh sách của Summer. Chín trăm bảy mươi ba. Trong đó, chín trăm bảy mươi hai người vô tội, một người có tội. Vậy đó là ai?
Một tiếng sau thì Summer trở về. Cô bước vào đưa tôi một tờ giấy. Một bản sao đơn yêu cầu vũ khí của trung sĩ nhất Christopher Carbone từ bốn tháng trước. Vũ khí là một khẩu súng lục hiệu Heckler & Koch P7. Chắc vì anh ta thích loại súng tiểu liên cùng hiệu H&K mà đội Delta vẫn dùng, nên muốn có khẩu súng lục P7 làm vũ khí phụ. Anh ta yêu cầu lắp đạn chín li Parabellum tiêu chuẩn. Yêu cầu lấy băng đạn mười ba viên, và thêm ba băng dự phòng nữa. Một tờ đơn yêu cầu vũ khí hoàn toàn bình thường, và chính đáng. Tôi nghĩ nó đã được duyệt rồi. Ắt không có yếu tố nhạy cảm chính trị gì. Hiệu H&K xuất xứ từ Đức và Đức là thành viên của NATO, theo tôi nhớ. Ắt cũng không có vấn đề không tương thích vũ khí. Vì đạn chín li Parabellum là trang bị tiêu chuẩn của NATO. Ngay cả quân đội Hoa Kỳ cũng đâu thiếu loại đạn ấy. Còn lo không đủ nhà kho để chứa chúng nữa. Quân đội dư khả năng cấp đạn chín li cho quân nhân từ bây giờ cho đến tận thế.
“Thì sao?” tôi hỏi.
“Sếp nhìn chữ ký kìa,” Summer đáp. Cô rút bản sao đơn tố cáo tôi của Carbone từ túi áo ra. Tôi giở nó trên bàn, đặt bên cạnh đơn yêu cầu vũ khí. Nhìn từ bản này sang bản kia.
Hai chữ ký giống nhau như đúc.
“Ta đâu phải chuyên gia đọc chữ tay,” tôi nói.
“Cần gì đâu sếp. Chúng giống hệt nhau đó, Reacher. Sếp tin đi.”
Tôi gật đầu. Cả hai chữ ký đều ghi C. Carbone, và bốn chữ C viết hoa đều rất đặc trưng. Chúng được thảo nhanh, nét dài, cong cong bay bổng. Chữ e viết thường cuối tên của hai bản cũng đặc trưng. Vòng tròn nhỏ, với cái đuôi vẩy ra hẳn mé phải của tờ giấy, dài hơn cả cái tên, đi theo hàng ngang, và phóng khoáng. Chữ a-r-b-o-n ở giữa khá nhanh, mượt và đều nét. Nhìn tổng quát thì chữ ký rất rõ nét, đầy kiêu hãnh, dễ đọc, cực kỳ tự tin, và được như vậy có lẽ nhờ hàng năm trời ký séc, hóa đơn quán bar, hợp đồng và giấy lấy xe. Dù chẳng chữ ký nào là không thể làm giả được, nhưng riêng chữ ký này thì quả là một thách thức không đơn giản. Một thách thức không thể vượt qua trong khung thời gian từ nửa đêm đến 8 giờ 45 phút sáng tại một doanh trại quân đội ở Bắc Carolina.
“OK,” tôi nói. “Đơn tố cáo là của anh ta thật.”
Tôi để nó trên bàn. Summer xoay dọc tờ giấy lại và đọc, dù hẳn cô đã đọc nát dòng chữ ghi trên ấy rồi.
“Lời lẽ lạnh lùng quá,” cô nói. “Như dao đâm sau lưng vậy.”
“Vậy mới kỳ,” tôi bảo. “Thật là quá kỳ. Tôi chưa gặp anh ta bao giờ. Tôi chắc chắn vậy. Vả lại anh ta cũng là lính Delta. Họ đâu phải loại ghét đánh nhau gì cho cam. Sao anh ta lại thấy phẫn nộ nhỉ? Có phải tôi làm gãy chân anh ta đâu.”
