← Quay lại trang sách

MƯỜI BẢY

Sanchez kể rằng đội khám nghiệm thành phố Columbia tìm thấy nhiều vết máu tụ lẫn lộn trên tử thi Brubaker mà từ đó họ cho rằng gã đã chết ba tiếng trước khi bị quẳng vào con hẻm này. Khi người ta chết rồi máu sẽ tụ lại. Tim ngừng đập, không còn huyết áp, máu lỏng sẽ bị đọng lại tại những phần trũng nhất trong cơ thể người đơn giản do trọng lực. Máu sẽ tụ lại và qua một thời gian vùng da đó chuyển sang màu tím lá gan. Sau ba đến sáu giờ đồng hồ sau da sẽ giữ vĩnh viễn màu tím đó, hệt như cách người ta rửa ảnh chụp vậy. Một người chết ngã dập lưng xuống đất sẽ có vùng da ngực xanh xao trong khi lưng tím bầm. Nếu chết ngã dập ngực xuống đất thì ngược lại. Nhưng vết máu tụ của Brubaker thì nằm loạn xạ khắp trên người gã. Đội khám nghiệm ở Columbia đoán rằng gã đã bị giết, rồi được đặt nằm ngửa chừng ba tiếng đồng hồ, sau đó bị quẳng nằm sấp mặt trong con hẻm. Họ quả quyết về khung thời gian ba tiếng đồng hồ đó, bởi vì ba tiếng là vừa lúc da người giữ màu tím bầm đó. Họ bảo rằng gã có vài vệt máu tụ sớm trên lưng và nhiều vệt rõ rệt ở trước ngực. Họ cũng nói rằng giữa lưng gã hằn lên một lằn to và vùng da thịt nơi ấy đã bị nướng một phần.

“Ông ta bị ném vào trong cốp xe,” tôi bảo.

“Nằm ngay trên ống bô xe,” Sanchez nói. “Chuyến đi dài ba tiếng đồng hồ, hấp thụ biết bao nhiêu là nhiệt.”

“Kiểu này thì vứt đống giả thuyết ban đầu vào sọt hết.”

“Vậy nên họ đâu có tìm thấy chiếc xe Chevy của ông ta ở Columbia.”

“Cả nhân chứng,” tôi nói. “Cả vỏ đạn và đầu đạn.”

“Thế ta phải suy xét điểm nào đây?”

“Ba tiếng trong xe này?” tôi nói. “Thời điểm ban đêm, lúc đường vắng nữa? Tìm bất cứ thứ gì trong bán kính hai trăm dặm.”

“Khu vực lớn đấy,” Sanchez bảo.

“Một trăm hai mươi lăm ngàn dặm vuông,” tôi bảo. “Chừng đó. Pinhân bình phương bán kính. Sở Cảnh sát Columbia tính làm gì?”

“Gạt qua một bên như phải bỏng chứ làm gì. Giờ thành vụ của FBI rồi.”

“Bên đó có nói gì về đống ma túy không?”

“Họ hơi nghi ngờ. Họ nghĩ lính chúng ta không ưa heroin. Họ nghĩ ta thích hút cần sa hoặc đập đá hơn.”

“Thế cũng mừng,” tôi nói. “Tôi đang mong được chơi cả hai thứ ấy ngay bây giờ đây.”

“Nhưng đồng thời họ cũng biết mấy tay Delta đi khắp nơi. Ở Pakistan hay Nam Mỹ. Toàn những nơi sinh ra heroin. Nên họ sẽ bảo lưu chi tiết này, phòng khi đụng phải ngõ cụt, hệt như đám cảnh sát Columbia thôi.”

“Bọn họ đang lãng phí thời gian. Heroin á? Người như Brubaker thà chết còn hơn xài thứ đó.”

“Xét kết cục của ông ta thì họ cũng đoán thế đấy.”

Đường dây bên anh ta ngắt. Tôi tắt loa ngoài rồi đặt ống nghe về chỗ cũ.

