HAI MƯƠI
Chúng tôi trở lại con đường quen thuộc tối quảng trường Place de 1’Opéra, và đón xe buýt tới sân bay. Đó là lần thứ sáu tôi đáp chuyến xe ấy trong khoảng một tuần. Lần thứ sáu đây chẳng dễ chịu hơn năm lần trước là bao. Nhờ sự không thoải mái ấy mà tôi mới ngộ ra vài điều.
Chúng tôi xuống xe ở ga đi quốc tế, rồi tìm quầy vé hãng Air France. Đổi thêm hai tờ giấy đi đường nữa lấy hai ghế tới sân bay Dulles, vào chuyến bay sáng lúc mười một giờ. Vì vậy mà chúng tôi phải đợi một lúc lâu. Chúng tôi thả hành lý xuống phòng đợi, rồi tiến ra quầy bar. Summer không nói gì. Tôi đoán cô không nghĩ ra đề tài gì để nói. Nhưng sự thật là, lúc đến sân bay tâm trạng tôi rất ổn. Cuộc đời trải ra với tôi như nó vẫn làm với bao người. Chẳng sớm thì muộn, anh sẽ mồ côi. Chẳng cách nào trốn được. Chuyện vẫn như vậy suốt cả ngàn thế hệ rồi. Buồn bã chẳng có ích gì cả.
Chúng tôi uống vài chai bia rồi tìm nơi để ăn. Tôi đã lỡ bữa sáng và trưa rồi, và tôi đoán Summer cũng chưa có gì bỏ bụng. Chúng tôi đi qua vài tiệm miễn thuế rồi thấy một nơi được trang trí như quán ăn ven đường. Chúng tôi dốc hết số tiền còn lại, nhìn thực đơn và tính được một phần ăn cho mỗi người, thêm một ly hoa quả ép cho cô, cà phê cho tôi, và chút tiền boa cho người bồi. Chúng tôi gọi món bít tết kiểu Pháp, mà hóa ra là một miếng thịt với khoai tây cọng dài và xốt mayonnaise, khá ngon. Pháp ở đâu cũng có đồ ăn ngon. Ngay cả tại sân bay nữa.
Chừng một tiếng sau chúng tôi ra tới cổng bay. Chúng tôi đến khá sớm, khi nơi ấy còn vắng tanh. Chỉ vài hành khách nối chuyến, hoặc đã mua quá nhiều đồ, hoặc rỗng túi như chúng tôi. Chúng tôi ngồi cách họ khá xa, nhìn vào khoảng không.
“Quay về thấy buồn thật,” Summer lên tiếng. “Đi xa thì không thấy rắc rối ở quanh mình nữa.”
“Ta chỉ cần có kết quả điều tra,” tôi bảo.
“Ta không tìm được đâu. Đã mười ngày trôi qua mà chúng ta vẫn giậm chân tại chỗ.”
Tôi gật đầu. Đã mười ngày từ khi bà Kramer chết, sáu ngày từ khi Carbone chết. Năm ngày trong thời hạn một tuần mà đội Delta cho phép để tôi tự thanh minh.
“Ta không có gì trong tay,” Summer nói. “Cả manh mối nhỏ nhất cũng không. Ta còn chưa tìm được ả đàn bà chạy trốn khỏi quán trọ của Kramer nữa. Việc ấy đâu thể khó đến vậy.”
Tôi gật đầu. Cô nói đúng. Việc ấy đâu thể khó đến vậy.
Chúng tôi lên máy bay bốn chục phút trước giờ khởi hành. Summer và tôi ngồi sau một cặp đôi cao tuổi bên cửa thoát hiểm. Tôi ước gì mình được đổi chỗ với họ. Tôi cần lắm một chỗ duỗi chân. Chúng tôi cất cánh đúng giờ, và tôi dành một tiếng đầu tiên bức bách vô cùng. Nữ tiếp viên mời tôi một món có muốn cũng chẳng ăn nổi, vì tôi đâu có đủ chỗ cựa quậy cùi chỏ để dùng dao nĩa.
Dòng suy nghĩ này nối tiếp dòng kia trong đầu tôi.