“Chắc lý do cá nhân. Chắc tay hộ pháp kia là bạn anh ta.”
Tôi lắc đầu. “Thế thì anh ta sẽ can thiệp. Sẽ ngăn cản vụ đó.”
“Đây là đơn tố cáo duy nhất trong suốt mười sáu năm tại ngũ của anh ta đó sếp.”
“Cô đi hỏi dò đấy à?”
“Tôi hỏi đủ người hết. Trong doanh trại, lẫn điện thoại gọi bốn phương.”
“Cô có cẩn thận không đấy?”
“Rất cẩn thận luôn sếp. Và đây cũng là đơn tố cáo duy nhất nhắm tới sếp.”
“Cô kiểm tra luôn rồi à?”
Cô gật đầu. “Kiểm tra lại về tận thuở khai thiên lập địa cơ.”
“Cô có muốn biết mình đang đối đầu với loại người nào không?”
“Không, vì tôi muốn đội Delta biết sếp là người không xích mích với ai hết. Với Carbone hay bất kỳ ai khác.”
“Giờ cô lại bảo vệ tôi cơ à?”
“Phải có người trông chừng sếp thôi. Tôi vừa ở bên khu Delta về, và bọn họ đang sôi máu lắm đó.”
Tôi gật đầu. Vì Brubaker.
“Hẳn là vậy rồi,” tôi đáp. Tôi tưởng tượng khu nhà giam nay thành trụ sở đội Delta cô lập ấy, ngày xưa là nội bất xuất, rồi sau đó ngoại bất nhập, giờ thì dùng để giữ tình huynh đệ của họ luôn sục sôi như một nồi áp suất. Tôi tưởng tượng văn phòng của Brubaker, ở một góc nào đó, giờ trống trải và vắng lặng. Tôi tưởng tượng phòng riêng của Carbone, không còn người ở.
“Vậy khẩu P7 của Carbone đâu?” tôi hỏi. “Trong phòng riêng của anh ta không thấy có.”
“Kho vũ khí của họ đang giữ nó,” Summer đáp. “Đã lau chùi, tra dầu và nạp đạn. Bên đó kiểm tra vũ khí cá nhân lúc ra lúc vào. Trong nhà để máy bay của họ có để một phòng riêng. Sếp phải đến tận nơi xem kìa. Như là hang kho báu vậy đó. Xe Humvee bọc thép đậu san sát, xe tải, thuốc nổ, súng phóng lựu, mìn định hướng, thiết bị nhìn đêm, tùm lum hết. Thừa sức vũ trang cho đội quân của một tay độc tài Trung Phi luôn đấy.”
“Nghe yên tâm ghê,” tôi bảo.
“Ủa quên, xin lỗi sếp,” cô nói.
“Sao anh ta lại tố cáo tôi nhỉ?”
“Tôi chịu,” cô đáp.
Tôi nhớ lại hôm gặp anh ta trong quán bar thoát y, đêm Giao thừa. Tôi bước vào thấy một nhóm bốn người mà tôi ngỡ đều là trung sĩ. Đám đông chuyển động cuốn đi ba người trong nhóm và đẩy tới chỗ tôi người còn lại một cách đầy ngẫu nhiên. Tôi không biết ở quán có những ai đến, và những người ở quán không lường trước việc tôi sẽ ghé. Tôi chưa từng gặp bất cứ ai trong số họ từ trước đến giờ. Việc gặp mặt nhau trong quán hôm đó gần như hoàn toàn ngẫu nhiên. Vậy mà tay Carbone kia đã tố cáo tôi vì một cuộc ẩu đả tầm thường mà chắc hẳn anh ta đã từng chứng kiến cả nghìn lần. Cái loại ẩu đả tầm thường mà dám chắc chính anh ta cũng từng tham gia cả trăm lần rồi. Tay quân nhân nào tự nhận mình chưa từng đánh lộn với dân thường trong quán bar bao giờ thì, thưa anh, hắn ta là một thằng nói dối.
“Cô có theo Công giáo không?” tôi hỏi.
“Không, sao vậy sếp?” Summer hỏi ngược lại.