“Có lẽ vụ án xảy ra tại hướng Bắc,” Summer nói. “Brubaker khởi hành từ Raleigh. Ta nên tìm xe của ông ta loanh quanh đó.”

“Ta không xử lý vụ án này nữa,” tôi nói.

“OK, vậy thì phía FBI nên làm vậy.”

“Tôi nghĩ họ đang tìm rồi.”

Có tiếng gõ cửa. Cửa mở ra và một viên hạ sĩ Quân cảnh bước vào với một xấp giấy trong tay. Anh ta giơ tay chào rất chuẩn rồi bước tới một bước và đặt đống giấy kia lên bàn tôi. Rồi thu lại bước chân và giơ tay chào lần nữa.

“Báo cáo, bản sao nhật ký xuất nhập trại đây ạ,” anh ta nói. “Từ mồng một đến mồng bốn tháng này, theo khung thời gian sếp đã yêu cầu.”

Anh ta xoay người rồi bước ra khỏi phòng. Cánh cửa đóng lại. Tôi nhìn xấp giấy. Có khoảng bảy tờ tất cả. Không đến nỗi nào.

“Bắt tay vào việc thôi,” tôi nói.

Chiến dịch Chính nghĩa lại một lần nữa hữu ích với chúng tôi. Lệnh nâng cao tình trạng Báo động Quốc phòng khiến nhiều đơn nghỉ phép bị từ chối. Cũng chẳng vì lý do gì cụ thể, bởi vụ Panama kia cũng không nghiêm trọng lắm, chỉ là quân đội vẫn thường như vậy mà thôi. Có quyền nâng rồi hạ mức Báo động Quốc phòng mà không làm thì phí, đã nâng lên hạ xuống rồi mà không kèm theo hậu quả nào thì cũng phí. Dàn dựng chút kịch tính với ngoại bang mà không cho đám lính hưởng chút cảm giác ly kỳ xa xôi gián tiếp thì cũng phí.

Từ chối đơn nghỉ phép rồi mà không giao việc cho người ta làm bù thời gian thì cũng phí. Vậy nên trong thời khóa biểu bỗng dôi thêm giờ tập luyện và nhiều buổi thao duyệt mỗi ngày. Phần lớn những buổi tập đó đều nặng và thường bắt đầu vào rất sớm. Vậy nên chúng tôi lại được tặng thêm một phần quà to đùng, đó là những quân nhân rời trại đi liên hoan Giao thừa đều trở về khá sớm. Có lẽ bọn họ rải rác trở về vào chừng ba, bốn hay năm giờ sáng gì đó, bởi vì từ sau sáu giờ chẳng có mấy hoạt động ghi lại trong này.

Những quân nhân về trại trong vòng mười tám giờ đồng hồ vào ngày mồng một tháng Giêng có cả thảy mười chín người. Summer và tôi là hai người trong số đó, trở về từ Green Valley và Thủ đô và sau chuyến thăm bà vợ góa và chuyến đi đến Viện Walter Reed. Chúng tôi gạch tên mình ra khỏi danh sách.

Những quân nhân về trại ngoài chúng tôi ra trong ngày mồng hai tháng Giêng có cả thảy mười sáu người. Mồng ba tháng Giêng, mười hai người. Trước tám giờ tối mồng bốn tháng Giêng, mười bảy người. Tổng cộng sáu mươi hai cái tên, trong vòng tám mươi sáu giờ đồng hồ đó. Chín cái tên trong số đấy là dân thường lái xe chở đồ ăn. Chúng tôi gạch tên họ ra. Mười một cái tên xuất hiện liên tục. Họ hết vào, rồi lại ra, rồi vào trở lại. Cứ như dân thường đi làm hằng ngày vậy. Cô trung sĩ trực đêm của tôi cũng có tên trong số đó. Chúng tôi loại cô ra, đơn giản vì cô là phụ nữ. Và thấp người nữa. Từ đó chúng tôi cũng gạch bỏ những cái tên tương tự tiếp theo.