Tôi nghĩ về chuyến bay đêm trước của anh Joe. Chắc anh đã đi hạng phổ thông. Rõ ràng vậy rồi. Công chức bay đi lo việc riêng ai cũng thế. Hẳn anh đã bị tù túng và khó chịu thâu đêm, hơn tôi một chút vì anh cao hơn tôi ba phân. Nên tôi lại thấy có lỗi khi nhét anh lên chuyến xe buýt vào thành phố hôm kia. Tôi nhớ lại hàng ghế nhựa cứng ngắc, và kiểu ngồi co rúm của anh, lẫn cách đầu anh hết ngả qua bên này tới bên kia theo nhịp xe. Tôi đáng lẽ phải bắt một xe taxi trong thành phố rồi bắt nó chờ trên vỉa hè. Lẽ ra tôi đã phải có cách nào đó để vun đủ tiền chứ.
Dòng suy nghĩ này nối tiếp dòng kia trong đầu tôi.
Tôi tưởng tượng Kramer và Vassell và Coomer bay đi từ Frankfurt trong đêm Giao thừa. Hãng American Airline. Trên một chiếc Boeing. Cũng chẳng rộng rãi hơn các chiếc khác là bao. Khởi hành sớm từ trụ sở Quân đoàn XII. Một chuyến bay dài tới sân bay Dulles. Tôi tưởng tượng bọn họ bước xuống máy bay, người cứng ngắc, khó thở, khát nước, và bức bối vô cùng.
Dòng suy nghĩ này nối tiếp dòng kia trong đầu tôi.
Tôi lấy hóa đơn của khách sạn George V từ túi áo. Mở phong bì. Đọc qua nó. Đọc qua nó lần nữa. Kiểm tra từng dòng, và từng mục.
Tiền khách sạn, máy bay, chuyến buýt vào thành phố.
Tiền chuyến buýt vào thành phố, máy bay, tiền khách sạn.
Tôi nhắm nghiền mắt.
Tôi nghĩ về những điều mà Sanchez, viên sĩ quan phụ tá đội Delta, thanh tra Clark, Andrea Norton và chính Summer đã nói với tôi. Tôi nghĩ về dòng người đón, đưa chúng tôi đã thấy ngoài sảnh đợi của sân bay Roissy-Charles de Gaulle. Tôi nghĩ về Sperryville, Virginia. Tôi nghĩ về căn nhà của bà Kramer ở Green Valley.
Cuối cùng, dãy quấn domino đổ xuống tung tóe, thành một đống bầy hầy làm xấu mặt tất cả những kẻ liên quan. Nhất là tôi, vì tôi đã phạm vô số sai lầm, kể cả sai lầm to nhất mà tôi đoán sẽ sớm quay lại hại tôi.
Tôi cứ loay hoay dằn vặt sai lầm cũ của mình mà để bản thân mắc thêm một lỗi mới. Tôi cứ suy nghĩ mãi về quá khứ mà không chịu nhìn tới tương lai. Về những bước phản đòn. Về điều đang đợi tôi ở sân Dulles. Chúng tôi hạ cánh lúc hai giờ sáng, bước qua khỏi khu hải quan, và lao ngay vào một cái bẫy mà lão Willard đã đặt sẵn.
Đứng ngay tại nơi mà họ từng đứng cách đó sáu ngày, vẫn là ba viên sĩ quan chuẩn úy từ ván phòng tổng chỉ huy trưởng. Hai sĩ quan cấp 3 và một sĩ quan cấp 4. Tôi thấy họ. Họ thấy chúng tôi. Tôi mất một giây ngơ ngác không hiểu lão Willard đã làm thế quái nào được vậy. Chẳng nhẽ lão đặt người gác ở mỗi sân bay trong nước suốt ngày suốt đêm hay sao? Chẳng nhẽ lão lần theo giấy đi đường của chúng tôi khắp châu Âu sao? Lão có thể tự làm được ư? Hay có sự can thiệp của FBI? Hay Bộ Lục quân? Hay Bộ Ngoại giao? Hay Interpol? Hay NATO? Tôi chịu. Tôi ngán ngẩm nhủ thầm một ngày mình phải tìm cho ra.
