← Quay lại trang sách

MƯỜI SÁU

Chúng tôi trả khẩu Steyr lại cho Trifonov và đưa hắn tới trước cửa khu Delta. Chắc hắn sẽ ký trả lại khẩu súng rồi lê về phòng với cuốn sách của mình. Và tiếp tục trang đọc dở dang ban nãy. Chúng tôi trả chiếc Humvee về bãi rồi trở lại văn phòng. Summer nhào ngay tới bản ghi chép ra vào trại. Nó vẫn nằm dính trên tường, ngay bên cạnh bản đồ.

“Vassell và Coomer,” cô nói. “Chỉ có hai người họ rời trại đêm đó.”

“Họ đi về hướng Bắc,” tôi bảo. “Nếu cô nghĩ chính họ đã ném chiếc cặp táp kia ra khỏi xe, thì cô phải đồng ý với tôi rằng họ đã đi về hướng Bắc. Chắc chắn không xuống Nam đến thành phố Columbia rồi.”

“OK,” cô nói. “Vậy hung thủ giết Carbone và Brubaker không phải bọn họ. Hai bên không có liên kết nào cả. Ta vừa phí cả đống thời gian.”

“Đời là vậy đó,” tôi đáp.

Đời chợt trở nên tệ hại hơn nữa khi điện thoại của tôi reo lên hai mươi phút sau. Nữ trung sĩ của tôi gọi. Bà mẹ trẻ có đứa con trai ấy. Cô đang giữ máy cho Sanchez, anh ta gọi từ doanh trại Jackson. Cô liền nối máy cho chúng tôi.

“Willard đến và đi rồi,” anh ta nói. “Không thể tin nổi.”

“Tôi bảo rồi mà.”

“Lão làm nhặng xị hết cả lên.”

“Nhưng cậu vô can mà.”

“Ơn Chúa là vậy.”

Tôi khựng lại. “Cậu có kể lão nghe về hung thủ của tôi không?”

Đến lượt anh ta khựng lại. “Cậu dặn tôi kể mà. Lẽ ra tôi không nên làm vậy à?”

“Tôi đụng phải ngõ cụt rồi. Ban đầu tưởng ngon ăn, hóa ra không phải.”

“Chà, đằng nào lão cũng đang đến chỗ cậu đó. Lão đi cách đây hai tiếng. Biết tin chắc lão thất vọng lắm.”

“Tuyệt ghê,” tôi nói.

"Sếp tính làm gì đây?” Summer hỏi.

“Lão Willard là ai?” tôi hỏi lại. “Về bản chất ấy.”

“Một tay tham chức tham quyền.”

“Chính xác,” tôi bảo.

Theo nguyên tắc thì quân đội có tổng cộng hai mươi sáu cấp bậc. Lính mới tò te là binh nhì cấp E-1, và nếu không làm trò gì ngu ngốc sẽ tự động được lên binh nhì cấp E-2 sau một năm, rồi đến binh nhất E-3 sau một năm nữa, có thể sớm hơn nếu anh ta có chút tố chất. Rồi vị trí cao nhất nằm trên đỉnh hệ thống cấp bậc này là Thống tướng Lục quân năm sao, dù ngoài hai ông George Washington và Dwight David Eisenhower ra thì tôi chẳng biết ai khác đạt tới được cấp ấy. Nếu anh tính cấp thượng sĩ E-9 thành ba bậc riêng rẽ để phân biệt Thượng sĩ cố vấn Chỉ huy trưởng và Thượng sĩ cố vấn Lục quân, và tính cả bốn cấp chuẩn úy, thì một tay thiếu tá như tôi có bảy cấp trên và mười tám cấp dưới. Vì nằm ở vị trí đó nên một thiếu tá như tôi có thừa kinh nghiệm kháng lệnh, đi kháng lệnh và bị kháng lệnh, với cấp trên và từ cấp dưới. Với một cái thang hai mươi sáu bậc chia ra cho cả triệu người, thì thái độ bất tuân quân lệnh là một trò chơi đòi hỏi đẳng cấp. Và trò chơi này chỉ dành riêng cho hai người mà thôi.

Vậy là tôi bảo Summer tránh đi để một mình tôi đón tiếp lão Willard. Cô khăng khăng cãi. Cuối cùng tôi cũng thuyết phục được cô rằng trong hai người phải có một người không bị để ý. Cô bỏ ra ngoài ăn bữa tối muộn. Nữ trung sĩ của tôi mang cho tôi một ổ bánh sandwich. Thịt bò nướng với phô mai Thụy Sĩ, bánh mì trắng, một chút xốt mayonnaise, một chút mù tạt. Miếng thịt bò hồng hồng. Ổ bánh rất ngon. Rồi cô mang cà phê cho tôi. Tôi uống đến nửa ly thứ hai thì lão Willard mò đến.

Lão xông thẳng vào phòng. Không thèm đóng cửa. Tôi không đứng dậy. Không giơ tay chào, vẫn nhâm nhi ly cà phê. Lão bỏ qua thái độ ấy, y như tôi đã đoán. Lão tinh quái lắm. Lão nghe rằng tôi tóm được một nghi phạm có thể giúp lão tước vụ Brubaker từ tay Sở Cảnh sát Columbia và loại bỏ hình ảnh một đại tá ưu tú đi dây dưa với đám buôn ma túy trong một con hẻm nghiện ngập. Nên lão có ý đi nước cờ đầu thân thiện và hữu nghị. Hoặc có thể lão đang cố tìm cớ gần gũi với thuộc cấp. Lão ngồi xuống và ngay lập tức mân mê ống quần. Lão cố tỏ ra thân tình, như thể tôi và lão vừa cùng nhau trải qua một chuyện gì đó.

“Lái xe từ trại Jackson tới đây thích thật,” lão lên tiếng. “Đường sá êm ru.”

Tôi không đáp.

“Tôi vừa mua một chiếc Pontiac GTO cổ,” lão tiếp. “Xe tuyệt lắm. Tôi gắn thêm mấy cổ pô mới tinh, mấy cái ống xả to đùng ấy. Xe bay như tên lửa vậy đó.”

Tôi không đáp.

“Cậu không thích dòng xe cơ bắp à?”

“Không,” tôi bảo. “Tôi thích đi buýt.”

“Vậy chán òm.”

“OK, để tôi sửa lại lời chút. Tôi rất hài lòng với kích cỡ của quý của mình. Không cần phải mua xe to để bớt tự ti đâu.”

Mặt lão chuyển trắng bệch. Rồi đỏ au. Hệt như màu xe Corvette của Trifonov vậy. Lão trừng mắt nhìn tôi ra vẻ dữ dằn lắm.

“Báo cáo về vụ Brubaker đi,” lão nói.

“Tôi đâu có điều tra vụ đó.”

“Sanchez bảo cậu bắt được hung thủ rồi mà.”

“Báo động giả thôi,” tôi đáp.

“Cậu có chắc không?”

“Như đinh đóng cột.”

“Cậu đã điều tra những ai?”

“Chỉ vợ cũ của ông thôi.”

“Cái gì?”

“Tôi nghe đâu bà ta đã lên giường với nửa số đại tá trong quân đội rồi. Chỉ đại tá, như sở thích ấy. Nên tôi đoán trong số đó có cả Brubaker. Ý tôi là, cũng có khả năng đó lắm chứ.”

Lão gườm tôi.

“Nói vui thôi,” tôi bảo. “Tôi chẳng điều tra ai cả. Đâu có manh mối gì.”