Cuối cùng chúng tôi thu hoạch được bốn mươi mốt người, liệt kê theo họ, cấp bậc, tên viết tắt. Chẳng tài nào phân biệt được tên nam với tên nữ trong số này. Chẳng biết được nam quân nhân nào cao lớn hay vạm vỡ hay thuận tay phải cả.

“Để tôi đi lọc tên nam tên nữ cho,” Summer bảo. “Tôi vẫn có bản danh sách quân nhân đây. Đầy đủ tên họ luôn.”

Tôi gật đầu. Để cô lo vụ đó. Rồi tôi bốc điện thoại gọi tay khám nghiệm đến nhà xác gặp tôi, ngay lập tức.

Tôi lái chiếc Chevy từ văn phòng mình sang văn phòng anh ta, vì không muốn cầm thanh xà beng kia đi lại giữa thanh thiên bạch nhật. Tôi dừng xe trước cửa nhà xác và đợi. Chừng năm phút sau, chuyên viên khám nghiệm xuất hiện bên trong, đi bộ từ hướng phòng ăn dành cho sĩ quan. Có vẻ như tôi vừa phá ngang món tráng miệng của anh ta. Hoặc có khi là cả món chính. Tôi ra ngoài chào rồi cúi vào xe lấy thanh xà beng từ băng ghế sau. Anh ta liếc nhìn nó. Rồi dẫn tôi vào trong. Có vẻ như anh ta hiểu tôi muốn làm gì. Anh ta mở khóa văn phòng, bật đèn rồi mở khóa tủ. Lôi thanh xà beng hung thủ đã dùng để đánh chết Carbone ra. Để nó lên bàn. Tôi đặt thanh xà beng mượn của mình bên cạnh nó. Tháo lớp giấy bọc ra. Tôi đặt hai thanh song song thẳng hàng. Chúng giống nhau y đúc.

“Xà beng có nhiều loại không?” chuyên viên khám nghiệm hỏi.

“Nhiều hơn anh tưởng đấy,” tôi đáp. “Tôi vừa được học một khóa cấp tốc về chúng.”

“Hai thanh này nhìn y hệt nhau.”

“Y hệt mà. Như hai giọt nước. Chắc chắn. Đây là hàng đặt riêng. Độc nhất vô nhị.”

“Anh đã gặp Carbone bao giờ chưa?”

“Gặp vắn thôi,” tôi nói.

“Vóc dáng anh ta thế nào?”

“Ý anh là sao?”

“Anh ta có bị gù không?”

Tôi nhớ lại bên trong quán bar mập mờ kia. Tới bãi đỗ xe dưới ánh đèn pha. Rồi lắc đầu.

“Anh ta không đủ cao để bị gù,” tôi bảo. “Tướng anh ta lanh lẹ, rắn chắc, hiên ngang lắm. Có vẻ nhanh nhẹn. Có tướng thể thao.”

“OK.”

“Sao vậy?”

“Vì đòn đánh đi từ trên xuống. Không phải chặt thẳng xuống, mà là một cú phạt ngang hướng xuống khi găm vào đích. Có thể chỉ dịch xuống một chút. Carbone cao một mét bảy tám. Vết thương cách mặt đất chừng một mét sáu lăm, giả sử như anh ta lúc đó không cúi đầu. Nhưng rõ ràng là cú đánh đi từ trên xuống. Chứng tỏ hung thủ cao lớn.”

“Anh nói điều này với chúng tôi rồi mà,” tôi bảo.

“Không, tôi muốn nhấn mạnh chữ cao lớn,” anh ta nói. “Tôi suy nghĩ mãi. Tính toán cẩn thận. Thằng cha hung thủ phải cao ít nhất một mét chín ba hay chín lăm gì đấy.”

“Cao cỡ tôi,” tôi bảo.

“Nặng cũng cỡ anh luôn. Phải thế mới có sức đánh móp sọ người ta như vậy.”