Rồi tôi dành một giây quyết định xem nên xử lý tình huống này thế nào.
Kéo dài thời gian là không thể. Bây giờ thì không. Trong tay lão Willard thì không. Tôi cần được tự do đi lại, và tự do hành động trong vòng hăm bốn tới bốn mươi tám tiếng nữa. Rồi tôi sẽ tới gặp lão Willard. Tôi sẽ vui vẻ gặp lão. Bởi vì lúc đó tôi đã có đủ bằng cớ để cho lão vài cái bạt tai và bắt giữ lão rồi.
Viên sĩ quan cấp 4 bước tới gặp chúng tôi, hai tay cấp 3 kia theo sau.
“Tôi có lệnh phải tra còng hai vị,” hắn bảo.
“Quên lệnh đó đi,” tôi đáp.
“Không được,” hắn nói.
“Thử đi.”
“Không được,” hắn lặp lại.
Tôi gật đầu.
“Được rồi, giờ hai ta thỏa thuận nhé,” tôi nói. “Cậu tra còng tôi, tôi sẽ bẻ tay cậu. Cậu dẫn chúng tôi ra xe, chúng tôi sẽ im lặng đi theo.”
Hắn nghĩ một chút. Hắn được trang bị vũ khí. Người của hắn cũng vậy. Nhưng chẳng ai muốn bắn nhau giữa sân bay cả. Nhất là với đồng nghiệp cùng đội. Thế thì cắn rứt lương tâm lắm. Và sau còn phải báo cáo lôi thôi nữa. Mà hắn cũng đâu muốn dùng nắm đấm. Ba chọi hai sao được. Tôi quá to, còn Summer thì quá nhỏ để gọi là công bằng.
“Thỏa thuận vậy nhé?” hắn hỏi.
“Đồng ý,” tôi nói dối.
“Vậy đi thôi.”
Lần trước hắn đi phía trước tôi, còn hai tay cấp 3 đây áp sát bên vai. Tôi đã rất mong bọn họ sẽ lặp lại đội hình ấy. Tôi đoán hai tay cấp 3 này nghĩ mình dữ dằn lắm, mà có lẽ bọn họ nghĩ vậy cũng chẳng sai, nhưng chính gã cấp 4 kia mới khiến tôi dè chừng. Trông hắn dữ dằn thật. Nhưng hắn đâu có mắt gắn sau ót. Nên tôi mong hắn sẽ đi đằng trước mình.
Và hắn làm vậy thật. Summer và tôi đi cạnh nhau, tay xách hành lý, còn hai tay cấp 3 kia vòng ra đằng sau chúng tôi theo đội hình đầu nhọn mũi tên. Viên cấp 4 kia dẫn đầu. Chúng tôi đi qua cửa vào trời lạnh. Quẹo qua khu vực riêng mà lần trước họ đỗ xe. Lúc ấy đã hơn hai giờ sáng, và đường tới sân bay vắng tanh. Đèn trên các cột điện hắt xuống mặt đất từng cụm ánh sáng vàng lẻ loi. Trời mưa lất phất. Mặt đất ướt nhoét.
Chúng tôi đi qua bãi xe công cộng, qua vạch chia đường nơi dựng trạm xe buýt. Chúng tôi hướng tới vùng tối đèn. Tôi thấy một gara đỗ xe bên mé trái và một chiếc Chevy Caprice đậu mé phải. Chúng tôi đi tới chỗ chiếc xe. Đi giữa đường xe chạy. Nếu là giờ khác trong ngày thì hẳn chúng tôi đã bị xe cộ cán nát nhừ. Nhưng lúc ấy xung quanh rất tĩnh lặng và im ắng. Hơn hai giờ sáng mà.