Lão quay ngoắt đi, vẻ giận dữ lắm. Tôi đứng dậy đóng cửa phòng lại. Rồi trở về bàn làm việc. Ngồi xuống. Đối mặt với lão.

“Cậu xấc xược khó ai bằng,” lão nói.

“Vậy ông Willard đây cứ việc đệ đơn tố cáo tôi đi. Vác thân lên cấp trên mà than rằng tôi làm ông bị tổn thương. Xem có ai tin được ông. Hay người ta sẽ nghĩ ông lại bó tay trước việc cỏn con như vậy. Để họ lưu cái bất lực của ông vào hồ sơ. Xem họ có rút lại cái đề bạt lên một sao của ông không.”

Lão vặn người trên chiếc ghế. Lão cựa quậy người hết bên này lại qua bên kia rồi nhìn khắp phòng. Xong lại nhìn lên tấm bản đồ của Summer.

“Cái gì kia?” lão hỏi.

“Bản đồ chứ gì nữa,” tôi đáp.

“Bản đồ vùng nào?”

“Bờ Tây Hoa Kỳ.”

“Mấy cái đinh ghim để làm chi vậy?”

Tôi không đáp. Lão đứng dậy bước tới bức tường. Rồi đặt ngón tay dò la từng cái đinh một. Thủ đô Washington, Sperryville và khu Green Valley. Rồi đến Raleigh, trại Bird, Cape Fear và thành phố Columbia.

“Những điểm gì đây?” lão hỏi tiếp.

“Chỉ là đinh ghim thôi mà,” tôi đáp.

Lão rút cây đinh trên Green Valley, bang Virginia ra.

“Vụ bà Kramer,” lão nói. “Tôi bảo cậu không dính vào nữa rồi cơ mà.”

Lão rút tiếp những cái đinh còn lại. Ném chúng xuống sàn nhà. Rồi lão thấy bản xuất nhập trại. Lướt từ trên xuống tới khi bắt gặp cái tên Vassell và Coomer.

“Tôi cũng đã yêu cầu cậu để yên hai người này,” lão nói.

Lão giật tờ giấy ra khỏi bức tường. Mẩu băng dính kéo theo một mảng sơn. Rồi lão giật luôn tấm bản đồ. Thêm mấy mảng sơn nữa tróc ra. Đống đinh ghim để lại những lỗ nhỏ trên ván ốp tường. Bản thân mấy cái lỗ trông cũng như một tấm bản đồ vậy. Hoặc một chùm sao nào đó.

“Cậu cắm thủng cả tường rồi này,” lão nói. “Ai cho cậu phá hoại tài sản quân đội như thế chứ. Rõ là thứ nghiệp dư. Rồi người ta nghĩ gì khi thấy căn phòng nhếch nhác thế hả?”

“Ai nhìn mà chả biết tường này từng treo một tấm bản đồ,” tôi đáp. “Chính tay ông giật xuống làm bừa ra chứ ai.”

Lão thả đống giấy nhàu nát xuống sàn.

“Cậu muốn tôi đi gặp đội Delta không?” lão nói.

“Ông muốn ăn đòn không?”

Lão im re.

“Cậu nên nghĩ đến việc đề bạt sắp tới của mình, Thiếu tá ạ. Cậu nghĩ mình sẽ lên được trung tá khi tôi còn ở đây sao?”

“Không,” tôi bảo. “Tôi chẳng dám mơ tới. Cơ mà, tôi cũng không nghĩ ông sẽ ở đây lâu đâu.”

“Nghĩ lại đi. Ta thấy cái tổ này ấm lắm. Quân đội lúc nào mà chẳng cần Quân cảnh.”

“Cần ai chứ chẳng cần thứ khốn nạn vô dụng như ông đâu.”

“Anh đang nói chuyện với cấp trên đấy nhé.”

Tôi nhìn quanh phòng. “Nhưng tôi nói gì nhỉ? Có ai làm chứng?”

Lão im bặt.

“Ông bị ảo tưởng sức mạnh quá đấy,” tôi nói. “Nhìn ông lóng ngóng như gà mắc tóc cũng vui. Hay là ông với tôi vào phòng tập tỉ thí với nhau một trận cho rõ chuyện đi. Ông muốn thử không?”

“Cậu có máy fax cố định chứ?” lão hỏi.

“Lại còn hỏi,” tôi đáp. “Để phòng ngoài chứ đâu. Ông đi qua mà không thấy à. Ông bị gì vậy? Đã đần lại còn đui sao?”

“Cậu liệu mà đứng canh nó đúng chín giờ sáng mai đi. Tôi sẽ gửi cho cậu vài chỉ thị bằng văn bản.”

Lão lườm tôi lần cuối. Rồi bước ra ngoài, đóng sầm cửa mạnh đến nỗi rung cả tường, làm tấm bản đồ và tờ đăng ký xuất nhập trại nẩy lên khỏi sàn nhà cả mấy phân.

Tôi nán lại bàn làm việc. Rồi điện cho anh trai tôi ở Thủ đô Washington, nhưng anh không nghe máy. Tôi toan gọi cho mẹ. Nhưng lại chẳng biết phải nói gì. Dù tôi nói gì chăng nữa, mẹ cũng thừa biết tôi chỉ gọi để hỏi một câu duy nhất đó là: Mẹ còn sống không? mà thôi. Mẹ đi guốc trong bụng tôi mà.

Vậy nên tôi đứng dậy nhặt tấm bản đồ rồi vuốt cho thẳng thớm. Xong thì dán nó lên tường. Tôi nhặt bảy cái đinh ghim cắm lại chỗ cũ. Dán tờ xuất nhập trại bên cạnh bản đồ. Nhưng rồi tôi lại giật nó xuống. Vì nó chẳng hữu ích gì cả. Tôi vo nó lại rồi thảy vào thùng rác. Trên tường chỉ còn tấm bản đồ. Cô trung sĩ của tôi đem vào thêm cà phê. Tôi chợt nghĩ đến cha của đứa bé. Anh ta là ai? Liệu có phải từng là một kẻ ưa bạo hành? Nếu thật vậy, chắc anh ta đang nằm dưới đáy cái đầm nào đó rồi. Hoặc nhiều cái đầm, mỗi nơi chôn một mảnh chẳng hạn. Điện thoại chợt reo lên và cô đáp máy giùm tôi. Rồi đưa tôi ống nghe.

“Thanh tra Clark gọi,” cô nói. “Từ bang Virginia.”

Tôi vòng dây điện thoại quanh bàn rồi ngồi xuống.

“Bọn tôi có tiến triển,” anh ta nói. “Thanh xà beng từ Sperryville chính là hung khí, chắc chắn vậy. Chuyên viên khám nghiệm xác nhận thanh xà beng mẫu giống hệt chúng tôi mượn từ tiệm dụng cụ đó khớp với các dấu vết.”

“Khá lắm,” tôi bảo.

“Nên tôi mới gọi báo là chúng tôi không tìm tiếp được đâu. Chúng tôi tìm thấy chứng cứ mình cần rồi, nên không thể tìm giúp anh được nữa. Tôi không giải thích vụ ngân sách phát sinh ngoài giờ cho cấp trên được.”

“Được thôi,” tôi nói. “Bọn tôi cũng đoán vậy mà.”

“Nên từ giờ anh tự lo liệu nhé, bồ tèo. Chúng tôi lấy làm tiếc lắm.”

Tôi không đáp.

“Phía anh thế nào rồi? Đã cho tôi một cái tên được chưa?” Tôi mỉm cười. Quên cái tên đi, tôi nghĩ thầm. Bồ với chả tèo. Không qua, không lại, sao toại lòng nhau. Mà từ đầu làm gì có cái tên nào đâu.