Tôi hình dung lại hiện trường vụ án. Nơi ấy rải rác những gò đất đầy cỏ úa và những cành cây to bằng cổ tay, nhưng nhìn chung vẫn là một vùng đất khá phẳng. Chẳng cách nào một người đứng trên cao người kia đứng dưới thấp. Chẳng cách nào giả định được sự khác biệt độ cao hai bên trong khi thực tế là không hề có.

“Cao từ mét chín ba tới chín lăm,” tôi nói. “Anh sẵn sàng xác nhận chứ?”

“Trước tòa á?”

“Đây là một vụ tai nạn luyện tập,” tôi bảo. “Vụ này sẽ không ra đến tòa. Tôi hỏi riêng vậy giữa hai ta thôi. Theo anh thì tôi có đang phí thời gian không, khi đi điều tra những người thấp hơn một mét chín ba?”

Chuyên viên khám nghiệm hít vào một hơi, rồi thở ra.

“Một mét chín,” anh ta nói. “Du di một chút. Chừa chỗ cho sai sót. Tôi sẵn sàng xác nhận một mét chín trở lên. Quả quyết luôn.”

“OK,” tôi đáp.

Anh ta đuổi tôi ra ngoài, tắt đèn rồi khóa cửa.

Summer ngồi sau bàn làm việc của tôi đợi tôi trở về, không làm gì cả. Cô đã xong việc lọc giới tính của những cái tên trong danh sách. Cô không tốn quá nhiều thời gian. Bản danh sách quân nhân ghi lại mọi thông tin thật chính xác và rõ ràng theo thứ tự chữ cái, như phần lớn các văn bản trong quân đội.

“Ba mươi ba nam quân nhân,” cô bảo tôi. “Hai mươi ba trong số đó là lính, mười người còn lại là sĩ quan.”

“Họ là ai vậy?”

“Đủ thành phần hết. Đội Delta và Biệt động hoàn toàn không được nghỉ phép, nhưng được nghỉ buổi tối. Carbone có ra vào đêm mồng một, hiển nhiên.”

“Loại anh ta ra thôi.”

“OK, còn ba mươi hai nam,” cô bảo. “Chuyên viên khám nghiệm cũng trong số này.”

“Loại anh ta luôn.”

“Ba mươi mốt người vậy,” cô nói. “Và Vassell với Coomer cũng có mặt. Họ vào ra trong mồng một rồi lại vào ra lần nữa vào mồng bốn lúc bảy giờ.”

“Loại họ ra,” tôi bảo. “Lúc đó họ đang ăn tối. Món cá, với bít tết.”

“Còn hai mươi chín,” cô nói. “Hai mươi hai lính, bảy sĩ quan.”

“OK,” tôi bảo. “Giờ đến trụ sở chỉ huy trại tìm hồ sơ y tế của bọn họ đi.”

“Chi vậy sếp?”

“Xem chiều cao bọn họ ra sao.”

“Nhưng ta vẫn không biết được chiều cao của tay tài xế đã chở Vassell và Coomer tới đây trong ngày mồng một. Thiếu tá Marshall. Hắn là khách vãng lai. Làm sao xem được hồ sơ y tế của hắn.”

“Hắn không có ở đây vào đêm Carbone chết,” tôi nói. “Nên thôi loại luôn hắn đi.”

“Hai mươi tám.”

“Vậy đi tìm hai mươi tám hồ sơ đó đi,” tôi bảo.

Cô đưa tôi một mẩu giấy trắng. Tôi cầm nó lên. Trên đó có dòng số 973 mà chính tôi đã ghi. Tổng số nghi phạm ban đầu của chúng tôi.

“Tiến triển tốt đấy chứ sếp,” cô nói.