“Tôi thắc mắc cô có biết tiếng Latin không.”
“Đâu phải chỉ có dân Công giáo mới biết tiếng Latin. Tôi cũng được đi học mà.”
“OK, cui bono?” tôi hỏi.
“Ai được lợi á? Từ đơn tố cáo này sao sếp?”
“Luôn là cách dò động cơ hiệu quả nhất,” tôi đáp. “Với cách đặt nghi vấn đó cô có thể giải đáp tất tần tật mọi thứ trên đời. Về lịch sử, hay chính trị, mọi thứ.”
“Giống như câu theo dấu vết đồng tiền à?”
“Gần như vậy thôi,” tôi đáp. “Vì tôi nghĩ không có động cơ tiền bạc ở đây. Nhưng Carbone phải được lợi lộc gì đó từ đơn tố cáo này. Nếu không thì anh ta làm vậy làm gì?”
“Có thể đây là vấn đề đạo đức đối với anh ta. Có thể anh ta bị thôi thúc phải làm thế?”
“Nếu vậy thì không thể là đơn tố cáo đầu tiên trong mười sáu năm tại ngũ được. Anh ta phải chứng kiến đủ thứ tệ hơn rồi. Tôi chỉ đập gãy một chân và mũi mà thôi. Có gì ghê gớm đâu. Summer, đây là quân đội mà. Tôi nghĩ anh ta không nhầm nơi này với câu lạc bộ làm vườn nào đó suốt từng ấy năm đâu.”
“Tôi chịu,” cô lặp lại.
Tôi đẩy mẩu giấy ghi số 973 cho cô.
“Ta có từng này nghi phạm đây,” tôi nói.
“Anh ta ở trong quán bar đến tám giờ,” cô bảo. “Tôi kiểm tra luôn rồi. Anh ta về một mình. Không ai thấy anh ta sau đó nữa.”
“Có ai để ý tâm trạng của anh ta lúc đó không?”
“Lính Delta làm gì có tâm trạng. Họ không giống như người bình thường đâu.”
“Anh ta có uống gì không?”
“Có một chai bia thôi.”
“Vậy anh ta rời chỗ ô hợp đó vào tám giờ, không căng thẳng, lo âu gì?”
“Hình như vậy đó sếp.”
“Vậy là anh ta có quen biết với người hẹn gặp rồi,” tôi nói.
Summer không đáp.
“Sanchez vừa gọi lại lúc cô đi vắng,” tôi nói. “Đại tá Brubaker bị bắn vào sọ. Hai phát liền nhau, cự ly gần, từ đằng sau.”
“Vậy ông ta cũng có quen biết với người đó rồi.”
“Rất có thể,” tôi đáp. “Một giờ hai mươi ba phút sáng. Viên đạn găm vào đồng hồ tay. Cách vụ Carbone chừng ba tiếng rưỡi, bốn tiếng rưỡi đồng hồ.”
“Vậy thì Delta hết gây sự được với sếp rồi. Lúc một giờ hai mươi ba sếp còn ở đây mà.”
“Phải,” tôi nói. “Tôi có ở đây. Với Norton.”
“Để tôi đi nói với họ cho.”
“Đời nào họ tin cô.”
“Sếp nghĩ giữa Carbone và Brubaker có mối liên hệ nào không?”
“Theo lẽ thường thì phải có. Nhưng liên hệ thế nào thì tôi vẫn chưa ngẫm ra. Và cũng không hiểu vì sao. Ừ thì, cả hai người đều là lính Delta. Nhưng Carbone ở đây còn Brubaker ở tít đằng kia, và Brubaker là một kẻ quyền lực cấp cao, còn Carbone thì là hạng cấp dưới kín tiếng và giữ kẽ. Có thể anh ta thấy cần thiết phải giữ kẽ như vậy.”
“Sếp có nghĩ đến lúc nào đó chúng ta sẽ có quân nhân đồng tính không?”