“Có sẽ nhắn sau,” tôi đáp.

Summer trở lại và tôi cho cô nghỉ tự do tối nay. Dặn cô gặp tôi tại phòng ăn sĩ quan vào bữa sáng. Chính xác chín giờ, khi Willard fax chỉ thị mới. Tôi định là cả hai sẽ ung dung tận hưởng bữa ăn đó, với nhiều trứng, và nhiều cà phê, rồi thủng thỉnh về văn phòng chừng mười giờ mười lăm.

“Sếp làm xê dịch tấm bản đồ rồi,” cô nói.

“Willard giật nó xuống đó. Tôi phải dán nó lại.”

“Lão nguy hiểm đấy.”

“Có thể vậy,” tôi đáp. “Có thể không. Rồi sẽ biết thôi.”

Chúng tôi trở về phòng riêng. Phòng tôi nằm ở dãy dành cho sĩ quan độc thân. Nhìn cũng giống một quán trọ. Một con đường mang tên thằng cha nào đó chết lâu rồi từng nhận Huân chương Danh dự tẽ nhánh rẽ vào cửa phòng tôi. Trên đường cứ hai mươi yard lại cắm một cột đèn. Cây trước cửa phòng tôi đã hỏng. Vì có người ném đá vỡ bóng đèn. Tôi còn thấy đầy mảnh vỡ trên mặt đường. Và ba kẻ nào đó nấp trong bóng tối. Tôi bước qua kẻ đầu tiên. Chính là tay trung sĩ Delta mặt râu da rám nắng. Anh ta gõ ngón trỏ vào mặt đồng hồ tay. Gã thứ hai cũng làm vậy. Gã thứ ba chỉ mỉm cười. Tôi vào phòng đóng cửa lại. Tôi không nghe thấy tiếng họ bỏ đi. Đêm đó tôi ngủ không ngon.

Đến sáng thì không thấy bọn họ nữa. Tôi yên ổn đến phòng ăn sĩ quan. Vào chín giờ sáng thì nơi này vắng tanh, cũng là một cái hay. Cái không hay duy nhất là số đồ ăn còn lại đã được ủ ấm quá lâu mà thôi. Nhưng nhìn chung tôi thấy tình huống này khá ổn. Tôi ưa được ở một mình hơn là ăn đồ ngon. Summer và tôi ngồi đối diện nhau ở chiếc bàn nhỏ đặt giữa phòng. Bọn tôi ăn sạch những gì còn lại. Summer nuốt hết gần năm lạng yến mạch và gần một cân bánh quy. Cô nhỏ người, nhưng ăn khỏe. Không phải bàn cãi. Chúng tôi ung dung thưởng thức cà phê rồi về tới văn phòng tôi vào tầm mười giờ hai mươi. Bên trong đang hỗn loạn vô cùng. Điện thoại bàn nào cũng rít lên inh ỏi. Viên hạ sĩ quê Louisiana xoắn xít hết cả lên.

“Sếp đừng nghe điện thoại," anh ta bảo. “Đại tá Willard gọi đó. Ông ta muốn xác nhận xem sếp đã nhận được chỉ thị chưa ngay bây giờ. Ông ta đang giận dữ lắm.”

“Chỉ thị là gì vậy?”

Cậu ta cúi xuống bàn lấy cho tôi một tờ fax. Điện thoại khắp nơi vẫn reo ầm ĩ. Tôi không cầm tờ fax. Tôi chỉ đứng đó đọc qua vai anh hạ sĩ. Trên ấy là hai đoạn văn bản viết khít rịt với nhau. Willard yêu cầu tôi kiểm tra ghi chép số dụng cụ mà khu hậu cần đã nhận hoặc cho mượn. Lão muốn tôi viết báo cáo bằng văn bản những vật dụng cần phải có trong kho doanh trại. Rồi sau đó tới tận nơi kiểm chứng. Xong xuôi phải ghi lại toàn bộ những vật bị mất và đề xuất bằng văn bản cách tìm lại chúng. Lão yêu cầu tôi làm theo chỉ thị này sớm nhất có thể. Và phải gọi điện xác nhận khi tôi đã cầm tờ chỉ thị trên tay.

Một chiêu đì cấp dưới điển hình. Ngày xưa họ bắt anh sơn trắng từng thỏi than một hay đổ đầy bao cát bằng thìa pha trà hay cạo sàn nhà bằng bàn chải đánh răng. Chỉ thị vừa rồi là một chiêu đì tương đương thời hiện đại của Quân cảnh thôi. Phải mất hai tuần mới xong thứ việc nhảm nhí này. Tôi mỉm cười.

Điện thoại khắp nơi vẫn reo.

“Tôi chưa hề nhận được tờ chỉ thị,” tôi nói. “Tôi không ở văn phòng.”

“Vậy sếp ở đâu?”

“Bảo lão là có ai đó đã vứt vỏ kẹo cao su lên bãi hoa trước văn phòng chỉ huy trại. Bảo lão là tôi không chấp nhận việc kẻ đó phá hoại tài sản quân đội như vậy. Bảo lão tôi đã lên đường truy tìm hắn từ sáng tinh mơ rồi.”

Tôi dẫn Summer ra ngoài vỉa hè, thoát khỏi tiếng chuông điện thoại inh ỏi.

“Lão khốn,” tôi nói.

“Sếp nên lánh đi thì hơn,” cô bảo. “Lão sẽ gọi tùm lum đó.” Tôi đứng yên. Nhìn xung quanh. Trời se lạnh. Nhà cửa xám xịt, bầu trời cũng xám ngoét.

“Thôi hôm nay nghỉ nhé,” tôi nói. “Hai ta đi đâu đi.”

“Còn nhiều việc mà sếp.”

Tôi gật đầu. Vụ Carbone. Rồi vụ Kramer. Rồi tới Brubaker.

“Ta không ở đây được,” tôi bảo. “Nên cũng chẳng thể điều tra vụ Carbone được nữa.”

“Sếp muốn xuống Columbia không?”

“Vụ đó không phải của ta. Có Sanchez lo liệu rồi.”

“Đi dạo biển giờ này cũng lạnh đó sếp,” Summer nói.

Tôi gật đầu. Tôi chợt ước sao trời không lạnh đến vậy để đi dạo biển. Tôi muốn thấy Summer đi biển. Mặc bikini. Một bộ bikini ít vải thì càng tốt.

“Ta còn nhiều việc đó sếp,” cô nói.

Tôi nhìn về hướng Tây Nam, phía xa những tòa nhà chính. Tôi thấy những thân cây úa tàn nơi đường chân trời. Tôi thấy một cây thông cao, thô và lặng lẽ, ở gần đây hơn. Tôi đoán cây đó mọc gần hiện trường vụ Carbone.

Carbone.

“Đi Green Valley thôi,” tôi nói. “Đi thăm thanh tra Clark một chuyến. Ta có thể hỏi xem qua thông tin về thanh xà beng. Anh ta cũng đỡ cho ta bước đầu rồi. Ta nên lo phần còn lại. Trời này làm một chuyến đi bốn tiếng đồng hồ cũng đáng.”

“Đừng quên bốn tiếng đi về nữa sếp.”

“Tha hồ ăn trưa. Ăn tối nữa. Ta có thể vắng mặt mà khỏi xin phép luôn.”

“Họ sẽ tìm ta.”

Tôi lắc đầu.