Tôi gật đầu. Cô mỉm cười rồi đứng dậy. Bước ra khỏi phòng. Tôi ngồi vào sau bàn làm việc. Chiếc ghế còn hơi ấm của cô. Tôi ngồi một lúc tận hưởng cảm giác ấy, cho đến khi nó biên mất. Rồi tôi bốc điện thoại lên. Nhờ cô trung sĩ nối máy với viên sĩ quan hậu cần. Cô mất một thời gian mới gặp được anh ta. Tôi đoán cô phải lôi anh ta ra khỏi phòng ăn. Hình như tôi lại vừa phá bữa tối của anh ta, cũng như chuyên viên khám nghiệm kia. Nhưng kệ chứ, bản thân tôi đã được ăn uống gì đâu.

“Vâng thưa sếp?” anh ta chào. Nghe giọng có vẻ khó chịu.

“Tôi có câu hỏi này, anh hậu cần ạ,” tôi nói. “Mà chỉ mình anh biết câu trả lời thôi.”

“Ví dụ?”

“Chiều cao và cân nặng trung bình của một nam quân nhân Hoa Kỳ.”

Anh ta không nói gì, nhưng tôi cảm thấy sự khó chịu của anh ta đã biến mất. Ban Hậu cần thường đặt mua cả triệu bộ quân phục hằng năm, và mua bốt dã chiến với gấp đôi số lượng đó, bằng ngân sách quy định, nên chắc chắn họ biết rõ tới từng đường kim mũi chỉ, đến từng lạng thừa, từng cân thiếu. Họ làm sao không biết cho được. Và họ cũng rất ưa khoe khoang thứ kiến thức đặc thù này.

“Không vấn đề gì,” anh ta bảo. “Chiều cao trung bình của nam giới Hoa Kỳ đã trưởng thành từ hai mươi tới năm mươi tuổi là một mét bảy mươi sáu, và cân nặng trung bình là tám mươi. Số lượng nam giới gốc Mỹ Latin khá đông, kéo chiều cao trung bình của tổng số xuống một mét bảy tư. Ta tập luyện khá nặng, nên trọng lượng trung bình kéo lên thành tám hai cân, do cơ bắp nặng hơn mỡ.”

“Đó là thông số năm nay sao?”

“Năm ngoái,” anh ta bảo. “Năm nay mới qua được dăm ngày thôi mà.”

“Chiều cao có dao động nhiều không?”

“Sếp đang ướm khoảng nào?”

“Ta có bao nhiêu người cao từ một mét chín trở lên?”

“Cứ mười người lại có một,” anh ta bảo. “Nhìn tổng thể toàn quân, thì chừng chín mươi ngàn người. Đông như đám khán giả xem cúp Super Bowl vậy. Với một doanh trại cỡ của ta, thì có chừng một trăm hai mươi người. Bằng một nửa số ghế trên máy bay.”

“OK, anh hậu cần,” tôi nói. “Cảm ơn anh.”

Tôi dập máy. Cứ mười người lại có một. Summer sẽ trở lại với hai mươi tám tập hồ sơ y tế. Chín trên mười người trong đó sẽ thấp hơn chiều cao ước lượng của hung thủ. Vậy trong hai mươi tám tập hồ sơ ấy, chỉ có hai tập cần lưu tâm đến mà thôi. Ba tập, nếu chúng tôi thiếu may mắn. Từ chín trăm bảy ba nghi phạm, rút xuống còn từ hai, đến ba người. Tiến triển tốt. Tôi nhìn đồng hồ. Tám giờ rưỡi. Tôi mỉm cười. Đời lắm cái bất ngờ Willard nhỉ, tôi nghĩ thầm.

Đời đúng là lắm cái bất ngờ thật, nhưng là bất ngờ cho chúng tôi, chứ không phải lão Willard. Các trò tính toán trung bình trung biếc này chơi lại chúng tôi một vố khi Summer trở về với hai mươi tám tập hồ sơ y tế và toàn bộ hai mươi tám nam quân nhân đó đều lùn cả. Người cao nhất chừng một mét tám lăm, gầy như que củi vì nặng có bảy mươi hai cân rưỡi, và là một cha tuyên úy.