Tôi thả túi xuống rồi dùng cả hai tay đẩy Summer ra một bên. Đứng nguyên đó giật cùi chỏ phải ra sau thụi vào giữa mặt tên cấp 3 bên tay phải. Trụ vững chân rồi xoay người như đang vặn mình và thụi tên cấp 3 bên tay trái bằng cùi chỏ trái. Rồi tôi lao tới tên cấp 4 đang xoay đầu theo hướng tiếng động và xông đến tôi. Tôi thụi một đấm trái vào giữa ngực hắn. Tôi đang theo đà và hắn cũng đang theo đà nên hắn trúng một đòn khá mạnh. Tôi tiếp luôn một cú móc phải vào cằm hất hắn ngã vật ra đất. Xoay lại nhìn xem bọn cấp 3 kia ra sao. Cả hai đều nằm đo ván trên đất. Mặt họ vương chút máu. Mũi gãy, răng lung lay. Kinh hoàng và bất ngờ tột độ. Một cuộc đột kích tuyệt hảo. Tôi rất hài lòng. Họ khá đấy, nhưng tôi giỏi hơn. Tôi kiểm tra tên cấp 4 kia. Hắn không cựa quậy gì nhiều. Tôi ngồi xuống bên hai gã cấp 3 rồi lấy hai khẩu Beretta ra khỏi bao súng của họ. Rồi tôi xoay lại lấy khẩu súng của tên cấp 4. Móc cả ba khẩu lại bằng ngón trỏ. Rồi tôi lấy tay kia tìm chìa khóa xe. Tên cấp 3 bên tay phải để chìa khóa trong túi áo. Tôi thảy cho Summer. Cô đã kịp đứng dậy. Trông cô hơi hoảng.
Tôi đưa cô ba khẩu Beretta rồi nắm cổ lôi tên cấp 4 kia tới trạm xe buýt gần nhất. Rồi tôi trở lại kéo theo hai gã cấp 3, mỗi gã một tay. Tôi đặt họ nằm úp mặt xuống đất. Họ vẫn còn tỉnh, nhưng lảo đảo. Một đòn mạnh đánh vào đầu ở ngoài đời gây chấn động mạnh hơn trên phim ảnh nhiều. Và tôi cũng đang thở dốc. Gần như hụt hơi. Chất adrenaline đang lan tỏa. Một dạng phản ứng chậm. Đánh nhau tác động đến cả hai bên.
Tôi quỳ xuống bên cạnh tên cấp 4.
“Tôi xin lỗi nhé,” tôi bảo. “Nhưng vì cậu ngáng đường tôi.” Hắn không đáp. Chỉ chằm chằm nhìn tôi. Tức giận, ngạc nhiên, lòng kiêu hãnh bị tổn thương, và cả bối rối.
“Giờ nghe đây,” tôi nói. “Nghe thật kỹ. Các cậu chưa từng thấy chúng tôi. Chúng tôi không có ở đây. Chúng tôi chưa từng tới đây. Các anh đợi cả tiếng, nhưng chẳng thấy chúng tôi đâu cả. Các anh trở về và bị thằng trộm nào đó cuỗm mất xe. Đó là việc đã xảy ra, OK?”
Hắn cố nói gì đó, nhưng không ra câu từ gì nghe được.
“Tôi hiểu mà,” tôi bảo. “Các cậu sợ nói vậy nghe kém cỏi và ngớ ngẩn lắm phải không. Nhưng so với việc để sổng mất chúng tôi thì thế có là gì? So với việc các cậu không tra còng chúng tôi theo lệnh, đúng không?”
Hắn không đáp.
“Câu chuyện của các cậu là vậy đó,” tôi bảo. “Chúng tôi không xuất hiện, và xe các cậu bị ăn cắp. Nếu không tôi sẽ khai rằng các cậu bị chính cô trung úy kia nện ra trò. Một cô gái nặng có bốn mươi cân. Một chọi ba. Người ta sẽ thích chuyện đó lắm. Sẽ phát rồ lên cho mà xem. Mà cậu biết rồi đấy, tin đồn sẽ theo ta suốt đời.”
Hắn im lặng.
“Tùy cậu,” tôi bảo.
Hắn nhún vai. Không đáp.
“Tôi xin lỗi,” tôi nói. “Thành thực đấy.”
Chúng tôi để họ ở đó, rồi lấy hành lý và chạy tới xe của họ. Summer mở khóa xe, chúng tôi trườn vào trong, rồi cô nổ máy. Vào số rồi lái ra khỏi vỉa hè.
“Đi chậm thôi,” tôi bảo.