“Không đâu,” tôi nói. “Chẳng ai tìm tôi bao giờ cả.”

Tôi nán lại bên vỉa hè đợi và năm phút sau Summer đánh chiếc Chevy xanh lá chúng tôi từng đi quay lại đón. Cô leo xe lên lề rồi hạ cửa sổ phía cô xuống chặn tôi lại.

“Làm vầy có khôn ngoan không sếp?” cô hỏi.

“Mình còn cách nào đâu,” tôi đáp.

“Không, ý tôi là sếp phải ký xuất trại đó. Giờ ra: mười rưỡi sáng. Lão Willard có thể kiểm tra.”

Tôi không đáp. Cô mỉm cười.

“Sếp trốn trong cốp nhé,” cô bảo. “Ra khỏi cổng chính thì trèo ra.”

Tôi lắc đầu. “Tôi không trốn đâu. Nhất là với hạng khốn nạn như lão Willard. Nếu lão ta kiểm tra thì tôi sẽ bảo mình phải rời bang đuổi theo thằng cha vứt vỏ kẹo cao su kia. Có khi phải bay ra nước ngoài luôn. Ta có thể ghé Tahiti chơi đó.”

Tôi ngồi cạnh cô rồi ngả ghế xuống hết cỡ và lại bắt đầu tưởng tượng ra bộ bikini kia. Cô nhả chân khỏi thắng xe rồi phi theo đường chính. Đến gần cổng trại thì giảm tốc dần. Một viên binh nhì Quân cảnh đón chúng tôi với tấm bảng kẹp trên tay. Trong khi anh ta ghi lại biển xe thì chúng tôi trình thẻ căn cước. Anh ta ghi tên chúng tôi lại. Rồi ngó nghiêng trong xe, thấy băng ghế sau không có người. Anh ta gật đầu với đồng nghiệp ngồi trong bốt canh rồi từ từ thanh ba rê nâng lên cho chúng tôi qua. Nó khá dày và có gắn cục đối trọng sơn sọc đỏ xen trắng. Summer đợi đến khi nó kéo lên thẳng đứng rồi đạp ga phóng đi, để lại phía sau chiếc Chevy cột khói xám được chính phủ cấp cho.

Thời tiết dễ chịu hẳn khi chúng tôi lái về hướng Bắc. Chúng tôi ra khỏi cụm mây xám xịt tới khu vực hửng nắng mùa đông. Vì là xe quân đội nên không gắn đài phát thanh. Chỗ thường đặt cục thu đài AM hay FM hay chỗ nuốt băng cát xét chỉ là một hốc trống rỗng. Tuy lâu lâu chúng tôi lại chuyện trò nhưng phần lớn chuyến đi chỉ có im lặng. Được tự do, thật là một cảm giác đáng tò mò. Tôi đã dành hầu hết cuộc đời, từng phút, từng ngày một, chỉ để vâng dạ chỉ thị của quân đội. Giờ tôi chợt thấy mình như một đứa lêu lổng. Ngoài kia là thế giới rộng lớn. Dòng đời cứ thế mà trôi, thật lộn xộn rối rắm và vô kỷ luật, và tôi đã được là một phần của nó, dù chỉ ngắn ngủi. Tôi ngả người xuống ghế nhìn khung cảnh cuồn cuộn trôi qua, rực rỡ và lấp lánh thay, những hình ảnh vô thưởng vô phạt thay nhau xuất hiện như ánh nắng lấp lóa trên mặt dòng sông đang chảy.

“Cô mặc bikini hay áo một mảnh?” tôi hỏi.

“Chi vậy sếp?”

“Hỏi chơi thôi,” tôi nói. “Tôi đang nghĩ về bờ biển ấy mà.”

“Lạnh lắm sếp.”

“Tháng Tám sẽ ấm hơn.”

“Sếp nghĩ mình còn ở đây tới tháng Tám à?”

“Không,” tôi đáp.

“Tiếc nhỉ,” cô nói. “Thế thì sao biết tôi mặc loại áo nào.”

“Thì cô chụp ảnh lại gửi cho tôi.”

“Gửi đến đâu?”

“Trại Leavenworth, chắc vậy,” tôi bảo. “Trong buồng biệt giam ấy.”

“Này, nói thật đấy, sếp định đi đâu?”

“Tôi cũng chịu,” tôi bảo. “Phải tám tháng nữa mới đến tháng Tám.”

“Trong những nơi từng trực thì sếp thích nơi nào nhất?”

Tôi mỉm cười. Và trả lời đúng một câu tôi luôn dùng mỗi khi có người hỏi câu đó.

“Đây chứ đâu,” tôi đáp. “Ngay bây giờ luôn.”

“Kể cả khi có lão Willard gí theo từng bước?”

“Willard chỉ là muỗi. Lão sẽ biến trước tôi cơ.”

“Thế từ đầu lão đến đây làm gì nhỉ?”

“Anh trai tôi đoán quân đội đang bắt chước cách làm của doanh nghiệp. Người mới thường không bị mắc vào hiện trạng và lề thói trước đó.”

“Một tay vốn quen việc tính toán lượng xăng dầu tiêu hao bỗng dưng đụng phải hai vụ án mạng ngay trong tuần đầu làm việc. Và chẳng chịu giải quyết vụ nào.”

“Chỉ có người lạc hậu mới giải quyết chúng ngay thôi. Ta phải nhìn về phía trước. Ta phải biết nhìn đại cục.”

Cô mỉm cười. Rồi rẽ xuống đoạn dốc dẫn tới Green Valley, với tốc độ nhanh chóng mặt.

Sở Cảnh sát Green Valley nằm ở phía Bắc thị trấn. Một tòa nhà lớn hơn tôi tưởng, bởi vì chính khu Green Valley này cũng rộng hơn tôi tưởng. Nó bao gồm cả khu vực trung tâm xinh xắn mà chúng tôi đã ghé qua, rồi mọc thêm về hướng Bắc qua vùng quê nào đó gồm chủ yếu là những trung tâm mua sắm và khu công nghiệp hạng nhẹ, gần như đến tận Sperryville. Sở Cảnh sát nơi này đủ lớn để chứa từ hai mươi đến ba mươi sĩ quan. Nó được xây theo kiểu đặc trưng của những vùng có giá đất rẻ bèo. Tòa nhà dài, thấp và ngoằn ngoèo, với một khu vực chính giữa và hai cánh hai bên. Hai cánh được xây vuông góc, khiến cả khu gom thành hình chữ U. Tường nhà làm bằng bê tông giả đá. Mặt tiền trải một thảm cỏ úa và bãi đậu xe nằm hai bên. Cột cờ cắm ngay chính giữa thảm cỏ. Quốc kỳ cắm trên nóc, bị nắng mưa làm ngả màu và nằm ủ rũ giữa trời vắng gió. Nơi này trông có chút tráng lệ, nhưng lại mờ nhạt dưới ánh nắng nhợt nhạt.

Chúng tôi để xe ở bãi bên phải giữa hai chiếc xe cảnh sát. Chúng tôi bước ra ánh nắng. Rồi vào cửa hỏi lễ tân cho gặp thanh tra Clark. Nhân viên lễ tân gọi số nội bộ rồi chỉ chúng tôi về cánh trái. Chúng tôi bước qua một hành lang bừa bộn tới một căn phòng to ngang sân bóng rổ. Gần như toàn bộ diện tích này chính là văn phòng của đội điều tra. Có một hàng rào gỗ quây lại bốn chiếc ghế dành cho khách và một cánh cửa có bàn lễ tân đặt bên cạnh. Sau chiếc cửa đó có một văn phòng dành cho trung úy đặt tít ở cuối góc và chẳng còn gì khác ngoài sáu chiếc bàn đặt đối nhau theo từng đôi, bên trên có điện thoại cố định và ngổn ngang giấy tờ. Ở tường kê vài ngăn đựng hồ sơ. Cửa sổ phòng bụi bặm và phần lớn màn che đã gãy hoặc cong queo hết cả.