Hồi tôi còn bé gia đình chúng tôi dành một tháng ở trong căn nhà một tầng đâu đó bên ngoài doanh trại. Nhà đó không có bàn ăn. Mẹ tôi phải gọi người đem tới một cái. Nó được chuyển đến trong thùng các tông. Tôi giúp mẹ lắp nó. Các món đều đầy đủ. Nào là mặt bàn ép ván, bốn chân bàn bằng inox, và bốn ốc vít to bằng thép. Chúng tôi bày chúng ra giữa phòng ăn. Mặt bàn, bốn cái chân, bốn ốc vít. Nhưng chẳng có cách nào ráp chúng lại cả. Không cách nào làm được. Nó được thiết kế theo kiểu khó hiểu vô cùng. Chẳng thứ nào ăn rơ với thứ nào cả. Chúng tôi quỳ xuống bên cạnh nhau cùng cố gắng lắp nó. Chúng tôi ngồi khoanh chân trên sàn, bên cạnh những cụm bụi và gián. Thanh inox trơn tru kia lạnh ngắt trong tay tôi. Các mép bàn xù xì, nơi lớp ép được gọt ở các góc. Chúng tôi không tài nào ráp chúng lại được. Joe bước vào, thử, và thất bại. Bố tôi thử, và cũng thất bại. Chúng tôi dùng bữa trong bếp cả tháng trời. Ngay cả khi dọn đồ chuyển đi nơi khác chúng tôi vẫn còn thử ráp lại cái bàn đó. Cảm giác bây giờ của tôi y hệt như cuộc vật lộn ngày xưa đó. Chẳng cái nào ăn nhập với cái nào cả. Mọi thứ ban đầu trông suôn sẻ lắm, rồi tự dưng chúng hẫng lại, và tắt ngúm trong vô vọng.

“Thanh xà beng không tự mọc chân đi vào trại được,” Summer nói. “Một trong hai mươi tám người đó đã đem nó vào. Nhất định là vậy. Chứ làm sao nó tới đây được nữa.”

Tôi không đáp.

“Sếp muốn ăn tối không?” cô hỏi.

“Đầu tôi nhạy hơn khi đói,” tôi đáp.

“Còn thứ gì để nghĩ nữa đâu sếp.”

Tôi gật đầu. Rồi sắp xếp hai mươi tám tập hồ sơ đó lại cho ngăn nắp. Đặt danh sách ban đầu có ba mươi ba cái tên của Summer lên trên. Ba mươi ba người, loại Carbone ra, vì làm gì có chuyện anh ta tự đem thanh xà beng đó vào trại rồi lấy nó đập vào đầu tự tử. Loại chuyên viên khám nghiệm ra, vì anh ta không đáng ngờ, vì anh ta thấp người, và vì cú vung thanh xà beng thử của anh ta yếu xìu. Loại Vassell và Coomer và tay tài xế của họ, Marshall, vì chứng cứ ngoại phạm của họ quá chặt chẽ. Lúc đó Vassell và Coomer đang ăn đến ngập mặt, còn Marshall thì hoàn toàn không có ở đây.

“Tại sao lúc đó Marshall không có mặt ở đây?” tôi hỏi.

Summer gật đầu. “Tôi cũng thắc mắc suốt. Cứ như Vassell và Coomer muốn giấu hắn điều gì đó vậy.”

“Họ chỉ ăn tối thôi mà.”

“Nhưng chắc chắn Marshall đã ở bên cạnh bọn họ tại đám tang của Kramer. Vậy nên họ đã yêu cầu không chở họ tới đây. Như muốn đuổi khéo về nhà vậy.”