Tôi đợi đến khi chúng tôi ra trạm xe buýt rồi hạ cửa sổ ném ba khẩu Beretta của họ xuống vỉa hè. Câu chuyện bịa kia của họ sẽ không đáng tin nếu họ mất cả vũ khí lẫn xe. Ba khẩu súng văng tới gần họ, và cả ba đồng loạt nhỏm dậy mà bò tới chỗ chúng.
“Giờ đi thôi,” tôi bảo.
Summer đạp mạnh ga, bánh xe rít lên và một giây sau chúng tôi đã phóng ra khỏi tầm bắn của súng. Cô giữ chân ga, rồi chúng tôi rời sân bay với vận tốc chín mươi dặm một giờ.
“Em ổn chứ?” tôi hỏi.
“Tới giờ vẫn không sao,” cô đáp.
“Xin lỗi đã đẩy em mạnh quá.”
“Ta chỉ cần chạy thôi mà,” cô bảo. “Ta có thể cắt đuôi được họ trong sân bay.”
“Ta cần một chiếc xe,” tôi nói. “Anh ngán xe buýt tới tận cổ rồi.”
“Nhưng giờ thì ta vượt quá giới hạn rồi.”
“Hẳn là vậy rồi,” tôi đáp.
Tôi kiểm tra đồng hồ. Lúc ấy đã gần ba giờ sáng. Chúng tôi đang đi về hướng Nam từ sân Dulles. Chẳng đi đến đâu, mà đi rất nhanh. Đi trong bóng tối. Chúng tôi cần một điểm đến.
“Em biết số văn phòng anh ở trại Bird không?” tôi hỏi.
“Có chứ,” Summer đáp.
“OK, tới chỗ nào có điện thoại thì dừng xe.”
Cô thấy một trạm xăng thâu đêm chừng năm dặm sau. Nó thắp đèn sáng rực từ phía chân trời. Chúng tôi rẽ vào xem thử. Phía sau khu đổ xăng là một tiệm tạp hóa, nhưng nó đã đóng cửa. Buổi đêm thì anh phải trả tiền xăng qua cửa sổ gắn kính chống đạn. Bên ngoài cạnh máy bơm có đặt một bốt điện thoại trả xu. Nó là một hộp nhôm gắn trên tường. Hai bên thành hộp có vết lỗ khoan thành hình điện thoại. Summer gọi điện tới văn phòng tôi tại trại Bird rồi đưa tôi ống nghe. Tôi nghe một hồi chuông đổ, rồi cô trung sĩ của tôi đáp máy. Cô trung sĩ trực đêm. Cô trung sĩ có đứa con trai ấy.
“Tôi Reacher đây,” tôi nói.
“Sếp ngập đầu trong đống phân rồi đó,” cô bảo.
“Đấy mới là tin tốt thôi,” tôi đáp.
“Vậy tin xấu là gì?”
“Cô sẽ nhảy xuống đó cùng tôi ngay thôi. Cô có nhờ ai trông cháu ở nhà không?”
“Tôi nhờ con bé hàng xóm trông hộ. Nó ở nhà xe moóc bên cạnh.”
“Nó có ở lại thêm chừng một tiếng được không?”
“Vì sao?”
“Vì tôi muốn cô gặp tôi. Tôi muốn nhờ cô đem cho tôi vài thứ.”
“Sếp bù tiền nhé.”
“Bao nhiêu?”
“Hai đô la một giờ. Cho con bé trông trẻ.”
“Tôi làm gì có hai đô la. Bởi vậy mới nhờ cô mang cho. Tiền ấy.”
“Sếp muốn tôi cho sếp tiền sao?”
“Vay thôi,” tôi bảo. “Trong vài ngày tới.”
“Bao nhiêu?”
“Cô có bao nhiêu tôi vay bấy nhiêu.”
“Khi nào và ở đâu?”
“Ngay khi cô nghỉ trực. Sáu giờ. Tại quán ăn gần quán thoát y.”
“Sếp cần tôi mang theo những gì?”