Ở bàn lễ tân không có người. Trong phòng kia thì có hai viên thanh tra, cùng mặc áo vét vải tuýt, cùng ngồi quay lưng lại với chúng tôi. Một người là Clark. Anh ta đang nói chuyện điện thoại. Tôi rung lắc chốt cửa. Cả hai người họ đồng loạt quay lại. Clark ngớ ra một chút, ngạc nhiên, rồi vẫy tay mời chúng tôi vào. Chúng tôi kéo ghế theo rồi mỗi người ngồi một đầu bàn. Anh ta vẫn nói chuyện điện thoại. Chúng tôi đợi. Tôi tranh thủ nhìn quanh. Văn phòng trung úy có vách lắp kính cao ngang tầm hông trở lên. Trong ấy có đặt chiếc bàn khá lớn. Không có ai ngồi sau nó. Nhưng trên mặt bàn có đặt hai bản đắp thạch cao, như bản mà chuyên viên khám nghiệm của chúng tôi đã làm trước đó. Tôi không đứng dậy nhìn chúng. Làm thế e không lịch sự lắm.

Clark dập máy rồi ghi chép gì đó vào một mẩu giấy vàng. Xong xuôi anh ta thở phào rồi ngả ghế thật thấp để có thể nhìn thấy cả hai chúng tôi. Nhưng không nói gì. Anh ta biết thừa chúng tôi đến đây đâu phải để xã giao. Nhưng đồng thời anh ta cũng chẳng muốn hỏi thẳng ra là chúng tôi có cái tên nào cho anh ta chưa. Anh ta không muốn bị tẽn tò nếu bọn tôi không có.

“Bọn này ghé qua chơi thôi,” tôi nói.

“OK,” anh ta đáp.

“Toan nhờ anh chút,” tôi nói tiếp.

“Nhờ gì vậy?”

“Tính nhờ anh cho chúng tôi xem thông tin anh có về thanh xà beng. Dù sao giờ anh cũng đâu cần tới nữa. Anh tìm thấy thứ mình cần rồi mà.”

“Thông tin gì?”

“Anh liệt kê đủ các tiệm bán dụng cụ đó. Tôi nghĩ sẽ đỡ tốn thời gian hơn nếu chúng tôi tiếp tục việc anh đang làm dở.”

“Tôi đánh fax tới anh là được thôi mà,” anh ta bảo.

“Lỡ nhiều quá thì lại mất công anh.”

“Lỡ hôm nay tôi nghỉ không đến văn phòng thì sao.”

“Thì vậy mới bảo chúng tôi tiện đường ghé qua thôi mà.”

“OK,” anh ta nhắc lại. “Thông tin về thanh xà beng hả.” Anh ta xoay ghế đứng dậy rồi bước tới một ngăn hồ sơ. Rồi trở lại với một tập hồ sơ màu xanh lá dày chừng một phân. Anh ta thả nó xuống bàn. Nó rơi thịch một tiếng ra trò.

“Chúc anh may mắn,” anh ta bảo.

Anh ta ngồi xuống rồi tôi gật đầu ra hiệu cho Summer lấy tập hồ sơ. Cô mở nó ra. Bên trong đầy những giấy. Cô lướt qua chúng. Rồi nhăn mặt. Xong đưa tôi xem. Đó là một danh sách dài dằng dặc liệt kê những nơi từ bang New Jersey đến tận Bắc Carolina. Nó ghi đầy đủ tên và địa chỉ và số điện thoại. Chín mươi dòng đầu được đánh dấu bên cạnh. Từ đó trở xuống tầm bốn trăm dòng sau thì không.

“Anh nên lưu ý,” Clark nói. “Có nơi gọi nó là xà beng còn nơi khác lại gọi là cây nạy. Nên nhớ kẻo nói ra người ta không hiểu.”

“Chúng có nhiều kích thước không?”

“Đa dạng lắm. Cây của chúng tôi khá bự.”

“Tôi xem được không nhỉ? Hay là các anh cất trong phòng vật chứng rồi?”

“Vật chứng gì chứ,” Clark nói. “Nó đâu phải là hung khí thật. Chỉ là một mẫu tương tự chúng tôi mượn từ cửa tiệm ở Sperryville thôi. Làm sao đem nó ra tòa đối chứng được.”

“Nhưng nó khớp với mẫu thạch cao của các anh.”

“Vừa y luôn,” anh ta nói. Anh ta đứng dậy lần nữa rồi bước vào văn phòng trung úy lấy hai bản thạch cao. Anh ta đem cả hai đặt lên bàn mình. Trông chúng tương tự hai bản của chúng tôi. Một bản lồi, một bản lõm, giống cái chúng tôi có. Xét đường kính thì đầu bà Kramer nhỏ hơn nhiều so với Carbone. Vậy thanh xà beng này có ít không gian tác động hơn. Nên mẫu vết thương trên tấm thạch cao này ngắn hơn một chút so với tấm của chúng tôi. Dù vậy vết thương trông vẫn sâu hoắm và hiểm vô cùng. Clark nhặt nó lên và men ngón tay theo rãnh vết thương.

“Một cú đánh hung tợn,” anh ta nói. “Chúng tôi đang tìm một kẻ cao lớn, vạm vỡ, thuận tay phải. Anh có thấy ai như vậy không?”

“Lần nào tôi nhìn gương cũng thấy,” tôi đáp.

Tấm đắp mẫu hung khí cũng ngắn hơn tấm của chúng tôi. Nhưng ngoài điều đó ra thì chúng giống hệt nhau. Cũng một khối trắng, rỗ một đôi chỗ do tính chất của thạch cao, nhưng về cơ bản là nhẵn và mịn, và đều mang dấu vết tàn bạo như nhau.

“Cho tôi xem thanh xà beng này được không?” tôi hỏi.

“Được chứ,” Clark đáp. Anh ta cúi xuống mở một ngăn kéo. Để nó mở toang như trưng bày cho chúng tôi thấy và đẩy ghế qua một bên nhường chỗ cho tôi. Tôi rướn tới nhìn xuống và thấy một vật màu đen uốn khúc hệt như cái tôi đã thấy sáng hôm trước. Cùng kiểu dáng, cùng khúc cong, cùng màu, cùng kích thước, cùng mỏ nạy, cùng khuôn bát giác. Cùng độ bóng đó, chính xác đến từng li. Nó giống thanh xà beng chúng tôi để lại văn phòng nhà xác tại trại Bird như hai giọt nước.

Chúng tôi lái mười dặm đến Sperryville. Tôi lướt qua danh sách của Clark để tìm địa chỉ tiệm dụng cụ kia. Nó nằm ngay dòng thứ năm, bởi vì nó ở gần Green Valley. Nhưng nó không được đánh dấu ở ô ghi số điện thoại. Mà lại được ghi chú bằng bút chì một dòng sau: Không bắt máy. Tôi đoán chủ tiệm đang bận vật lộn với thợ lắp kính và công ty bảo hiểm. Tôi nghĩ lính của Clark sớm muộn cũng gọi lại cho tiệm này, nhưng trước đó thì còn mải bù đầu với cuộc tìm kiếm của họ.