“Ta đã có quân nhân đồng tính rồi. Lúc nào chả có. Thời Thế chiến thứ hai này, lực lượng Đồng minh châu Âu có tới mười bốn triệu quân nhân. Cứ theo xác suất thông thường thì ít nhất một triệu người trong số đó là người đồng tính. Mà dù sao ta cũng thắng cuộc chiến đó, theo tôi nhớ, lần cuối đọc sách sử vẫn thấy họ ghi vậy. Ta thắng lớn là khác.”
“Quả là một bước đi lớn,” cô nói tiếp.
“Thì đợt cho phép quân nhân da màu cũng vậy mà. Rồi hồi nữ quân nhân nữa. Lúc ấy ai cũng xôn xao nhăn nhó. Nào là làm thế sẽ hại nhuệ khí quân đội, ảnh hưởng đến tính đoàn kết của các đơn vị. Cái phản ứng ấy không những vớ vẩn lúc đó mà đến bây giờ vẫn còn vớ vẩn. Đúng không? Cô là nữ quân nhân và vẫn làm mọi việc đâu ra đó.”
“Sếp có theo Công giáo không?”
Tôi lắc đầu. “Mẹ tôi dạy anh em tôi tiếng Latin. Bà chăm chút việc học hành của chúng tôi lắm. Bà dạy chúng tôi đủ thứ hết, tôi với anh tôi, Joe.”
“Sếp gọi cho mẹ đi.”
“Để làm chi?”
“Hỏi xem chân bà sao rồi.”
“Chắc để sau,” tôi nói.
Tôi xem lại xấp danh sách còn Summer đi lấy tấm bản đồ Tây Hoa Kỳ. Cô dán phẳng phiu lên tường ngay dưới cái đồng hồ rồi đánh dấu vị trí trại Bird bằng một cái đinh màu đỏ. Rồi cô đánh dấu thành phố Columbia, Nam Carolina, nơi tìm thấy xác Brubaker. Rồi cô đánh dấu thành phố Raleigh, Bắc Carolina, nơi gã lẽ ra đang đi đánh golf với vợ mình. Tôi đưa cô một cây thước bằng nhựa trong từ hộc bàn để cô canh tỷ lệ bản đồ và tính thời gian đi lại cùng khoảng cách giữa hai nơi.
“Nhớ giùm là người bình thường chúng tôi không ai lái xe nhanh bằng cô đâu,” tôi bảo.
“Làm gì có ai lái nhanh bằng tôi chứ,” cô đáp.
Cô đo khoảng cách giữa hai thành phố Raleigh và Columbia được bốn inch rưỡi và làm tròn thành năm vì đường cao tốc U.S. 1 hơi cong một chút. Cô cầm thước đặt bên cạnh ô ký hiệu tỷ lệ bản đồ.
“Hai trăm dặm,” cô nói. “Vậy nếu Brubaker rời thành phố Raleigh sau bữa tối, ông ta có thể lái đến thành phố Columbia vào nửa đêm, vừa vặn luôn. Một tiếng gì đó trước khi ông ta chết.”
Rồi cô kiểm tra khoảng cách giữa trại Bird và thành phố Columbia. Cô đo được chừng một trăm năm mươi dặm, ngắn hơn đoạn đường tôi tính trong đầu.
“Cứ cho là ba tiếng,” cô đáp. “Cho dư dả.”
Rồi cô nhìn tôi.
“Có khi hung thủ hai vụ này là một đó sếp,” cô nói. “Nếu Carbone bị giết vào chừng chín hay mười giờ, thì chính kẻ đó có thể đến thành phố Columbia vào đúng nửa đêm hay một giờ gì đó, sẵn sàng gặp Brubaker.”
Cô đặt ngón tay út lên cây đinh đánh dấu trại Bird.
“Carbone đây,” cô nói.
Rồi cô dang bàn tay và đặt ngón trỏ lên cây đinh đánh dấu thành phố Columbia.
“Còn Brubaker kia,” cô bảo. “Rõ là hai vụ liên tiếp.”
“Rõ là phỏng đoán hay,” tôi đáp.
Cô không trả lời.
“Ta có dám chắc rằng Brubaker xuất phát từ thành phố Raleigh không?” tôi hỏi.