“Danh sách,” tôi bảo. “Toàn bộ cuộc gọi đi từ trại Bird bắt đầu từ nửa đêm Giao thừa tới mồng ba tháng Giêng. Và một cuốn danh bạ điện thoại quân đội. Tôi cần gọi cho Sanchez và Franz và đủ người khác. Tôi cần tập hồ sơ cá nhân của thiếu tá Marshall. Thằng cha từ Quân đoàn XII đó. Tôi cần cô lấy một bản sao được fax tới từ nơi khác.”
“Còn gì nữa không sếp?”
“Tôi muốn biết nơi Vassell và Coomer đậu xe khi họ xuống đó ăn tối hôm mùng bốn. Tôi muốn cô tìm xem có ai để ý không.”
“OK,” cô đáp. “Chỉ vậy thôi phải không sếp?”
“Không,” tôi nói. “Tôi muốn biết thiếu tá Marshall đã ở đâu trong ngày mồng hai và ba. Hỏi dò nhân viên phát giấy đi đường ở trại nào đó, xem có ai phát tờ nào không. Và tôi cần số điện thoại của khách sạn Jefferson ở Thủ đô.”
“Ba tiếng đồng hồ mà sếp giao quá trời việc vậy.”
“Nên tôi mới nhờ cô, thay vì nhờ thằng cha trực ngày kia. Cô giỏi hơn hắn ta mà.”
“Dẹp đi,” cô bảo. “Nịnh nọt không ăn thua với tôi đâu.”
“Không thử sao biết được,” tôi đáp.
Chúng tôi trở vào xe rồi tiếp tục lên đường. Nhắm hướng Đông tới cao tốc I-95. Tôi bảo Summer lái chậm. Nếu không thì với tốc độ của cô trên đường vắng giữa đêm thế này, chúng tôi sẽ tới quán án kia trước cả cô trung sĩ của tôi, mà tôi lại không muốn thế. Cô trung sĩ của tôi sẽ tới nơi vào tầm sáu giờ rưỡi. Tôi muốn tới đó sau cô một chút, chừng sáu giờ bốn mươi. Tôi muốn xem xem cô có bỏ ngoài tai lệnh của tôi, mà phản lại, phụ họ giăng bẫy mai phục chúng tôi hay không. Dù khó xảy ra, nhưng không phải không thể. Tôi muốn xe chạy ngang qua kiểm tra. Tôi không muốn tới đó ngồi yên uống cà phê, rồi bất thình lình lão Willard xuất hiện.
“Sao anh lại cần hết mấy thứ đó?” Summer hỏi.
“Anh biết chuyện gì đã xảy ra với bà Kramer,” tôi bảo.
“Bằng cách nào?”
“Anh nghĩ ra thôi,” tôi nói. “Đáng lẽ anh phải nhìn ra được ngay từ đầu. Nhưng lúc ấy anh không chịu nghĩ. Anh chưa đủ sức tưởng tượng.”
“Chỉ tưởng tượng thôi đâu có đủ.”
“Có chứ,” tôi bảo. “Nhiều khi chỉ cần có vậy. Nhiều khi một điều tra viên chỉ cần làm thế mà thôi. Chỉ cần tưởng tượng xem người ta đã làm gì. Tưởng tượng ra suy nghĩ và hành động của họ. Em phải biết đặt mình vào vị thế của họ.”
“Vị thế của ai?”
“Của Vassell và Coomer,” tôi nói. “Ta biết họ là ai. Ta biết họ là người thế nào. Suy ra ta có thể đoán họ đã làm gì.”
“Thế họ đã làm gì?”
“Họ đã khởi hành từ sớm, rồi bay cả ngày từ Frankfurt. Trong đêm Giao thừa. Họ mặc quân phục nghi lễ, cố tìm cách tăng hạng ghế máy bay. Có thể họ thành công, trên chuyến bay American Airline ra khỏi Đức. Có thể họ không thành công. Dù thế nào đi nữa, họ chẳng thể hy vọng quá nhiều vào việc đó. Họ vẫn phải chuẩn bị tinh thần ngồi bay tám tiếng trong khoang phổ thông.”
“Thì sao?”
“Người như Vassell hay Coomer chẳng nhẽ lại chịu xếp hàng đợi taxi ở sân bay Dulles sao? Hay bắt xe buýt vào thành phố ư? Chịu ngồi trong thế bí bách, tù túng đến vậy sao?”