Sperryville lại chẳng là nơi rộng lớn gì cho cam, nên chúng tôi tà tà vòng quanh lần mò địa chỉ. Chúng tôi thấy một loạt cửa hàng trên một góc đường, rồi sau khi vòng qua nó những ba lần mới tìm thấy đúng tên đường trên một tấm biển xanh lá. Tấm biển đó hướng chúng tôi tới một con hẻm cụt. Chúng tôi đi giữa hai bên tường ghép ván của hai ngôi nhà rồi con hẻm cụt đó chợt nở rộng ra sau thành một khoảnh sân nhỏ, tiệm dụng cụ kia nằm chờ chúng tôi ở cuối đường. Nó giống kho thóc một tầng, được sơn sửa cho giống nhà thành thị hơn là nông thôn. Một cơ sở kinh doanh hộ gia đình thường thấy. Trên tấm bảng hiệu cũ có sơn cái họ. Trông không giống một chi nhánh bán lẻ thuộc tập đoàn lớn nào cả. Chỉ là một cửa hàng kinh doanh nhỏ của Mỹ, nằm lẻ loi một mình, chứng kiến biết bao chìm nổi của các thế hệ gia đình.

Nhưng nó cũng là một nơi lý tưởng để đột nhập ăn trộm giữa đêm khuya. Im ắng, cách biệt, vô hình trước những người qua lại trên con đường chính, không có tầng hai. Ngoài mặt tiền bên trái là một ô cửa kính trưng bày và cạnh nó bên phải là cửa ra vào, chính giữa cả hai chỉ có khung cửa ngăn cách. Trên mặt kính có một cái lỗ tròn, tạm thời được che chắn bằng một tấm ván thô. Tấm ván đã được gọt gọn cho vừa kích cỡ. Tôi đoán cái lỗ do đế giày đạp vào gây nên. Nằm rất gần cánh cửa. Tôi đoán một tay cao to có thể thò cánh tay trái vào đến vai và với được chốt cửa dễ dàng. Nhưng hắn sẽ phải cho cả cánh tay vào trong rồi mới từ từ thận trọng co tay để tránh không làm rách áo. Tôi hình dung hắn áp má trái vào mặt kính lạnh, trong bóng tối, thở dốc, bàn tay quơ cào bên trong.

Chúng tôi dừng xe ngay trước cửa tiệm và bước ra. Cả hai đứng ngoài nhìn vào cửa kính một chút. Bên trong trưng bày đủ thứ hàng hóa. Thế nhưng tiệm này còn lâu mới có cửa được dọn đến khu Saks Fifth Avenue sang trọng. Nhất là với kiểu mặt tiền trưng bày nhà quê thế này. Không có tí thẩm mỹ nào cả. Không có ý sắp đặt. Không có gì nổi trội để kéo khách vãng lai. Tất cả chỉ được bày gọn gàng trên những chiếc kệ đóng tay. Thứ nào cũng được gắn thẻ báo giá. Mặt tiền như muốn nói: Chúng tôi có những món này. Bạn muốn gì, xin mời vào.Nhưng trông chúng có vẻ là hàng xịn cả. Có vài thứ khá lạ mắt. Chính tôi cũng chẳng biết những thứ ấy dùng để làm gì. Tôi không rành các loại đồ nghề lắm. Tôi hiếm khi dùng gì, trừ vài loại dao. Nhưng có thể thấy rằng cửa tiệm này chọn lọc mặt hàng khá cẩn thận.

Chúng tôi bước vào trong. Chiếc chuông điện tử gắn bên cửa reo lên khi chúng tôi tiến vào. Bên trong giữ nguyên sự ngăn nắp và gọn gàng mà chúng tôi thấy từ ngoài cửa sổ. Những chiếc kệ, ngăn tủ và thùng ống được đặt đâu ra đó. Sàn lát ván gỗ to. Có mùi dầu máy phảng phất đâu đây. Cửa tiệm im ắng. Không một người khách. Có một người đàn ông ngồi sau quầy, chừng sáu mươi hay bảy mươi tuổi. Ông ta nghe tiếng chuông thì ngước lên nhìn chúng tôi. Ông ta có vóc người tầm trung, gầy và hơi còng. Ông ta đeo chiếc kính gọng tròn và khoác áo len màu xám. Chúng cho ông ta cái vẻ ngoài đầy tri thức, nhưng đồng thời cũng ám chỉ rằng trừ cây tuốc nơ vít nhỏ ra thì ông ta chẳng quen sử dụng thứ gì khác. Chúng khiến ông ta trông giống với một giáo sư đại học chuyên giảng dạy về lịch sử, thiết kế và sự biến đổi của những thứ dụng cụ này hơn, còn mở cửa tiệm bán chỉ là việc chẳng đặng đừng.

“Tôi giúp gì được hai vị?” ông ta hỏi.

“Chúng tôi đến vì vụ cây nạy bị mất cắp,” tôi bảo. “Hay là thanh xà beng, tùy theo cách gọi của ông.”

Ông ta gật đầu.

“Xà beng chứ,” ông ta nói. “Cây nạy nghe hơi thô thiển quá, tôi thấy vậy.”

“OK, bọn tôi đến vì thanh xà beng bị mất cắp,” tôi bảo.

Ông ta cười vắn. “Cậu bên quân đội mà. Bộ chính phủ tuyên bố thiết quân luật rồi à?”

“Chúng tôi có việc liên quan cần điều tra,” Summer bảo.

“Cô cậu là Quân cảnh phải không?”

“Phải ạ,” Summer nói. Rồi cô trình bày tên họ và cấp bậc của chúng tôi. Ông ta đáp lại bằng tên mình, và nó trùng với cái tên vẽ trên bảng hiệu kia.

“Chúng tôi muốn tìm hiểu một chút,” tôi nói. “Về thị trường xà beng.”

Mặt ông ta hiện lên vẻ quan tâm, nhưng không mấy hứng thú. Hệt như khi anh hỏi một chuyên viên khám nghiệm về cách lấy dấu vân tay thay vì kiến thức ADN vậy. Tôi cảm giác rằng đã từ lâu rồi thị trường xà beng chẳng phát triển được bao nhiêu.

“Nên bắt đầu từ đâu nhỉ?” ông ta hỏi.

“Có bao nhiêu loại chẳng hạn?”

“Hàng tá ấy,” ông ta đáp. “Tôi làm ăn với ít nhất sáu đối tác sản xuất. Ngoài họ ra tôi còn từ chối cả đống nơi khác.”

Tôi nhìn quanh cửa tiệm. “Vì ông chỉ bán loại hàng chất lượng cao mà thôi.”

“Chính phải,” ông ta bảo. “Nếu chỉ về giá thì tôi cũng chẳng cạnh tranh nổi với các chuỗi lớn. Nên tôi bắt buộc phải bán những mặt hàng chất lượng tốt với dịch vụ hạng nhất.”

“Nhắm vào thị trường ngách,” tôi bảo.

Ông ta gật đầu lần nữa.

“Xà beng chất lượng thấp thường là đồ Tàu,” ông ta nói. “Toàn là gang, thép rèn và sắt rởm, và được sản xuất hàng loạt. Tôi chẳng màng tới thứ ấy.”

“Vậy ông hay lựa loại nào?”

“Tôi nhập nhiều xà beng titanium từ châu Âu,” ông ta bảo. “Rất đắt, đồng thời rất bền. Và quan trọng nhất là vô cùng nhẹ. Chúng thường được trang bị cho cảnh sát và lính cứu hỏa. Hoặc dùng dưới nước, mà không sợ bị gỉ sét. Hoặc bất cứ ai cần thanh xà beng nào vừa nhỏ vừa nhẹ đặng dễ đem theo bên mình.”

