MƯỜI TÁM
Còn khuya lão Willard mới duyệt chuyến công du nước ngoài của tôi, nên tôi tự đến văn phòng Chỉ huy trưởng lấy một xấp giấy đi đường trên bàn lễ tân. Tôi đem chúng về văn phòng rồi ký tên mình ở dòng Sĩ quan chỉ huy và trang trọng giả chữ ký của Leon Garber dưới dòng Người duyệt.
“Thế này là phạm pháp đó sếp,” Summer nói.
“Giống trận Kursk thôi,” tôi nói. “Phóng lao phải theo lao chứ.”
Cô ngập ngừng.
“Tùy cô mà,” tôi nói. “Theo hay không, tôi không ép.”
Cô không đáp.
“Xấp giấy đi đường này phải mất từ một đến hai tháng mới được gửi lại về đây,” tôi bảo. “Tới lúc đó, đằng nào lão Willard, hoặc ta, cũng ra khỏi đây rồi. Có gì để mất chứ.”
“OK,” cô đáp.
“Sửa soạn đi,” tôi bảo. “Ba ngày.”
Cô ra khỏi phòng rồi tôi hỏi cô trung sĩ xem ai là người tiếp quản vai trò quyền sĩ quan chỉ huy của tôi. Cô trở lại với một cái tên mà tôi nhận ra là thuộc về cô đại úy ngồi ăn trong phòng sĩ quan. Cái cô bị gãy tay ấy. Tôi liền viết lá thư nhắn mình sẽ rời trại trong vòng ba ngày gửi cô ta. Rồi dặn cô ta tiếp quản chu đáo. Xong xuôi tôi bốc máy điện thoại gọi Joe.
“Em đi Đức đây,” tôi bảo.
“OK,” anh nói. “Chú đi vui nhé. Thượng lộ bình an.”
“Em không thể bay từ Đức về mà không dừng lại ở Paris. Với tình hình hiện tại, anh biết đấy.”
Anh ngập ngừng.
“Ừ,” anh bảo. “Có vẻ thế.”
“Nếu không thì thật không phải,” tôi bảo. “Nhưng cũng không nên để mẹ nghĩ là em quan tâm đến mẹ nhiều hơn anh. Như thế cũng không phải. Nên anh đi cùng em đi.”
“Bao giờ cơ?”
“Hai ngày nữa anh bắt chuyến bay qua đêm đi. Em sẽ gặp anh ở sân bay Roissy - Charles de Gaulle. Rồi mình cùng đi thăm mẹ.”
Summer đón tôi bên vỉa hè ngoài phòng tôi, rồi cả hai cùng đem đồ đạc tới chiếc Chevy. Chúng tôi đều mặc đồ dã chiến vì muốn đáp chuyến bay chuyên chở ban đêm xuất phát từ Căn cứ Không quân Andrews. Đằng nào chúng tôi cũng chẳng kịp bắt một chuyến bay dân sự buổi tối, và càng không muốn phí một đêm chờ chuyến bay sáng. Chúng tôi lên xe rồi ký xuất trại. Summer cầm lái, đương nhiên rồi. Cô đạp ga hết tốc lực rồi nhanh chóng chuyển sang nhịp điệu êm ru mà vẫn nhanh hơn các xe khác chừng mười dặm một giờ.
Tôi ngả người xuống ghế nhìn ngắm hai bên đường. Tôi nhìn bên đường, rồi các siêu thị, rồi xe cộ xung quanh. Chúng tôi đi về hướng Bắc ba mươi dặm và ngang qua quán trọ của Kramer. Xe tiến vào giao lộ hình hoa thị rồi rẽ hướng Đông lên cao tốc I-95. Đi tiếp về hướng Bắc. Ngang qua trạm dừng chân. Qua nơi tìm thấy chiếc cặp táp. Tôi nhắm mắt lại.
Tôi ngủ suốt chặng đường tới Căn cứ Andrews. Chúng tôi đến nơi sau nửa đêm. Chúng tôi đỗ xe trong một bãi riêng rồi đổi hai tờ giấy đi đường lấy hai chỗ ngồi trên chiếc máy bay C-130 của Quân đoàn Vận tải sắp cất cánh đi Frankfurt lúc ba giờ sáng. Chúng tôi ngồi trong phòng chờ có gắn đèn huỳnh quang và bày ghế nhựa, đông nghẹt đám quân nhân lôi thôi trọ qua đêm. Đời quân đội là nay đây mai đó. Lúc nào cũng có người lên đường đi đâu đấy, bất kể đêm hay ngày. Không ai trò chuyện với ai. Chả để làm gì. Chúng tôi chỉ ngồi yên một chỗ, người cứng đờ, mệt mỏi và khó chịu.
Viên quản lý vận tải đến đón chúng tôi nửa tiếng trước giờ bay. Chúng tôi tới nhà chứa máy bay và bước lên thang vào bụng máy bay. Giữa buồng là một hàng dài những đống hàng hóa nẹp chặt trong khung gỗ. Chúng tôi ngồi trên hàng ghế xếp có dây đai, lưng tựa vào vách máy bay. Tôi thấy thích ngồi trên khoang hạng nhất của hãng Air France hơn. Hãng hàng không Quân đoàn Vận tải này chẳng có nữ tiếp viên, mà cũng chẳng có cà phê phục vụ chuyên bay.
Chúng tôi khởi hành khá muộn, nương theo gió về hướng Tây. Rồi chúng tôi chậm rãi đảo một vòng một trăm tám chục độ trên bầu trời Thủ đô, sau đó nhắm hướng Đông thẳng tiến. Trong buồng máy bay có thể cảm thấy rất rõ sự chuyển động ấy. Dù không có cửa sổ, nhưng tôi vẫn biết mình đang bay trên đầu thành phố. Còn anh Joe ở đâu dưới đó, đang say giấc nồng.
Máy bay càng lên cao thì vách thân máy bay sau lưng càng lạnh, nên chúng tôi ngồi ngả về phía trước, chống cùi chỏ lên đầu gối. Bên trong ồn quá không thể nói chuyện. Tôi cứ nhìn chằm chằm về khung gỗ nẹp hòm đạn xe tăng, cho đến khi mắt mờ dần, rồi thiếp đi mất. Dù không thoải mái chút nào, nhưng khi đi lính rồi anh sẽ học được cách ngủ trên mọi địa hình. Tôi giật mình tỉnh dậy cũng phải hơn mười lần, rồi cứ ngồi như hóa đá phần lớn chuyến bay. Tiếng gầm của động cơ và tiếng gió rít qua cánh máy bay giúp tôi dễ ngủ hơn tí chút.
Nhìn chung tương đối thư thái. So với được nằm trên giường thì cũng được cỡ sáu mươi phần trăm.
Chúng tôi bay trên bầu trời chừng tám tiếng đồng hồ, trước khi máy bay bắt đầu giảm độ cao. Không hề có thông báo. Chẳng có những câu đùa dí dỏm từ phi công. Chỉ là loạt tiếng động cơ thay đổi và cảm giác bị chúi xuống còn tai ù đặc. Mọi người quanh tôi đồng loạt đứng dậy vươn vai. Summer đang tựa vai vào một thùng đạn, cô cựa người như một con mèo. Trông cô khá xinh xắn. Tóc cô ngắn nên không bị rối tung còn đôi mắt thì sáng rực. Cô nhìn rất quyết tâm, như thể biết phía trước hoặc là đường cùng hoặc là vinh quang, và cô chẳng cần biết mình đang lao tới cái nào.
Chúng tôi ngồi xuống ghế và níu chặt đai đợi hạ cánh. Bánh máy bay chạm đất, hệ thống thổi ngược rít lên và phanh nghiến lại. Đống thùng hàng trong nẹp gỗ nẩy lên trước. Rồi động cơ giảm dần, và chúng tôi trượt trên mặt đất một quãng dài trước khi dừng hẳn. Thang hạ xuống, và khoảng trời hoàng hôn tối mờ hiện ra qua cổng máy bay. Lúc ấy đã năm giờ chiều ở Đức, nhanh hơn Bờ Đông Hoa Kỳ chừng sáu tiếng đồng hồ, và nhanh hơn giờ quốc tế một tiếng. Tôi đói rã rời. Tôi chẳng có gì bỏ bụng ngoài miếng bánh kẹp thịt ở Sperryville từ hôm trước. Summer và tôi đứng dậy lấy hành lý rồi xếp hàng. Chúng tôi lê bước xuống thang cùng những người khác ra nhà chứa máy bay. Trời lạnh. Thời tiết cũng giống Bắc Carolina.