Tôi gật đầu. Rồi tưởng tượng ra một dãy xe sedan màu đen của chính phủ nối đuôi nhau tiến vào Nghĩa trang Quốc gia Arlington, dưới bầu trời xám xịt của tháng Giêng. Tưởng tượng lễ truy điệu, với quốc kỳ được gấp lại, với loạt súng tiễn biệt. Tưởng tượng hàng người đổ về những chiếc xe, những người đàn ông đầu trần giấu cằm trong cổ áo khoác vì gió lạnh, có khi trời còn đổ tuyết. Tôi tưởng tượng tay Marshall kia đang mở sẵn cửa sau của chiếc Mercury, đợi Vassell vào trước, rồi tới lượt Coomer. Hẳn hắn đã chở bọn họ về bãi xe Lầu Năm Góc rồi ra khỏi xe và nhìn lão Coomer trườn lên ghế tài xế.

“Ta nên nói chuyện với hắn,” tôi bảo. “Tìm hiểu chính xác xem bọn họ đã dặn hắn những gì. Họ cho hắn lý do nào. Chắc lúc đó hai bên lúng túng lắm. Một cậu trai cưng như hắn hẳn đã ít nhiều cảm thấy bị bỏ rơi.”

Tôi bốc máy nói chuyện với cô trung sĩ của tôi. Nhờ cô lấy số điện thoại của thiếu tá Marshall. Nhắn cô rằng hắn là một sĩ quan thuộc Quân đoàn XII làm việc tại Lầu Năm Góc. Cô bảo sẽ nhắn lại cho tôi ngay. Summer và tôi cùng ngồi đợi trong im lặng. Tôi ngắm tấm bản đồ trên tường. Tôi đoán mình đã có thể tháo cây đinh ghim lên thành phố Columbia xuống được rồi. Có nó thì rối lắm. Brubaker đâu có bị giết ở đó. Gã bị giết ở đâu đấy khác. Đâu đó ở hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, có trời biết.

“Sếp có định gọi lão Willard không?” Summer hỏi tôi.

“Chắc có,” tôi đáp. “Chắc ngày mai tôi gọi.”

“Chứ không phải trước đêm nay sao?”

“Tôi không muốn lão được hả hê.”

“Sếp liều dữ.”

“Tôi được bảo kê mà,” tôi bảo.

“Có thể không được vậy hoài đâu.”

“Chẳng sao. Tôi đang lo đám Delta gí sát sau lưng đây. Những thứ còn lại chỉ là muỗi.”

“Sếp gọi lão Willard luôn đêm nay đi,” cô nói. “Tôi khuyên sếp thật tình đấy.”

Tôi nhìn cô.

“Với tư cách là một người bạn,” cô nói tiếp. “Tội vắng mặt không phép cũng không nhẹ đâu. Đừng nên làm chuyện rối thêm nữa.”

“OK,” tôi bảo.

“Sếp gọi luôn giờ đi,” cô giục. “Còn đợi gì nữa?”

“OK,” tôi nhắc lại. Tôi vừa với tay tới chiếc điện thoại thì cô trung sĩ kia đã ló đầu vào phòng. Cô bảo chúng tôi rằng thiếu tá Marshall không còn trên đất Hoa Kỳ nữa. Nhiệm vụ biệt phái tạm thời của hắn tại đây đã bị hủy trước thời hạn. Hắn đã lên đường trở về Đức. Hắn đã đáp chuyến bay từ Căn cứ Không quân Andrews vào sáng muộn mồng năm tháng Giêng rồi.

“Lệnh của ai vậy?” tôi hỏi cô.

“Của chuẩn tướng Vassell,” cô đáp.

“OK,” tôi bảo.

Cô đóng cửa phòng.

“Mồng năm tháng Giêng,” Summer nói.

“Ngay sáng hôm sau khi Carbone và Brubaker bị giết,” tôi bảo.

“Hắn biết được gì đó.”

“Hắn có ở đây lúc đó đâu.”

“Vậy sao bọn họ phải giấu hắn đi nơi khác ngay sau đấy?”

“Trùng hợp ngẫu nhiên thôi.”

“Sếp có thích việc trùng hợp nào đâu.”

Tôi gật đầu.

“OK,” tôi nói. “Đến Đức một chuyến thôi.”