“Không,” Summer đáp. “Họ sẽ chẳng chịu cả hai việc ấy.”
“Chính xác,” tôi bảo. “Họ sẽ chẳng chịu cả hai việc ấy. Họ quá quan trọng để mà chịu như vậy. Họ còn chẳng thèm nghĩ tới việc ấy nữa. Cả triệu năm nữa cũng không. Người như vậy, thường ưa được có xe đưa người rước.”
“Vậy là ai?”
“Marshall,” tôi bảo. “Còn ai nữa. Hắn là tay chạy việc cưng của họ mà. Hắn đã tới đó từ trước, sẵn sàng đợi lệnh của họ. Hắn hẳn đã đón họ ở sân bay. Có khi cả Kramer nữa. Kramer mà chịu bắt xe buýt Hertz kia tới bãi xe thuê sao? Anh không nghĩ thế đâu. Anh đoán Marshall đã chở gã tới đó. Rồi chở Vassell và Coomer tới khách sạn Jefferson.”
“Và gì nữa?”
“Và hắn ở lại với họ chứ gì nữa, Summer. Anh đoán hắn đã đặt trước phòng. Có lẽ họ muốn hắn túc trực để còn tiện chở họ tới sân bay National vào sớm hôm sau. Dù sao hắn cũng phải đi theo họ mà. Hắn cũng tới trại Irwin luôn. Hoặc có thể họ chỉ muốn nói chuyện với hắn, khẩn cấp. Chỉ ba người họ, Vassell, Coomer và Marshall. Có lẽ không có Kramer nói chuyện dễ hơn. Và Marshall có đủ thứ để kể. Nhiệm vụ biệt phái tạm thời của hắn đã bắt đầu vào tháng Mười một. Chính em kể anh vậy mà. Tháng Mười một là khi Bức Tường Berlin bắt đầu sập. Tháng Mười một là lúc tín hiệu báo nguy bắt đầu kéo tới. Nên họ đẩy hắn tới đây từ tháng Mười một để tiện nghe ngóng trong Lầu Năm Góc. Anh đoán thế. Nhưng dù sao, Marshall vẫn ở cả đêm với Vassell và Coomer trong khách sạn Jefferson. Anh chắc chắn vậy.”
“OK, rồi sao nữa?”
“Marshall đang ở khách sạn, còn xe để trong bãi đỗ. Và em biết gì không? Anh đã kiểm tra hóa đơn của mình ở Paris. Thứ gì ở đó cũng giá cắt cổ. Đặc biệt là cước điện thoại. Nhưng không phải với tất cả các cuốc gọi. Các cuộc điện thoại từ phòng này qua phòng kia không có trong hóa đơn. Em gọi anh vào lúc sáu giờ, hỏi về bữa tối. Rồi anh gọi em lúc nửa đêm, vì anh cô đơn. Những cuộc gọi đó đều không có trong hóa đơn. Nhấn số ba rồi nhập số phòng, gọi miễn phí. Nhấn chín rồi nhập số là máy tính bắt đầu tính cước. Hóa đơn của Vassell và Coomer đều không ghi cước điện thoại, nên ta tưởng họ không gọi cuộc nào. Nhưng họ có gọi. Rõ ràng là vậy. Họ gọi số nội bộ. Phòng này qua phòng kia. Vassell nhận tin nhắn từ Quân đoàn XII tại Đức, rồi gọi qua phòng Coomer bàn xem phải làm cái quái gì với tình huống đó. Rồi một trong hai bốc máy gọi qua phòng Marshall. Họ gọi tay chạy việc cưng của mình rồi bảo hắn chạy xuống nhảy vào xe.”
“Chính Marshall làm sao?”
Tôi gật đầu. “Họ cử hắn đi trong đêm để dọn dẹp mớ hỗn độn của họ.”
“Ta có bằng chứng gì không?”
“Ta có thể bắt đầu tìm,” tôi nói. “Anh cá em ba điều. Đầu tiên, ta gọi khách sạn Jefferson và sẽ tìm thấy phòng đứng tên Marshall vào hôm Giao thừa. Thứ hai, hồ sơ lý lịch của Marshall sẽ nói rằng hắn từng sống ở Sperry Ville, Virginia. Và thứ ba, hồ sơ của hắn sẽ khai rằng hắn to cao, và thuận tay phải.”