Chúng tôi đang ở khu vực dành riêng cho quân đội tại sân bay Frankfurt. Chúng tôi bắt xe buýt cho cán bộ tới nhà ga chung. Sau đấy thì bọn tôi phải tự lo. Vài quân nhân khác đã có sẵn xe chở, nhưng chúng tôi thì không. Chúng tôi đợi taxi cùng dân thường. Cứ từng người, từng người một lê bước tới trước. Khi đến lượt mình, chúng tôi đưa tay tài xế một tờ giấy đi đường và nhờ anh ta chở về hướng Đông tới trụ sở Quân đoàn XII. Anh ta trông hớn hở lắm. Tờ giấy kia có thể được đổi thành tiền mặt tại bất cứ đồn quân sự Hoa Kỳ nào, và tôi chắc anh ta sẽ được thêm một cuốc xe đưa nhóm quân nhân nào đó tại trụ sở Quân đoàn XII vào thành phố Frankfurt chơi. Chúng tôi chẳng phải đi miễn phí. Anh ta cũng chẳng thiệt hại gì. Anh ta kiếm sống được nhờ quân đội Hoa Kỳ, như phần lớn người Đức suốt bốn mươi lăm năm nay. Anh ta lái một chiếc Mercedez-Benz cơ mà.
Chuyến đi mất nửa tiếng. Chúng tôi đi về hướng Đông qua những khu ngoại ô. Trông chúng giống hệt nhiều nơi phía Tây Đức. Có rất nhiều dãy tòa nhà sơn màu mật ong nhạt xây từ thập niên năm mươi. Rồi tới những khu đô thị mới chạy ngoằn ngoèo từ Tây sang Đông, theo đường mà trước đó từng bị giáng xuống những trận mưa bom từ không trung. Chưa có đất nước nào thua trận đau đớn như nước Đức. Như mọi người, tôi cũng đã thấy những bức ảnh chụp năm 1945. Bại trận là một cách nói quá nhẹ. Bị hủy diệt thì đúng hơn. Cả đất nước họ như bị một vị thần khổng lồ nghiền nát thành tro bụi. Bằng chứng sẽ còn được lưu lại đời đời, trong các công trình kiến trúc. Và dưới những công trình ấy. Mỗi lần các công ty viễn thông đào đường đặt đường dây điện thoại, họ sẽ lại tìm thấy cơ man những xương sọ, ly chén, đạn pháo và những khẩu súng chống tăng Panzerfaust hoen gỉ. Mỗi lần người ta đào đất đặt móng nhà, một vị linh mục sẽ có mặt trước khi máy xúc kịp xới lên đống đất đầu tiên. Tôi sinh ra và lớn lên tại Berlin, sống cùng cộng đồng người Mỹ, và được bao quanh bởi mấy dặm vuông đầy rẫy những dấu tích hủy diệt được vá lấp. Lỗi tại phe Đức chứ ai, chúng tôi vẫn thường bảo nhau vậy.
Đường phố ngoại ô ngăn nắp và sạch sẽ. Có rất nhiều những cửa tiệm ẩn mình dưới các tòa chung cư bên trên. Mặt kính các cửa tiệm chất đầy hàng hóa sáng bóng. Bảng hiệu đường phố được sơn hai màu trắng đen, viết bằng những chữ cổ khó đọc. Đó đây mọc lên xen kẽ các bảng chỉ đường của Quân đội Hoa Kỳ. Cứ lâu lâu lại thấy một cái như vậy. Chúng tôi bám theo mũi tên chỉ tới Quân đoàn XII, mỗi lúc một gần. Chúng tôi rời khu đô thị mới, rồi đi qua vài cây số đất ruộng. Trông chúng như con hào bao quanh pháo đài vậy. Như một bức tường cách ly. Bầu trời phía Đông trước mắt chứng tôi xám xịt.
Quân đoàn XII được đặt tại một cơ sở từng rất hoành tráng thuở xưa. Một tập đoàn công nghiệp phát xít nào đó đã xây một khuôn viên xí nghiệp rộng một ngàn mẫu vuông nơi đồng không mông quạnh này, vào những năm 1930. Nơi đây từng có một khu văn phòng và nhà ở khá quy mô, kèm theo một dãy nhà kho thấp xây bằng kim loại kéo dài cả mấy trăm mét. Dãy nhà này đã bị bom đánh tan nát hết lần này đến lần khác. Tòa nhà văn phòng kia chỉ bị hủy hoại một phần. Một sư đoàn thiết giáp kiệt sức nào đó của Hoa Kỳ đã dựng trại nghỉ lại nơi đây vào năm 1945. Rất nhiều người phụ nữ gầy gò của Frankfurt đầu vấn khăn, mặc váy áo bạc màu đã tới đây phụ dọn đống đổ nát, để đổi lấy lương thực. Họ vật lộn với xe cút kít và xẻng. Rồi công binh Lục quân sửa chữa tòa nhà văn phòng kia và san phẳng đống đổ nát còn lại. Vốn ngân sách tài trợ khổng lồ từ Lầu Năm Góc lần lượt đổ tới. Đến năm 1953 thì nơi này đã trở thành một cơ sở tiên phong. Họ dùng biết bao lớp gạch xịn, sơn trắng bóng loáng và quây chúng lại bằng hệ thống hàng rào bất khả xâm phạm. Họ cắm nào là cột cờ, bốt canh và vọng gác. Bên trong có nhiều phòng ăn, phòng y tế và cửa hàng. Và trên hết, nơi đây là một vùng đất phẳng khổng lồ rộng một ngàn mẫu vuông, và tới năm 1953 thì vùng đất đó đã chật cứng những chiến tăng Hoa Kỳ. Đội chiến xa này được xếp hàng ngay ngắn, quay mặt về hướng Đông, sẵn sàng đợi lệnh xuất quân xông tới Fulda.
Khi chúng tôi tới đây ba mươi bảy năm sau, trời đã tối đến mức chẳng thấy rõ được xung quanh. Nhưng tôi biết nơi này đã chẳng có thay đổi gì lớn lao. Những chiến tăng ắt khác xưa, nhưng chỉ có vậy thôi. Những chiếc M4 Sherman đã giúp ta chiến thắng trong Thế chiến thứ hai đã biến mất từ lâu, chỉ còn lại hai chiếc bóng bẩy được giữ lại bên ngoài cổng chính nơi này, mỗi bên một chiếc, như một biểu tượng bất diệt. Chúng được đặt trên hai bệ bê tông, nòng tăng hướng lên cao, đuôi tăng chúc xuống, như thể chúng đang chuyển động, đang xông lên trước vậy. Chúng được chiếu đèn như trên sân khấu. Chúng cũng được sơn sửa đẹp mắt lắm, với lớp xanh lá bóng bẩy, các bên là những ngôi sao trắng lóa. Trông chúng đẹp hơn ban đầu nhiều. Đằng sau chúng là một lối xe chạy dài với hai bên lề sơn trắng dẫn tới khoảnh sân trước thắp đèn sáng rực của tòa nhà, giờ được dùng làm trụ sở chính của căn cứ. Đằng sau tòa nhà đó sẽ là các cụm xe tăng, với những chiếc M1A1 Abrams chủ lực đặt cạnh nhau san sát, đến hàng mấy trăm chiếc, mỗi chiếc có giá trị tới gần bốn triệu đô la.
Chúng tôi ra khỏi taxi và bước trên vỉa hè tới bốt canh chính ngay cổng trước. Nhờ phù hiệu đội đặc nhiệm của tôi mà cả hai được cho qua dễ dàng. Nó có thể đưa chúng tôi qua các chốt quân sự mọi nơi, ngoại trừ vòng trong của Lầu Năm Góc. Chúng tôi xách túi theo lối xe chạy vào trong.