“Ta cứ cho là như vậy.”
“Ta nên hỏi Sanchez cho chắc,” tôi nói. “Hỏi xem họ có tìm thấy xe ông ta không. Hỏi xem vợ ông ta có cho rằng ông ta tự lái xe hay không.”
“OK,” cô đáp. Cô tới bàn làm việc của cô trung sĩ để gọi điện. Để lại cho tôi xấp danh sách nhân sự tràng giang đại hải. Mười phút sau thì cô trở lại.
“Ông ta lái xe riêng,” cô nói. “Vợ ông ta khai với Sanchez rằng họ để hai xe ở khách sạn. Một xe của chồng xe kia của vợ. Lý do là ông chồng thường bất chợt phải đi đâu mà bà vợ không muốn bị kẹt lại một chỗ.”
“Xe gì vậy?” tôi hỏi. Tôi đinh ninh cô đã hỏi rồi.
“Chevy Impala SS.”
“Xe oách đấy.”
“Ông ta rời đi sau bữa tối còn bà vợ ngỡ ông chồng mình đang lái xe trở về trại Bird. Bình thường là thế. Nhưng chiếc xe vẫn chưa thấy ở đâu. Ít ra là theo lời Sở Cảnh sát Columbia và FBI.”
“OK,” tôi đáp.
“Sanchez cho rằng bọn họ đang ém nhẹm thông tin, như là họ biết gì đó mà giấu chúng ta vậy.”
“Thế cũng bình thường thôi mà.”
“Anh ta đang ép họ xì ra. Nhưng có vẻ khó.”
“Lúc nào chả vậy.”
“Anh ta sẽ gọi lại thôi,” cô nói. “Ngay khi có đầu mối nào đó.”
Chúng tôi nhận được cuộc gọi nửa tiếng sau. Nhưng không phải Sanchez gọi. Cũng không phải về vụ Brubaker hay Carbone. Người gọi đến là thanh tra Clark, ở khu Green Valley, bang Virginia. Anh ta gọi về vụ bà Kramer.
“Có manh mối rồi,” anh ta nói.
Nghe giọng anh ta có vẻ tự đắc lắm. Rồi anh ta sốt sắng kể tỉ mỉ từng bước mình đã làm. Nghe cũng khá thông minh. Anh ta đã dùng bản đồ để xác định những con đường dẫn đến Green Valley trong vòng ba trăm dặm. Rồi anh ta dùng sổ danh bạ điểm ra những tiệm bán dụng cụ gần những đường ấy. Anh ta cho lính mình điện tới những nơi đó, từng nơi một, bắt đầu từ điểm gần nhất đến xa nhất. Anh ta đoán số lượng xà beng được bán ra sẽ không cao lắm vào mùa đông. Người ta thường sửa nhà vào mùa xuân trở đi. Có ai muốn phá tường để nới gian bếp giữa trời lạnh đâu chứ. Nên anh ta nghĩ sẽ có không nhiều những báo cáo xác nhận. Sau ba tiếng anh ta chả nhận được gì cả. Người ta mua đủ thứ khoan cầm tay lẫn vít điện sau mùa Giáng sinh. Có người mua cưa, để cưa gỗ cho lò sưởi. Những người tưởng tượng mình là dân khai phá thì mua rìu. Nhưng chẳng ai để ý gì đến cái thứ lạc hậu và thô thiển như xà beng cả.
Nên anh quyết định dò lại dữ liệu phạm nhân của mình. Ban đầu anh ta định tìm báo cáo về các vụ án khác có dính líu đến việc dùng xà beng phá cửa. Anh ta tưởng sẽ thu hẹp được địa điểm. Nhưng chẳng tìm được gì trong phạm vi cả. Bù lại, ngay trên màn hình dữ liệu tội phạm quốc gia kia, anh ta tìm được một vụ trộm tại cửa hàng dụng cụ nhỏ ở thành phố Sperryville, bang Virginia. Cửa hàng đó là một nơi cô lập trong một con ngõ cụt. Theo lời khai của chủ tiệm thì cửa kính mặt trước tiệm bị ai đó đập vỡ vào mờ sáng mồng một. Vì là ngày nghỉ lễ, nên trong quầy không cất tiền mặt. Và theo chủ tiệm biết, thì thứ duy nhất bị đánh cắp là một thanh xà beng.