“Nhưng thanh bị mất cắp đâu phải loại đó.”

Ông già lắc đầu. “Không, xà beng titanium là hàng dành cho dân nhà nghề thôi. Thứ tôi thường bán thì phổ thông hơn chút.”

“Vậy chúng là gì?”

“Đây là một cửa tiệm nhỏ,” ông ta bảo. “Tôi phải cân nhắc mặt hàng bán ra rất kỹ lưỡng. Điều đó vừa gây áp lực cho tôi, vừa khiến tôi thích thú vô cùng, vì quyền được lựa chọn chính là sự tự do. Chỉ mình tôi, và riêng tôi, được quyền quyết định chúng. Vậy nên rõ ràng là, với một thanh xà beng, tôi phải chọn loại thép crôm có hàm lượng các bon cao. Rồi đến câu hỏi tiếp theo, là nên chọn loại được tôi một lần, hay tôi hai lần? Thú thật thì tôi luôn chọn loại tôi hai lần, vì chúng cứng cáp hơn. Và tôi thích loại xà beng có móng mỏng, vì tiện dụng, và nhất thiết phải được tôi cứng, vì an toàn. Có ngày chúng sẽ cứu mạng anh đó, trong một số tình huống nhất định. Chẳng hạn như khi đang ở trên xà nhà cao tít kia, móng xà beng mà bị gãy. Anh ngã là cái chắc.”

“Chắc là vậy,” tôi nói. “Rồi, tổng kết lại là thép tốt này, được tôi hai lần này, và có móng cứng. Cuối cùng ông chọn loại nào vậy?”

“Thật ra thì, có lúc tôi phải xuề xòa chút với hàng hóa của mình. Đối tác tôi ưa nhất toàn sản xuất xà beng dài từ mười tám inch trở lên. Mà tôi lại chỉ cần loại chừng mười hai inch mà thôi, hiển nhiên.”

Mặt tôi lúc đó chắc nhìn ngây đơ lắm.

“Để tiện xử lý khung tường hay rầm nhà chứ,” ông già giải thích. “Nếu cậu xử lý trong một khu vực chừng mười sáu inch, thì làm sao sử dụng thanh xà beng dài mười tám inch được, phải không?”

“Chắc là không,” tôi đáp.

“Vậy nên tôi lấy loại xà beng dài mười hai inch, dày chừng nửa inch từ đối tác khác, dù chúng chỉ được tôi một lần. Thật ra tôi thấy chúng cũng đủ đáp ứng, về độ cứng cáp. Với chỉ mười hai inch tác dụng, lực của một người tạo ra sẽ chẳng thể làm nó gãy được.”

“OK,” tôi nói.

“Ngoài thứ vừa kể và loại hàng titanium dành cho chuyên gia kia, tôi luôn đặt hàng từ một xưởng lâu đời ở thành phố Pittsburgh tên là Fortis. Họ thường làm hai mẫu cho tôi. Một mẫu mười tám inch, và một mẫu ba feet. Cả hai đều dày ba phần tư inch. Đều dùng loại thép crôm các bon cao được tôi hai lần, móng được tôi cứng, và được phủ lớp sơn mịn cao cấp.”

“Và chính thanh ba feet kia là thứ bị mất cắp,” tôi nói.

Ông ta trố mắt nhìn như thể tôi là một nhà ngoại cảm vậy.

“Thanh tra Clark cho chúng tôi xem vật mẫu anh ta mượn từ ông mà,” tôi nói.

“Ra vậy,” ông ta đáp.

“Rồi, vậy thanh xà beng dài ba mươi sáu inch, dày ba phần tư inch của xưởng Fortis đó là hàng hiếm?”

Ông ta làm mặt như thể hơi thất vọng vậy.

“Một năm tôi chỉ bán được một thanh như vậy,” ông ta nói. “Nếu may thì bán được hai. Chúng đắt lắm. Bây giờ còn ai màng đến chất lượng nữa. Có mất công trình bày cũng đâu ai thèm nghe.”

“Ở đâu cũng vậy à?”

“Ở đâu là sao?” ông ta lặp lại.

“Ý là những tiệm khác đó. Trong vùng này ạ. Với thanh xà beng Fortis ấy.”

“Tôi xin lỗi,” ông ta nói. “Chắc do tôi nói không rõ nghĩa. Chúng được sản xuất riêng cho tiệm tôi. Theo đúng thiết kế của tôi. Chuẩn từng li theo chi tiết tôi yêu cầu. Chúng là hàng đặt làm riêng mà.”

Tôi trố mắt nhìn ông ta. “Chúng được làm riêng cho tiệm này sao?”

Ông ta gật đầu. “Lợi ích của hộ kinh doanh cá nhân đó.”

“Đúng nghĩa độc quyền sao?”

Ông ta gật đầu lần nữa. “Độc nhất vô nhị.”

“Ông bán được một thanh như vậy gần đây nhất là bao lâu?”

“Chừng chín tháng trước.”

“Lớp sơn có tróc không?”

“Tôi hiểu ý cậu muốn hỏi,” ông ta nói. “Và câu trả lời đương nhiên là có. Nếu tìm được một thanh như vậy mà mới toanh, thì chỉ có thể là thanh bị mất cắp vào đêm Giao thừa mà thôi.”

Chúng tôi mượn một thanh mẫu giống hệt để đem về so sánh, như thanh tra Clark đã làm trước đó. Thanh xà beng được bôi dầu máy và được quấn một lớp giấy quanh thân giữa. Chúng tôi kính cẩn đặt nó lên băng ghế sau của chiếc Chevy hệt như một chiếc cúp. Rồi chúng tôi dùng bữa trong xe. Hai cái bánh mì kẹp thịt, mua từ một tiệm ăn nhanh cách cửa hàng dụng cụ một trăm yard về hướng Bắc.

“Dợt lại tôi nghe ba đầu mối mới nào,” tôi nói.

“Thứ nhất, bà Kramer và Carbone bị giết bằng cùng một thứ hung khí. Thứ nhì, nếu gắng công tìm mối liên kết giữa hai vụ đó ta sẽ bị tẩu hỏa nhập ma.”

“Và thứ ba?”

“Tôi chịu thua sếp.”

“Thứ ba, là hung thủ rất rành khu Sperryville này. Làm sao cô tìm nổi cửa tiệm đó vào lúc tối trời, khi đang vội vàng chứ, trừ phi mình rất thông thuộc nơi đây?”

Chúng tôi nhìn về phía trước qua lớp kính chắn gió của xe. Từ xa chỉ có thể thoáng thấy ngõ hẻm đó. Nhưng đó là do chúng tôi đã biết trước vị trí của nó rồi. Và trời đang sáng nữa.

Summer nhắm mắt lại.

“Tập trung vào hung khí xem nào,” cô nói. “Mặc kệ những thứ khác. Hình dung ra nó đi. Thanh xà beng được đặt sản xuất riêng. Độc nhất vô nhị. Nó được đem ra từ chính cửa tiệm kia. Rồi nó đến Green Valley vào lúc hai giờ sáng mồng một tháng Giêng. Rồi nó xuất hiện tại trại Bird vào chín giờ tối mồng bốn. Nó đã có một hành trình ra trò. Ta biết điểm xuất phát, cũng như điểm đến của nó. Ta không rõ nó đã đi đâu, nhưng chắc chắn nó đã ghé ngang qua một điểm nhất định trên đường đi. Nó phải đi qua cổng chính trại Bird. Ta không biết vào lúc nào, nhưng nó chắc chắn đã đi qua cổng chính.”