“Sếp tới đây bao giờ chưa?” Summer hỏi tôi.
Tôi vừa đi vừa lắc đầu.
“Tôi mới chỉ tới Heidelberg với đám bộ binh,” tôi đáp. “Cũng nhiều lần.”
“Có gần đây không sếp?”
“Không xa đâu,” tôi bảo.
Những bậc thang đá dẫn tới cửa chính. Toàn bộ nơi này nhìn như một trụ sở thủ phủ của tiểu bang nào đó ở quê nhà vậy. Khắp nơi được bảo quản vô cùng kỹ lưỡng. Chúng tôi đi lên bậc thang vào trong. Có một anh lính trực sau bàn, ngay sau cánh cửa. Không phải Quân cảnh. Chỉ là một anh lính văn phòng của Quân đoàn XII mà thôi. Chúng tôi xuất trình thẻ ngành.
“Nhà khách Sĩ quan của các anh còn phòng cho chúng tôi chứ?” tôi hỏi.
“Thưa, không thành vấn đề ạ,” anh ta đáp.
“Hai phòng,” tôi dặn. “Một đêm.”
“Thưa, tôi sẽ sắp xếp ngay,” anh ta bảo. “Hai người cứ đi theo chỉ dẫn nhé.”
Anh ta chỉ về phía cuối hành lang. Ở đó gắn nhiều cửa dẫn vào sâu khu phức hợp. Tôi nhìn đồng hồ. Nó chỉ đúng giữa trưa. Theo giờ Bờ Đông. Bây giờ đã sáu giờ chiều, ở Tây Đức. Trời đã tối.
“Tôi cần gặp sĩ quan điều hành Quân cảnh ở đây,” tôi nói. “Anh ta còn trong văn phòng không?”
Anh ta gọi một cú điện thoại rồi có câu trả lời ngay. Xong chỉ tay về phía một cầu thang rộng dẫn lên lầu hai.
“Ở bên phải hai người ấy,” anh ta bảo.
Chúng tôi đi lên cầu thang rồi quẹo phải. Đó là một dãy hành lang hun hút với nhiều phòng làm việc đặt hai bên. Chúng được gắn cửa gỗ cứng có ô kính mờ. Chúng tôi tìm thấy phòng cần tìm và bước vào. Một căn phòng ngoài với một trung sĩ đang ngồi làm việc. Trông cũng khá giống văn phòng ở trại Bird. Cùng màu sơn, cùng kiểu lót sàn, cùng thứ nội thất, cùng nhiệt độ, cùng mùi hương. Cũng loại cà phê kia, và cùng loại máy pha của quân đội cấp. Tay trung sĩ kia cũng hệt như bao người khác tôi đã gặp. Điềm tĩnh, tháo vát, hiên ngang, sẵn lòng tin rằng mình làm chủ nơi này, mà cũng có thể vậy thật. Anh ta ngồi sau bàn làm việc, và chỉ ngẩng lên khi thấy chúng tôi bước vào. Anh ta dành nửa giây đoán xem chúng tôi là ai và muốn gì.
“Tôi đoán anh cần gặp Thiếu tá,” anh ta lên tiếng.
Tôi gật đầu. Anh ta bốc điện thoại gọi vào văn phòng bên trong.
“Mời vào trong,” anh ta bảo.
Chúng tôi bước vào phòng trong, và tôi thấy một bàn làm việc, một tay tên Swan ngồi đằng sau. Tôi biết rõ tay Swan này. Lần cuối tôi gặp anh ta là ở Philippines, ba tháng trước, khi anh ta vừa bắt đầu chuyến công tác dự tính kéo dài một năm trời.
“Đừng nói là,” tôi bảo, “cậu tới đây vào ngày hai mươi chín tháng Mười hai.”
“Mông tôi đóng băng rồi đây,” anh ta nói. “Tôi chỉ có đồ dành cho khí hậu Thái Bình Dương. Quân đoàn XII này mất tới ba ngày mới tìm được cho tôi một bộ mùa đông.”
Tôi không ngạc nhiên lắm. Swan khá thấp và to bè. Như một khối vuông vậy. Anh ta khéo một mình một nhóm trong bảng ghi chép của sĩ quan hậu cần.
“Chỉ huy trưởng của cậu có ở đây không?” tôi hỏi.
Anh ta lắc đầu. “Tạm thời thuyên chuyển công tác.”
“Garber duyệt lệnh của cậu à?”
“Có vẻ là vậy.”
“Cậu đoán được gì chưa?”
“Chẳng được tí nào.”
“Tôi cũng vậy,” tôi đáp.
Anh ta nhún vai, như thể muốn nói: Ôi dào, quân đội mà, biết làm sao giờ?
“Đây là trung úy Summer,” tôi bảo.
“Cùng đội đặc nhiệm à?” Swan hỏi.
Summer lắc đầu.
“Nhưng chịu chơi lắm,” tôi bảo.
Swan rướn bàn tay ngắn cũn của mình khỏi bàn làm việc và bắt tay cô.
“Tôi cần gặp một tay tên là Marshall,” tôi bảo. “Thiếu tá thì phải. Sĩ quan của Quân đoàn XII hay sao đó.”
“Anh ta gây chuyện gì à?”
“Có ai đó đang gây chuyện. Tôi mong Marshall sẽ giúp mình tìm ra đó là ai. Cậu biết anh ta à?”
“Chưa từng nghe tới,” Swan bảo. “Tôi vừa tới đây mà.”
“Tôi biết rồi,” tôi nói. “Hai mươi chín tháng Mười hai.” Anh ta mỉm cười, làm lại cái nhún vai Biết làm sao giờ? rồi bốc điện thoại lên. Tôi nghe anh ta nhờ trung sĩ của mình tìm Marshall và dặn rằng tôi cần gặp hắn vào lúc nào đó thuận tiện. Tôi nhìn quanh khi đợi câu trả lời. Văn phòng của Swan nhìn là thấy rõ sự tạm bợ, hệt như phòng của tôi ở Bắc Carolina. Trên tường cũng đặt cùng một kiểu đồng hồ ấy. Loại chạy điện, không có kim giây. Không phát tiếng tích tích. Nó đang chỉ sáu giờ mười phút.
“Có gì xảy ra ở đây không?” tôi hỏi.
“Chẳng gì nhiều,” Swan bảo. “Có mấy tay phi công trực thăng tới Heidelberg mua sắm rồi bị xe đụng. Và Kramer mới chết nữa, tất nhiên rồi. Tin đó chấn động nơi này kha khá đấy.”
“Ai là người tiếp quản?”
“Vassell, chắc vậy.”
“Tôi gặp lão ta rồi,” tôi nói. “Chẳng ấn tượng mấy.”
“Tưởng hay hóa ra dở. Mọi chuyện đang thay đổi dữ lắm.
Cậu phải nghe mấy tay này nói chuyện kìa. Nghe u ám lắm.”
“Mọi thứ sẽ không còn như cũ được nữa,” tôi nói. “Tôi nghe được vậy.”
Điện thoại của anh ta reo lên. Anh ta nghe chừng một phút rồi đặt xuống.
“Marshall không có ở đây,” anh ta nói. “Anh ta ra ngoài tham gia khóa tập luyện buổi tối ở vùng ngoại ô. Từ sáng sớm lận.”
Summer liếc tôi. Tôi nhún vai.
“Đi ăn tối với tôi đi,” Swan bảo. “Tôi ở đây có một mình, giữa mấy ông kỵ binh này. Một tiếng sau có mặt ở phòng ăn, nhé?”
Chúng tôi đem hành lý đến phòng mình tại Nhà khách Sĩ quan. Phòng tôi nhìn hệt như căn phòng nơi Kramer đã chết, chỉ sạch sẽ hơn thôi. Căn phòng được bài trí như mọi phòng trọ Mỹ thông thường. Có vẻ như một chuỗi khách sạn nào đó ngày xưa đã trúng thầu. Như thể họ đã đóng gói toàn bộ chi tiết trong phòng, từ bồn nước tới móc treo khăn tắm tới bồn xí, rồi dùng máy bay chở chúng tới đây vậy.