Summer quay về tấm bản đồ trên tường và đặt một cây đinh ngay giữa thành phố Sperryville, bang Virginia. Sperryville là một thành phố nhỏ và nằm gọn dưới chính nút nhựa của cây đinh. Rồi cô đặt một cây đinh khác ở Green Valley. Khoảng cách giữa hai cây đinh chừng một phần tư inch. Chúng gần như chạm nhau. Chúng đại diện cho chặng đường dài chừng mười dặm.
“Sếp nhìn này,” Summer nói.
Tôi đứng dậy bước tới. Nhìn lên bản đồ. Sperryville nằm ngay khúc cong của một con đường ngoằn ngoèo chạy theo hướng Tây Nam qua khu Green Valley và tiếp tục. Hướng kia con đường chỉ thẳng tới không nơi nào khác ngoài Thủ đô Washington. Nên Summer cắm thêm một cây đinh nữa tại Thủ đô Washington. Cô đặt ngón tay út lên đó. Ngón giữa cô đặt lên Sperryville còn ngón trỏ ở Green Valley.
“Vassell và Coomer,” cô nói. “Họ rời Thủ đô, cướp một cây xà beng ở Sperryville, đột nhập vào nhà Kramer ở Green Valley.”
“Nhưng có phải họ làm đâu,” tôi đáp. “Lúc đó họ đang ở sân bay mà. Họ không có xe. Và cũng không gọi một chiếc. Chính cô cũng kiểm tra danh sách cuộc gọi của họ rồi còn gì.”
Cô không đáp.
“Vả lại hai cái lão sĩ quan đít mỡ ấy,” tôi nói tiếp. “Có chết cũng chẳng biết ăn cắp tiệm dụng cụ thế nào đâu.”
Cô rời tay khỏi bản đồ. Tôi quay trở lại bàn làm việc ngồi xuống lần nữa và sắp mớ danh sách nhân sự lại cho gọn gàng.
“Ta nên tập trung vào vụ Carbone,” tôi nói.
“Vậy ta cần kế hoạch khác đó sếp,” cô bảo. “Thanh tra Clark sẽ thôi tìm kiếm thanh xà beng kia. Anh ta tìm được cái anh ta cần tìm rồi.”
Tôi gật đầu. “Ta quay lại phương pháp điều tra truyền thống vẫn được người đời tán dương thôi nào.”
“Đó là gì ạ?”
“Tôi có biết đâu. Tôi tốt nghiệp trường quân sự West Point mà. Có đi học trường Quân cảnh ngày nào đâu.”
Điện thoại tôi reo lên. Tôi đáp máy. vẫn chất giọng miền Nam ấm áp tôi nghe trước đó bảo lại tôi mã lệnh 10-33, 10-16 từ trại Jackson ban nãy. Tôi cảm ơn và bật loa ngoài rồi ngả lưng xuống ghế đợi. Căn phòng vang lên tiếng đường truyền tí tách. Rồi có tiếng đáp máy.
“Reacher à?” Sanchez cất tiếng.
“Và trung úy Summer,” tôi bảo. “Bọn tôi bật loa ngoài đó.”
“Có ai khác trong phòng không?”
“Không,” tôi bảo.
“Cửa đóng kỹ chưa?”
“Rồi. Có chuyện gì vậy?”
“Chuyện là, Sở Cảnh sát Columbia vừa gọi. Họ cho tôi thông tin lắt nhắt lắm. Và có vẻ thích chí khi làm vậy. Nghe giọng hả hê cực.”
“Tại sao chứ?”
“Vì trong túi Brubaker có ma túy, chứ sao nữa. Ba túi nhỏ đựng nàng tiên nâu. Và một xấp tiền mặt. Họ bảo đây là một cuộc mua bán ma túy bất thành.”