Cô mở mắt.

“Ta phải quay về thôi sếp,” cô bảo. “Ta phải xem lại nhật ký xuất nhập trại. Thời điểm sớm nhất mà thanh xà beng kia đi qua cổng chính là sáu giờ sáng mồng một tháng Giêng, bởi vì trại Bird cách Green Valley bốn giờ đồng hồ đi xe. Muộn nhất là, khoảng, tám giờ tối mồng bốn tháng Giêng. Một khung thời gian tám mươi sáu giờ đồng hồ. Ta cần kiểm tra tất cả những ai đã nhập trại trong khung giờ đó. Bởi vì ta biết chắc thanh xà beng đã qua cổng, và ta biết chắc rằng nó không mọc chân tự bước vào trại được.”

Tôi không đáp.

“Xin lỗi sếp,” cô nói. “Ta sẽ phải điểm qua nhiều cái tên lắm đó.”

Cái cảm giác lêu lổng kia biến mất hoàn toàn. Chúng tôi lại lên đường nhắm về hướng Đông, tìm cao tốc I-95. Chúng tôi tìm thấy nó rồi rẽ về hướng Nam, trại Bird thẳng tiến. Trở về với thằng cha Willard léo nhéo trên điện thoại. Trở về với đội Delta đang sùng sục cơn giận. Xe chúng tôi lướt dưới bụng bóng mây xám ngoét trước khi tới vạch biên giới bang Bắc Carolina. Trời trở tối. Summer bật đèn pha. Chúng tôi đi ngang qua tòa nhà Sở Cảnh sát bang nằm phía bên kia đường. Đi ngang qua nơi tìm thấy chiếc cặp táp của Kramer. Đi ngang qua trạm dừng chân một dặm sau. Chúng tôi nhập vào đường nhánh của cao tốc Đông Tây rồi trở ra đoạn giao lộ hình hoa thị bên cạnh quán trọ mà Kramer bị giết. Nó trôi về phía sau khi xe chúng tôi lao trên chặng đường ba mươi dặm còn lại tới cổng chính trại Bird. Toán Quân cảnh trong bốt canh ký nhận giờ chúng tôi nhập trại là 1930 đúng. Tôi dặn họ sao chép toàn bộ nhật ký bắt đầu từ 0600 sáng mồng một tháng Giêng tới 2000 tối mồng bốn tháng Giêng. Tôi yêu cầu họ chuyển một bản sao khung thời gian tám mươi sáu giờ đồng hồ đó đến văn phòng tôi ngay lập tức.

Văn phòng tôi im ắng lắm. Sự hỗn loạn ban sáng đã biến mất hoàn toàn. Cô trung sĩ có đứa con trai kia đã đến trực. Trông cô có vẻ mệt mỏi. Tôi đoán cô không được ngủ đầy đủ. Cô trực thâu đêm rồi chắc còn phải chơi với đứa con suốt ngày. Khổ nhọc thật. Cô đang pha cà phê. Tôi đoán cô đang thèm một tách y như tôi vậy. Có khi còn hơn tôi ấy chứ.

“Phía Delta đang loạn cả lên đó sếp,” cô nói. “Họ biết sếp bắt người Bulgaria kia rồi.”

“Tôi có bắt anh ta đâu. Chỉ hỏi anh ta vài câu thôi mà.”

“Họ thèm biết sự khác biệt ấy làm gì đâu. Cứ lâu lâu họ lại tới tìm sếp đó.”

“Họ có mang theo vũ khí không?”

“Bọn họ cần gì vũ khí. Nhất là với bên đó. Sếp nên cấm họ rời khỏi khu trại của mình. Sếp có quyền đó mà. Dù sao sếp cũng đang là quyền sĩ quan chỉ huy Quân cảnh ở đây mà.”

Tôi lắc đầu. “Còn gì nữa không?”

“Sếp cần phải gọi cho đại tá Willard trước nửa đêm, bằng không ông ta sẽ buộc tội sếp vắng mặt không phép. Ông ta quả quyết lắm đó.”

Tôi gật đầu. Đó đương nhiên là nước cờ tiếp theo của Willard. Tội vắng mặt không phép chẳng ảnh hưởng gì nặng với một sĩ quan chỉ huy. Nó chẳng nói rằng anh ta không còn khả năng làm việc. Tội vắng mặt không phép chỉ gán lên một kẻ bỏ trốn, đơn giản là vậy thôi.

“Còn gì nữa không?” tôi hỏi lần nữa.

“Sanchez nhắn lệnh 10-16,” cô bảo. “Tại trại Jackson. Và anh trai sếp có gọi tới.”

“Có nhắn gì không?” tôi hỏi.

“Không ạ.”

“OK,” tôi bảo.

Tôi trở vào bàn làm việc. Nhấc điện thoại bàn lên. Summer bước tới bên tấm bản đồ. Cô lần ngón tay trên các cây đinh ghim, từ Thủ đô đến Sperryville, Sperryville đến Green Valley, Green Valley tới trại Bird. Tôi gọi Joe. Anh bốc máy sau hồi chuông thứ hai.

“Anh có gọi cho mẹ,” anh nói. “Bà vẫn đang gượng.”

“Mẹ nói là sớm, anh Joe ạ. Thế không có nghĩa là ta phải gọi kiểm tra hằng ngày như cầu kinh vậy đâu.”

“Sợ là sẽ sớm hơn ta nghĩ. Và sớm hơn ta muốn.”

“Mẹ thế nào rồi?”

“Nghe giọng run lắm.”

“Anh ổn chứ?”

“Cũng không tệ,” anh nói. “Chú thì sao?”

“Đầu năm nay không suôn sẻ lắm.”

“Đến lượt chú gọi cho mẹ đấy,” anh bảo.

“Để em gọi,” tôi nói. “Đợi thêm vài ngày đã.”

“Mai gọi luôn đi,” anh nói.

Anh dập máy và tôi ngồi yên trong vài phút. Rồi tôi nhấc điện thoại gọi nhờ cô trung sĩ của tôi nối máy với Sanchez. Ở trại Jackson. Tôi áp ống nghe vào tai và đợi. Summer cứ nhìn tôi suốt nãy giờ.

“Như cầu kinh ư?” cô hỏi.

“Mẹ tôi đang đợi tháo bột,” tôi nói. “Mẹ tôi ghét nó lắm.” Summer nhìn tôi thêm một chút nữa rồi trở lại với tấm bản đồ. Tôi bật loa ngoài điện thoại rồi đặt ống nghe lên mặt bàn. Đầu bên kia vang lên tiếng tách rồi chúng tôi nghe giọng Sanchez đáp máy.

“Tôi hành bên dân sự Columbia lên bờ xuống ruộng để tìm xe của Brubaker đấy,” anh ta bảo.

“Họ vẫn chưa tìm thấy nó à?” tôi hỏi.

“Chưa,” anh ta đáp. “Mà tìm cũng chẳng có tâm chút nào. Tôi thấy thế thì ngứa mắt lắm. Nên sáng giờ cứ quấy không cho bọn họ ngồi yên.”

“Và rồi sao?”

“Tới lúc đó họ mới chịu khai.”

“Khai gì cơ?”

“Rằng Brubaker không bị giết ở thành phố Columbia,” anh nói. “Ông ta chỉ bị vứt lại ở đó thôi.”