Tôi cạo râu, tắm rửa rồi thay bộ dã chiến mới. Tôi gõ cửa phòng Summer phút thứ năm lăm trong lượng thời gian Swan đã hẹn trước. Cô mở cửa. Trông cô tươm tất và tươi tắn. Đằng sau, phòng cô trông giống của tôi, chỉ khác là nó thơm mùi phụ nữ. Có mùi nước hoa phảng phất đâu đây.
Phòng ăn sĩ quan chiếm phân nửa diện tích tầng trệt một trong các cánh của tòa nhà chính. Một không gian rộng rãi, với trần nhà cao và những hoa văn thạch cao tinh tế. Có một phòng thư giãn, một quầy bar, và một phòng ăn. Chúng tôi thấy Swan ngồi ở quầy bar. Anh ta đang ngồi cùng một trung tá mặc quân phục nghi lễ với phù hiệu bộ binh đính trên áo khoác. Một hình ảnh lạ thường, giữa một că
n cứ Thiết giáp. Bảng tên anh ta ghi: Simon. Anh ta tự giới thiệu với chúng tôi. Tôi có cảm giác anh ta sẽ ăn tối cùng mình. Anh ta giới thiệu mình là một sĩ quan liên lạc, đại diện cho bộ binh ở đây. Anh ta bảo rằng ở trại Heidelberg cũng có một sĩ quan Thiết giáp, làm việc với bộ binh ở đó.
“Anh đến đây lâu chưa?” tôi hỏi anh ta.
“Được hai năm rồi,” anh ta đáp, khiến tôi mừng thầm. Tôi cần ít nhiều thông tin ở đây, mà Swan cũng không biết, hệt như tình trạng của tôi ở trại Bird. Rồi tôi nhận ra không vì ngẫu nhiên mà Simon đây tham gia nhóm chúng tôi. Chắc Swan đã linh cảm được điều tôi cần và tự sắp xếp hỗ trợ mà không đợi tôi phải hỏi. Tay Swan này là người như vậy đấy.
“Rất hân hạnh được gặp anh, Trung tá,” tôi nói, rồi gật đầu với Swan, thay lời cảm ơn. Chúng tôi uống bia Mỹ lạnh từ những chiếc ly cao bằng thủy tinh rồi tới phòng ăn. Swan đã đặt sẵn bàn. Tay hậu cần dẫn chúng tôi tới một bàn trong góc. Tôi ngồi ở phía có thể quan sát được toàn bộ căn phòng.
Tôi không thấy ai quen cả. Vassell không có ở đây. Coomer cũng vậy.
Thực đơn cực kỳ thường. Những món ấy phòng ăn sĩ quan nào trên thế giới cũng có. Thực ra phòng ăn sĩ quan vốn không màng tới việc giới thiệu với anh các món ăn bản địa. Mục đích của nó là giúp anh cảm thấy như đang ở nhà, tức một nơi nào đó nằm tít trong cái định nghĩa riêng của quân đội về nước Mỹ. Có hai món chính là cá hay thịt bò. Cá có thể được lấy ở châu Âu, nhưng thịt bò thì chắc phải gửi qua Thái Bình Dương bằng máy bay. Một tay chính trị gia ở một tiểu bang nông nghiệp nào đó hẳn đã ký được một kèo thơm với Lầu Năm Góc.
Chúng tôi nói chuyện phiếm để khởi động. Chúng tôi càm ràm về lương lậu và tiền trợ cấp. Về những người mình biết. Nhắc đến Chiến dịch Chính nghĩa ở Panama. Trung tá Simon khoe mình đã tới Berlin cách đây hai ngày và thó được một mảnh xi măng của Bức Tường Berlin. Anh ta tính đặt nó trong một hộp nhựa vuông. Tính truyền nó lại cho đời con cháu mình sau này, như một vật gia truyền vậy.
“Anh có biết thiếu tá Marshall không?” tôi hỏi anh ta.
“Cũng có quen biết,” anh ta đáp.
“Anh ta là người thế nào vậy?” tôi hỏi.
“Đây là việc công à?”
“Không hẳn,” tôi bảo.
“Một tay thích lên kế hoạch. Một nhà chiến lược, kiểu vậy. Loại người ưa sự lâu dài. Thiếu tướng Kramer có vẻ thích anh ta. Lúc nào cũng đưa đi theo, rồi bổ nhiệm anh ta làm sĩ quan tình báo của mình.”
“Anh ta có tiểu sử công tác tình báo không?”
“Không chính thức. Nhưng tôi chắc anh ta cũng phải làm qua vài vụ chứ nhỉ.”
“Vậy anh ta là người trong nhóm thân cận sao? Tôi tưởng Kramer và Vassell và Coomer cùng một nhóm, chứ Marshall thì không.”
“Anh ta là người trong nhóm đấy,” Simon bảo. “Chắc chắn là vậy. Nhưng anh cũng biết mấy tay cấp trên ra sao rồi mà. Họ cần đệ tử ruột, nhưng lại không muốn thừa nhận. Nên họ hành anh ta chút đỉnh. Sai anh ta làm này làm kia, theo sau bưng đồ và chở đi đây đi đó, nhưng khi đụng chuyện thì sẽ hỏi ý kiến anh ta.”
“Vậy khi Kramer chết rồi anh ta sẽ chen chân lên trên được chứ? Thế chỗ Coomer chẳng hạn?”
Simon nhăn mặt. “Được chứ. Bản chất anh ta cũng là một lính Thiết giáp cực đoan, hệt như đám còn lại. Nhưng chẳng ai biết chuyện gì thực sự sẽ xảy ra. Kramer chết ngay lúc này thật là một thời điểm tồi tệ với bọn họ.”
“Thế giới đang thay đổi,” tôi bảo.
“Thế giới ấy thật là kỳ khôi,” Simon nói. “Ý là thế giới của Kramer ấy, từ ngày đầu đến phút cuối. Ông ta tốt nghiệp trường West Point vào năm 52, còn những nơi như ở đây thì vẫn trướng rủ màn che tới tận năm 53, để rồi sau đó trở thành trung tâm của vũ trụ trong suốt gần bốn mươi năm sau. Những nơi như thế này được bao bọc khủng khiếp lắm, anh không tưởng tượng được đâu. Anh biết ai là người góp nhiều công lao nhất cho đất nước này không?”
“Ai?”
“Không phải quân Thiết giáp. Không phải bộ binh. Toàn bộ sân khấu này đều là của Công binh Lục quân. Xe tăng Sherman hồi xưa nặng ba mươi tám tấn và chiều ngang chín feet. Bây giờ ta lên đến dòng xe tăng M1A1 Abrams, nặng bảy mươi tấn với chiều ngang mười một feet. Mỗi bước tiến trong bốn mươi năm đó đều là công việc của Công binh Lục quân. Họ mở đường, mấy trăm dặm đường, khắp nơi trên đất Tây Đức này. Họ gia cố biết bao nhiêu cây cầu. Nói thật, chính họ đã làm đường xây cầu. Hàng tá công trình như vậy. Anh muốn đội quân chiến xa của mình, mỗi chiếc nặng bảy mươi tấn, lăn xả vào chiến trường phía Đông, thì anh nên bảo đảm rằng những con đường và cây cầu kia có sức chịu được trọng lượng của chúng.”
“OK,” tôi bảo.
“Tốn hàng tỷ đô la đó,” Simon bảo. “Và tất nhiên, họ nắm rõ từng con đường hay cây cầu cần chú ý. Họ biết điểm khởi hành của ta, lẫn đích đến. Họ thảo luận với các nhà quân sự, xem xét bản đồ, sau đó vật lộn với đống bê tông cốt thép. Rồi họ dựng ga xép tại những nơi ta cần. Những trạm nhiên liệu, kho đạn dược, xưởng sửa chữa, cố định và được bảo vệ nghiêm ngặt, hàng trăm cơ sở như vậy, dọc theo con đường định sẵn. Vậy nên chúng ta đã dính ở đây, theo nghĩa đen. Ta nhúng tay vào rồi, theo nghĩa đen. Mặt trận của Chiến tranh lạnh theo nghĩa đen đã được quyết định đâu ra đó cả rồi, Reacher.”
“Đại chúng sẽ nói rằng chúng ta thắng vì có sự đầu tư kỹ lưỡng.”
Simon gật đầu. “Họ nói thế là phải. Nhưng sau đó sẽ là gì?”
“Đầu tư nhiều hơn nữa,” tôi nói.
“Đúng vậy,” anh ta nói. “Như khi bên Hải quân thay thế tất cả chiến thuyền lớn bằng hàng không mẫu hạm. Một kỷ nguyên kết thúc, một kỷ nguyên mới bắt đầu. Đám chiến xa Abrams này cũng như các chiến thuyền kia thôi. Chúng rất tráng lệ, nhưng lỗi thời. Gần như cách duy nhất để tận dụng chúng là đưa chúng lên những con đường được xây riêng dẫn đến nơi mà chúng ta vẫn đang nhắm tới.”
“Chúng cơ động mà,” Summer nói. “Như mọi loại xe tăng khác.”
“Tiếc là không cơ động đến vậy,” Simon nói. “Mặt trận tiếp theo sẽ là nơi nào?”
Tôi nhún vai. Tôi ước Joe ở đây với mình. Anh giỏi mấy thứ dính tới địa chính trị này hơn tôi.
“Trung Đông?” tôi nói. “Iran, hoặc có thể là Iraq. Hai nơi đó đều đã lấy lại sức, họ sẽ kiếm việc gì làm ngay thôi.”
“Hoặc Balkan này,” Swan nói. “Khi nào Xô Viết sụp đổ, sẽ có một nồi áp suất bốn mươi lăm năm tuổi chờ sôi bung nắp đấy.”
“OK,” Simon bảo. “Lấy Balkan làm ví dụ nhé. Nam Tư, cho cụ thể. Mọi chuyện sẽ bắt đầu ở đó, chắc chắn vậy. Bây giờ họ chỉ chờ tiếng súng hiệu mà thôi. Ta sẽ làm gì?”
“Cử sư đoàn dù tới,” Swan nói.
“OK,” Simon nhắc lại. “Ta cử Sư đoàn dù 82 và 101 vào đó. Họ trang bị nhẹ, ta có thể ném tới ba tiểu đoàn vào đó trong vòng một tuần. Rồi ta làm gì khi vào đó? Ta chỉ là gờ giảm tốc, vậy thôi, chẳng gì khác. Ta phải chờ các đơn vị hạng nặng tới tiếp viện. Và đó là vấn đề đầu tiên. Một chiếc xe tăng Abrams nặng bảy chục tấn. Máy bay sao chở nổi. Phải đặt lên xe lửa, rồi lên thuyền. Và đó mới chỉ là tin tốt. Bởi vì anh đâu có chở mỗi xác xe tăng. Mỗi tấn trọng lượng của xe tăng, anh phải chở theo bốn tấn nhiên liệu và các vật dụng khác. Bọn háu đói này ngốn tới cả gallon nhiên liệu để đi được nửa dặm. Và anh còn cần đủ thứ động cơ dự bị, đạn dược, và một toán bảo trì viên. Danh sách hậu cần phải dài cả dặm. Như thể anh đang dịch chuyển một quả núi bằng sắt thép vậy. Để chuyên chở đủ số lượng lũ đoàn chiến xa hòng thay đổi tình thế, anh sẽ cần sáu tháng chuẩn bị, tối thiểu, mà đó là làm đầu tắt mặt tối rồi đấy.”
“Mà trong lúc đó thì nhóm lính dù kia đang bị nện ra trò,” tôi nói.
“Chứ còn gì nữa,” Simon bảo. “Và họ là anh em của tôi, nên tôi phải lo cho họ. Lính nhảy dù trang bị nhẹ mà phải đối đầu quân thiết giáp ngoại bang thì bị thảm sát là cái chắc. Sáu tháng đó sẽ rất, rất mệt tim. Và chuyện sẽ tệ hơn. Vì chuyện gì xảy ra khi các lữ đoàn hạng nặng tới nơi? Là thế này, họ sẽ lăn xuống từ thuyền chuyên chở, và bị kẹt lại phía sau chiến tuyến. Đường sá không đủ rộng, cầu đường không đủ cứng cáp, họ còn không qua nổi bến đỗ ấy chứ. Họ chỉ có thể ngồi đó trong vũng lầy, nhìn toán bộ binh bị tàn sát ở xa.”
Không ai lên tiếng.
“Hoặc Trung Đông nhé,” Simon nói tiếp. “Ta đều rõ Iraq muốn lấy lại vùng Kuwait. Giả sử họ xông tới đó thì sao? Về mặt lâu dài, thì ta thắng chắc, bởi vì đối với xe tăng thì sa mạc rộng lớn hay thảo nguyên châu Âu đều như nhau, chỉ trừ nơi đó nóng và bụi bặm hơn. Nhưng kế hoạch tác chiến của ta sẽ ngon lành. Nhưng liệu ta có tiến xa được như vậy không? Ta lại để đám bộ binh lóng ngóng ở đó, như những vạch giảm tốc tí hon ròng rã suốt sáu tháng trời. Ai dám chắc quân Iraq không đè bẹp họ trong vòng hai tuần đầu?”
“Ta có lực lượng Không quân,” Summer nói. “Trực thăng chiến đấu.”
“Ước gì được vậy,” Simon nói. “Máy bay và trực thăng trông hấp dẫn đấy, nhưng riêng chúng thì chẳng làm nổi trò trống gì. Trước đây chưa từng, sau này cũng vậy. Đầu đội trời chân đạp đất mới là quân cờ quyết định.”
Tôi mỉm cười. Một phần trong điều anh ta nói là niềm kiêu hãnh thường thấy ở lính bộ binh. Nhưng một phần cũng hoàn toàn chính xác.
“Vậy chuyện gì sẽ xảy ra?” tôi hỏi.
“Tương tự như điều diễn ra với bên Hải quân năm 1941 thôi,” Simon bảo. “Chỉ sau một đêm, tàu chiến đã là dĩ vãng, và hàng không mẫu hạm lên ngôi. Nên chúng ta, bây giờ, phải biết thích nghi. Ta cần hiểu rằng đơn vị hạng nhẹ của chúng ta quá yếu, còn đơn vị hạng nặng lại chậm rì. Ta cần xóa bỏ ranh giới nặng-nhẹ này. Ta cần bổ sung các lữ đoàn phản ứng nhanh, trang bị thiết giáp nhẹ hơn hai chục tấn và đủ nhỏ để chứa trong khoang máy bay vận tải C-130. Ta cần phải tiếp cận mục tiêu nhanh hơn, và chiến đấu khôn ngoan hơn. Đã qua rồi cái thời ta dàn trận cho những con khủng long đánh nhau.”
Rồi anh ta mỉm cười.
“Nói chung là ta nên để bộ binh lên nắm quyền,” anh ta nói.
“Anh có thảo luận những chuyện này với người như Marshall không?”
“Với tay lên kế hoạch của họ á? Không đời nào.”
“Bọn họ nghĩ thế nào về tương lai?”
“Tôi chịu. Và tôi cũng chẳng quan tâm. Tương lai thuộc về bộ binh.”
Món tráng miệng là bánh táo, rồi chúng tôi dùng cà phê. Vẫn là thứ cà phê ngon xuất sắc quen thuộc. Chúng tôi rút chân ra khỏi tương lai, trở về nói chuyện phiếm thời hiện tại. Phục vụ đi tới đi lui, lặng lẽ. Một buổi tối quen thuộc, tại một phòng ăn sĩ quan cách phòng ăn trước bốn ngàn dặm.
“Marshall sẽ về lúc bình minh,” Swan bảo tôi. “Cậu cứ trông chiếc xe trinh sát đi cuối hàng xe tiến vào trại ấy.”
Tôi gật đầu. Tính nhẩm bình minh trong tháng Giêng ở Frankfurt sẽ lên vào lúc bảy giờ sáng. Trung tá Simon chúc chúng tôi ngủ ngon, rồi đi mất. Summer đẩy ghế ra sau rồi ngả người, ngả hết mức thân hình nhỏ nhắn của cô cho phép. Swan ngồi chúi người tới trước, chống cùi chỏ lên bàn.
“Cậu nghĩ trại này có nhiều ma túy không?” tôi hỏi anh ta.
“Cậu muốn à?” anh ta hỏi.
“Heroin,” tôi bảo. “Không phải cho tôi.”
Swan gật đầu. “Quân nhân ở đây bảo rằng có nhóm người Thổ đi xuất khẩu lao động sang Đức biết mối ma túy. Thể nào chả có tay buôn nào đó, tôi chắc thế.”
“Cậu gặp thằng cha nào tên Willard chưa?” tôi hỏi anh ta.
“Ông sếp mới á?” anh ta nói. “Tôi nhận được tin báo. Chưa từng gặp mặt. Nhưng vài người ở đây biết lão. Một tay tình báo dặt dẹo, có dính líu gì đó tới Thiết giáp.”
“Lão viết thuật toán,” tôi bảo.
“Cho cái gì?”
“Tính độ tiêu hao nhiên liệu của xe tăng T-80 Xô Viết, tôi nhớ vậy. Nhờ lão mà ta biết được cách luyện quân của họ.”
“Giờ lão quản lý Đội 110 sao?”
Tôi gật đầu.
“Tôi biết mà,” tôi nói. “Kỳ dị lắm.”
“Lão làm thế nào vậy?”
“Rõ ràng là có người thích lão chứ sao.”
“Ta nên tìm xem là ai. Rồi viết thư chửi đổng.”
Tôi gật đầu lần nữa. Cả triệu quân nhân, hàng trăm tỷ đô la, mà cuối cùng hơn thua nhau ở mối quan hệ. Ôi dào, biết làm sao giờ?
“Tôi đi ngủ đây,” tôi bảo.
Phòng của tôi trông giống hệt bao nơi khác, khiến tôi thoáng quên mất mình đang ở đâu sau khi đóng cửa phòng. Tôi treo quân phục lên tủ rồi rửa ráy và bò lên giường. Chăn gối có mùi loại thuốc tẩy mà quân đội dùng ở mọi nơi. Tôi nhớ tới mẹ ở Paris và Joe ở Thủ đô. Mẹ lên giường rồi, chắc vậy. Joe thì hẳn còn thức, làm việc gì đó anh đang làm. Tôi tự nhủ sáu giờ sáng rồi nhắm mắt lại.
Bình minh ló dạng vào sáu giờ năm mươi, lúc đó tôi đã đứng cạnh Summer trước cửa Đông của trụ sở Quân đoàn XII. Chúng tôi đều cầm tách cà phê trên tay. Mặt đất đóng băng, còn không khí vẫn vương sương khói. Bầu trời xám xịt và khung cảnh đượm màu xanh lá nhạt. Đồi núi nơi đây thấp tịt, nhấp nhô và tẻ nhạt, như nhiều nơi ở châu Âu. Đây đó lại mọc lên vài cụm cây thẳng, nho nhỏ. Tiết trời mùa đông lặng lẽ, nức mùi thiên nhiên giá lạnh. Vạn vật rất yên tĩnh.
Con đường chạy xuyên qua cánh cổng rồi bẻ sang hướng Đông và hơi nghiêng một chút về hướng Bắc, dẫn vào sương mù, tới nước Nga. Đường rất rộng và thẳng thớm, làm từ bê tông cốt thép. Hàng đá lề đường bị mẻ đôi chút vì vết bánh xe tăng. Có nơi văng mất cả mảng lớn. Xe tăng là thứ khó lái.
Chúng tôi đợi. Vẫn im lặng.
Rồi chúng tôi nghe thấy họ.
Âm thanh nào mới là đặc trưng của thế kỷ hai mươi? Anh tha hồ tranh luận. Có người bảo là tiếng rầm rì chậm rãi của động cơ máy bay. Có thể là từ một máy bay chiến đấu cô độc giữa bầu trời xanh ngát của những năm 1940. Hoặc là tiếng rít của máy bay phản lực bay đà thấp, làm rung chuyển mặt đất. Hoặc là tiếng phần phật của cánh quạt trực thăng. Hoặc là tiếng gầm khi cất cánh của chiếc 747 bề thế. Hoặc là tiếng nổ đanh tai của trái bom rơi xuống một thành phố. Chúng đều hợp lý cả. Chúng đều là những âm thanh độc đáo của thế kỷ hai mươi. Chưa ai nghe thấy chúng trước đó. Chưa từng, trong suốt chiều dài lịch sử. Một số kẻ lạc quan sẽ cãi rằng nhạc của Beatles mới là thứ âm thanh đặc biệt của thế kỷ này. Một điệp khúc yeah, yeah, yeah chìm dưới tiếng gào thét của khán giả. Tôi sẽ đồng cảm với lựa chọn đó. Nhưng một bài hát và những tiếng thét gào làm sao đạt tiêu chuẩn ta đang bàn. Âm nhạc và sự khuấy động đã xuất hiện từ thuở hồng hoang. Chúng đâu có được sáng chế sau những năm 1990.
Không, âm thanh đặc trưng của thế kỷ hai mươi là tiếng rít và lách cách của bánh xích xe tăng trên mặt đường lát đá. Âm thanh đó đã vang lên ở Thủ đô Warsaw, ở Rotterdam, ở Stalingrad và ở Berlin. Rồi họ lại nghe thấy chúng ở Budapest, ở Prague, Seoul và Sài Gòn. Một thứ âm thanh hung tợn. Một thứ âm thanh đáng sợ. Nó vang lên thứ tiếng của sức mạnh vượt trội. Và nó là thứ âm thanh của sự lạnh lùng, bàng quan vô nhân tính. Tiếng rít và lách cách của xích xe tăng là lời cảnh báo rằng chúng không thể bị ngăn chặn. Nói rằng anh quá yếu ớt và bất lực để có thể đối đầu với cỗ máy sắt thép. Rồi một bên bánh xích khựng lại, còn bánh xích kia tiếp tục xoay vòng, và chiếc xe tăng quay đầu, lao thẳng tới anh, gầm rít những tiếng kinh hoàng. Đấy mới là âm thanh thực thụ của thế kỷ hai mươi này.
Chúng tôi nghe tiếng cụm xe tăng Abrams của Quân đoàn XII trước cả khi nhìn thấy chúng. Thứ âm thanh đó xé màn sương lao đến chúng tôi. Chúng tôi nghe tiếng bánh xích, và tiếng động cơ rin rít. Chúng tôi nghe tiếng nghiền của bánh răng, và cảm thấy mặt đất rung lên dưới đế giày khi vòng xích chuyển động. Chúng tôi nghe sỏi đá bị nghiền nát dưới thân máy đồ sộ.
Rồi chúng tôi cũng thấy chúng. Chiếc xe tăng dẫn đầu lừ lừ hiện ra trước mắt qua màn sương. Nó chạy rất nhanh, hơi rung lắc, bám đất, động cơ gầm rú. Phía sau là một chiếc khác, và sau nó là một chiếc nữa. Tất cả đi thành một hàng đơn, như một đội quân trồi lên từ địa ngục. Quả là một cảnh tượng hoành tráng. Dòng tăng M1A1 Abrams như một con cá mập, tiến hóa đến chừng hoàn mỹ. Nó là vị vua không đối thủ của chốn sơn lâm. Chẳng có loại xe tăng nào khác trên thế giới này có khả năng làm nó sứt mẻ. Nó được bọc trong bộ giáp làm từ urani nghèo kẹp giữa các phiến thép cán. Bộ giáp cực dày và bất khả xâm phạm. Bom đạn chiến trường, lẫn tên lửa bắn tới đều bị nó hất văng đi. Nhưng chiêu ăn tiền của nó là biết đứng ở khoảng cách thật xa, nơi đạn chiến trường hay tên lửa đều không thể bắn tới. Nó ngồi yên đó, nhìn hỏa lực đối phương bay hết tầm và rơi lả tả xuống đất trước mặt. Rồi nó xoay nòng súng uy lực của mình và khai hỏa, và một giây sau, ở khoảng cách một dặm rưỡi, kẻ thù của nó nổ tung và bốc lửa ngùn ngụt. Đó mới thật là lợi thế tối thượng, vô cùng bất công.
Chiếc xe tăng dẫn đầu lăn bánh ngang qua chúng tôi. Ngang mười một feet, dài hai mươi sáu feet, cao chín feet rưỡi. Bảy chục tấn. Động cơ của nó rú lên, và trọng lượng của nó làm rung chuyển mặt đất. Bánh xích rít lên, rung lách cách rồi trườn qua mặt đường bê tông. Rồi đến chiếc thứ hai. Và chiếc thứ ba, thứ tư và thứ năm. Tiếng ồn đinh tai. Mùi sắt thép ngập ngụa không khí. Nòng súng của chúng chúc xuống rồi lắc lu rồi nẩy lên liên tục. Khói xả bao khắp xung quanh.
Tất thảy có tới hai chục chiếc xe tăng trong đội hình. Chúng lao qua cổng chính, và tiếng ồn cùng sự rung lắc dần biến mất sau lưng chúng tôi, và rồi một khoảng trống, theo sau là một chiếc xe trinh sát rẽ sương mờ tiến tới chúng tôi. Đó là một chiếc Humvee kiểu bắn-rồi-phắn, có trang bị tên lửa chống tăng TOW-2. Có hai người ngồi trên ấy. Tôi bước ra trước đầu xe rồi giơ một tay lên. Khựng lại. Tôi không quen Marshall và chỉ mới gặp hắn một lần, khi hắn ngồi trong bóng tối của chiếc xe Grand Marquis bên ngoài cổng chính trại Bird. Nhưng dù vậy, tôi khá chắc rằng cả hai gã ngồi trong xe đều không phải hắn. Tôi nhớ Marshall cao lớn và ngăm đen, còn hai gã này lại nhỏ người, vốn là đặc trưng của lính Thiết giáp. Một thứ mà xe tăng Abrams không đáp ứng được là không gian rộng rãi trong buồng lái.
Chiếc Humvee dừng lại ngay trước tôi, và tôi đảo một vòng tới bên cửa sổ xe ghế lái. Summer vòng qua đứng bên kia, tư thế thả lỏng. Tay tài xế hạ kính xuống. Lườm mắt nhìn tôi.
“Tôi đang tìm thiếu tá Marshall,” tôi bảo.
Tay tài xế và người đi cùng đều là đại úy. Cả hai đều mặc bộ chống cháy Nomex của lính xe tăng, với mũ trùm đầu hở mặt và mũ Kevlar chống đạn có gắn tai nghe. Gã ngồi trên ghế hành khách có đầy bút cắm trong túi áo. Hai bên đùi buộc bảng kẹp giấy. Tất cả đều chi chít những chữ. Có vẻ là một loại bảng điểm nào đó.
“Marshall không có ở đây,” tay tài xế đáp.
“Vậy anh ta ở đâu?”
“Ai đang hỏi vậy?”
“Anh có mắt mà,” tôi bảo. Tôi đang mặc bộ dã chiến ngày hôm qua. Chúng được thêu hình lá sồi trên cổ áo, với chữ Reacher trên bảng tên.
“Thuộc đơn vị nào?” gã hỏi.
“Anh không muốn biết đâu.”
“Marshall tới California rồi,” gã bảo. “Thuyên chuyển công tác khẩn cấp tới trại Irwin.”
“Từ bao giờ vậy?”
“Tôi không rõ.”
“Cố nhớ xem.”
“Lúc nào đêm qua thì phải.”
“Nói gì chung chung thế.”
“Thật tình tôi không rõ mà.”
“Có việc gì khẩn cấp tại trại Irwin vậy?”
“Cái đó tôi cũng không rõ luôn.”
Tôi gật đầu. Lùi lại.
“Đi đi,” tôi bảo.
Chiếc Humvee trườn đi giữa hai chúng tôi, rồi Summer bước tới cạnh tôi giữa đường. Không khí sặc mùi diesel và khói xả, còn mặt đường bê tông bị cào trắng xóa bởi bánh xích xe tăng đi qua.
“Chuyến này vô ích rồi sếp,” Summer nói.
“Chưa chắc,” tôi bảo. “Tùy vào thời điểm chính xác Marshall rời đi. Nếu như hắn đi sau cuộc gọi của Swan, thì tất có điều gì đó ở đây.”
Chúng tôi chạy tới lui qua ba văn phòng khác nhau, cố gắng tìm xem tay Marshall kia rời trụ sở Quân đoàn XII chính xác vào lúc nào. Chúng tôi lên tới một phòng lớn ở tầng hai nơi chuẩn tướng Vassell làm việc. Vassell không có ở đó. Tôi nói chuyện với một tay đại úy khác. Trông anh ta có vẻ là chỉ huy của một đại đội hành chính.
“Thiếu tá Marshall bắt chuyến bay dân sự vào lúc mười một giờ tối,” anh ta bảo. “Từ Frankfurt tới sân bay Dulles. Đợi bảy tiếng nối chuyên tới sân bay LAX tư sân bay National. Chính tay tôi cấp giấy đi đường.”
“Khi nào?”
“Ngay khi anh ta rời đi đó.”
“Là lúc mấy giờ?”
“Anh ta rời khỏi đây ba tiếng trước giờ bay.”
“Tám giờ?”
Tay đại úy gật đầu. “Tám giờ đúng.”
“Tôi được bảo là anh ta có lịch đi duyệt buổi thao tập ban đêm.”
“Có. Nhưng lịch thay đổi rồi.”
“Vì sao?”
“Tôi không rõ.”
Tôi không rõ có vẻ là câu cửa miệng của Quân đoàn XII thì phải.
“Ở trại Irwin có vụ gì khẩn cấp?” tôi hỏi.
“Tôi không rõ.”
Tôi cười vắn. “Lệnh của Marshall được gửi đến từ khi nào? “
“Lúc bảy giờ.”
“Bằng văn bản chứ?”
“Thông báo bằng miệng.”
“Từ ai?”
“Chuẩn tướng Vassell.”
“Có phải chính Vassell ký lệnh cấp giây đi đường không?”
Tay đại úy gật đầu.
“Phải,” anh ta đáp. “Ông ta ký đấy.”
“Tôi cần gặp ông ta,” tôi bảo.
“Ồng ta tới London rồi.”
“London ư?” tôi hỏi.
“Đến dự cuộc họp khẩn với Bộ Quốc phòng Anh quốc.
“Ông ta đi từ lúc nào?”
“Ông ta đến sân bay với thiếu tá Marshall.”
“Đại tá Coomer đâu rồi?”
“Berlin,” anh ta bảo. “Đi tìm đồ lưu niệm.”
“Để tôi đoán nhé,” tôi bảo. “Ông ta cũng cùng Vassell và Marshall tới sân bay luôn.”
“Không,” tay đại úy đáp. “Ông ta đi xe lửa.”
“Hay tuyệt,” tôi nói.
Summer và tôi đến phòng ăn sĩ quan ăn sáng. Chúng tôi ngồi vào chiếc bàn tối qua. Chúng tôi ngồi cạnh nhau, lưng đối tường, quan sát căn phòng.
“OK,” tôi bảo. “Văn phòng của Swan gọi hỏi tung tích Marshall vào sáu giờ mười, và năm mươi phút sau hắn có lệnh tới trại Irwin. Một tiếng sau đó hắn rời trại.”
“Và Vassell tới London,” Summer nói. “Còn Coomer đáp xe lửa tới Berlin.”
“Chuyến tàu đêm,” tôi bảo. “Ai lại đi tàu đêm chỉ vì hứng chí thôi chứ?”
“Ai cũng có điều muốn giấu,” cô đáp.
“Ngoại trừ tôi và con khỉ của tôi.”
“Gì cơ?”
“Bài hát của Beatles đó,” tôi bảo. “Một trong những âm thanh của thế kỷ này đó.”
Cô nhìn tôi trân trân.
“Họ đang giấu điều gì nhỉ?” cô hỏi.
“Cô nói tôi nghe xem.”
Cô đặt tay lên bàn, úp tay xuống. Hít một hơi.
“Tôi đoán được đôi điều,” cô nói.
“Tôi cũng vậy.”
“Bản chương trình nghị sự,” cô bảo. “Nó là mặt kia của đồng xu, từ những gì mà trung tá Simon đã kể tối qua. Simon thao thao bất tuyệt về việc bộ binh sẽ hạ bệ Thiết giáp. Chắc Kramer đã thấy trước điều đó rồi. Tướng hai sao đâu có khờ. Nên hội nghị ở trại Irwin vào ngày mồng một có thể là buổi bàn phương án đối phó. Kế hoạch kháng cự, tôi đoán vậy. Họ đâu muốn buông bỏ vị thế đang có.”
“Ghế ấm như vậy sao bỏ được,” tôi nói.
“Chắc chắn là vậy rồi,” cô bảo. “Giống những thuyền trưởng tàu chiến năm xưa vậy.”
“Vậy thì có gì trong chương trình nghị sự?”
“Vừa thủ, vừa công,” cô nói. “Đó là phương án hiển nhiên. Phản đối các đơn vị phối hợp, chê bôi xe thiết giáp hạng nhẹ, và bào chữa quyết liệt chuyên môn của mình.”
“Tôi đồng ý,” tôi bảo. “Nhưng chưa đủ. Lầu Năm Góc sẽ sớm ngập ngụa trong hàng mớ giấy tờ tranh cãi đề tài đó, chỉ vài ngày nữa thôi. Thuận, chống, nhưng nhị, cơ mà, vả lại, ta sẽ chết ngán nếu đâm đầu vào đó. Nhưng trong bản chương trình nghị sự đó còn một điều gì khác khiến bọn họ phải vội vàng đi tìm và thu hồi bản sao mà Kramer đang giữ. Đó là gì?”
“Tôi chịu.”
“Tôi cũng vậy,” tôi nói.
“Và vì sao bọn họ lại bỏ chạy tối qua?” Summer hỏi. “Đến bây giờ, chắc họ đã thủ tiêu bản sao của Kramer và tất cả các bản sao khác rồi. Họ đã có thể nói dối trắng trợn, để ta đỡ đau đầu. Họ còn có thể đưa ta một văn bản giả mạo nữa. Họ có thể nói, Đây nè, chỉ có vậy thôi, đọc đi.”
“Bọn họ bỏ chạy vì bà Kramer,” tôi bảo.
Cô gật đầu. “Tôi vẫn nghĩ chính Vassell và Coomer đã hạ sát bà ta. Kramer chết, bóng vào sân bọn họ, đẩy họ vào thế phải truy tìm và thu hồi mọi văn bản lưu lạc. Bà Kramer chỉ là thiệt hại phát sinh.”
“Hợp lý lắm,” tôi nói. “Duy chỉ có điều là tôi thấy cả hai bọn họ đều chẳng có ai cao to khỏe mạnh gì cho cam.”
“Bọn họ cao và khỏe hơn bà Kramer mà. Vả lại, sếp biết đấy, lúc dầu sôi lửa bỏng, tay chân cuống quýt, có thể kết quả khám nghiệm ta thấy bị nhập nhằng. Và ta cũng đâu rõ người ở Green Valley có giỏi chuyên môn hay không. Có thể tay khám nghiệm kia vốn chỉ là một bác sĩ gia đình được chọn làm khám nghiệm, người như vậy thì biết quái gì chứ?”
“Có thể vậy,” tôi bảo. “Nhưng tôi vẫn không thấy làm sao họ gây án được. Trừ thời gian đi từ Thủ đô, trừ mười phút đi tìm cửa tiệm dụng cụ và cướp thanh xà beng, họ chỉ còn mười phút để phản ứng. Và họ cũng đâu đi xe hay gọi một chiếc đâu.”
“Họ bắt taxi được mà sếp. Hoặc thuê xe trong phố. Từ quầy lễ tân khách sạn. Và thế thì ta làm sao dò ra nổi. Đêm Giao thừa, đêm tấp nập nhất trong năm nữa.”
“Hẳn là một chuyến đi dài,” tôi bảo. “Phí xe rất cao. Có thể tay tài xế kia sẽ nhớ.”
“Đêm Giao thừa,” cô lặp lại. “Taxi Thủ đô hay xe thuê trong phố có khi đi khắp ba tiểu bang không biết chừng. Đủ những địa chỉ quái lạ. Đó cũng là một khả năng mà.”
“Tôi không nghĩ vậy,” tôi bảo. “Cô làm sao thuê taxi đi một chuyến mà trong đó cô hết cướp tiệm dụng cụ đến đột nhập nhà riêng được.”
“Có khi tay tài xế không thấy gì đâu. Vassell hoặc Coomer hoặc cả hai có thể đã đi bộ vào con hẻm Sperryville đó. Trở ra năm phút sau với thanh xà beng giấu trong áo. Đến nhà Kramer cũng vậy. Xe taxi có thể đã bị bắt đậu ngoài vỉa hè. Toàn bộ hành động xảy ra ở nhà sau mà.”
“Liều lĩnh quá. Một tay tài xế Thủ đô cũng đọc cùng loại báo với mọi người mà. Có khi còn nhiều hơn, ví như lúc kẹt xe ấy. Anh ta đọc thấy mẩu tin từ Green Valley, rồi nhớ lại hai vị hành khách kia.”
“Họ đâu nghĩ thế là liều lĩnh. Họ đâu nghĩ sẽ có báo chí gì. Vì họ tưởng bà Kramer vắng nhà. Họ tưởng bà ta đang ở bệnh viện. Và họ nghĩ vài mẩu tin trộm cắp lặt vặt từ Sperryville lẫn Green Valley đâu thể nào lên được báo Thủ đô.”
Tôi gật đầu. Nhớ lại lời thanh tra Clark đã nói, cách đây vài ngày. Tôi có cho người đi khắp khu phố dò hỏi. Có vài chiếc xe quanh đó.
“Có thể,” tôi bảo. “Có thể ta nên kiểm tra hãng taxi.”
“Đêm tệ nhất trong năm,” Summer nói. “Đối với chứng cứ ngoại phạm.”
“Đúng là kinh thật,” tôi bảo. “Nhỉ? Dám bắt taxi đi làm một chuyện như vậy?”
“Thần kinh bằng thép mới dám làm.”
“Nếu họ có thần kinh thép, vậy cớ gì phải bỏ chạy đêm qua?”
Cô im lặng hồi lâu.
“Thật chả hiểu gì cả,” cô nói. “Vì họ đâu có chạy mãi được. Họ biết điều đó chứ. Họ phải biết chẳng sớm thì muộn mình cũng phải quay đầu lại chống trả.”
“Tôi đồng ý. Và họ lẽ ra nên làm vậy tại đây. Ngay lúc này. Đây là lãnh thổ của họ. Tôi không hiểu sao họ lại không làm vậy.”
“Nếu có thì đó cũng là một cuộc chống trả ra trò. Cả cuộc đời binh nghiệp của họ treo sợi tóc. Sếp nên thật cẩn thận thì hơn.”
“Cô cũng vậy,” tôi bảo. “Không chỉ mình tôi đâu.”
“Tấn công là cách phòng ngự tốt nhất mà.”
“Đồng ý,” tôi nói.
“Vậy ta đuổi theo họ chứ?”
“Chơi tới cùng luôn.”
“Ai trước đây?”
“Marshall,” tôi nói. “Hắn là người tôi muốn bắt.”
“Vì sao?”
“Kinh nghiệm thôi,” tôi bảo. “Đuổi theo kẻ được họ gửi đi xa nhất, vì họ thấy hắn là mắt xích yếu nhất.”
“Ngay bây giờ ư?” cô hỏi.
Tôi lắc đầu.
“Ta đến Paris đã,” tôi nói. “Tôi phải thăm mẹ.”