Cô im lặng. Mí mắt bắt đầu hấp háy.
“Vậy thôi đã đủ chưa?” cô hỏi. “Liệu kết quả cho vụ bà Kramer có đủ giải hạn cho ta không?”
“Còn nhiều nữa,” tôi đáp.
Lúc ấy tôi như thể đang lạc vào một vũ trụ song song nào đó, khi nhìn Summer lái xe thật chậm. Chúng tôi trôi trên cao tốc trong khi thế giới ngoài kia lướt qua chậm rãi ngoài cửa sổ. Tiếng động cơ to lớn của chiếc Chevy rất khẽ. Bánh xe không rít lên. Chúng tôi tạt qua những nơi quen thuộc. Tòa nhà Sở Cảnh sát bang, nơi tìm thấy chiếc cặp táp của Kramer, trạm dừng chân, đường nhánh ra cao tốc nhỏ. Chúng tôi bò ra ở giao lộ hình hoa thị, rồi tôi quan sát trạm xăng, quán ăn tồi tàn, bãi đỗ xe, và quán trọ. Nơi ấy tắm trong ánh đèn vàng, đầy sương mờ và bóng đen, nhưng tôi vẫn nhìn được. Không có dấu hiệu của bẫy. Summer rẽ vào bãi xe rồi đánh một vòng thật chậm. Trong bãi có ba xe moóc mười tám bánh đậu như cá voi mắc cạn, và vài chiếc sedan cũ gỉ sét như bị bỏ rơi. Trông chúng giống vậy thật. Sơn xe đã phai màu, bánh mềm oặt, và phuộc nhún xe hỏng hết. Có một chiếc bán tải hiệu Ford cũ đậu ở đó, bên trong gắn cũi trẻ con. Tôi đoán đó là xe của cô trung sĩ. Ngoài ra không còn gì khác. Sáu giờ bốn mươi sáng, thế giới xung quanh hãy còn tăm tối và tĩnh lặng.
Chúng tôi đậu xe ở nơi ngoài tầm nhìn, phía sau quán bar, rồi đi bộ băng qua tới chỗ quán ăn. Cửa sổ nơi ấy phủ đầy khói bếp nấu. Bên trong thắp đèn trắng sáng rực. Trông như tranh của Edward Hopper vậy. Trung sĩ của tôi đang ngồi một mình ở chiếc bàn phía xa. Chúng tôi bước vào rồi ngồi xuống cạnh cô. Cô bỏ lên bàn một túi tạp hóa to. Bên trong chất đủ thứ đồ.
“Trước tiên,” cô bảo.
Cô cho tay vào túi, lấy ra một viên đạn. Cô đặt nó đứng trên bàn trước mặt tôi. Một viên chín li hiệu Parabellum tiêu chuẩn. Đạn tiêu chuẩn của NATO. Xuyên giáp. Sử dụng cho cả súng ngắn lẫn tiểu liên. Lớp bọc đồng sáng loáng bên ngoài có vết xước. Tôi nhặt viên đạn lên. Ngắm nghía nó. Có dòng chữ khắc trên ấy. Vết khắc rất thô và xiêu vẹo. Được khắc vội bằng tay. Ghi: Reacher.
“Một viên đạn khắc tên tôi,” tôi nói.
“Quà của đội Delta,” nữ trung sĩ bảo. “Trao tận tay, vào hôm qua.”
“Ai đưa?”
“Tên trẻ có râu ấy.”
“Dễ thương ghê,” tôi bảo. “Nhớ nhắc tôi cho hắn một trận.”
“Đừng đùa, sếp. Họ sôi máu lắm rồi đó.”
“Họ đang đuổi nhầm người rồi.”
“Sếp có chứng minh được không?”
Tôi ngập ngừng. Biết và chứng minh, là hai chuyện khác nhau. Tôi bỏ viên đạn vào túi rồi đặt hai tay lên bàn.
“Có thể,” tôi bảo.
“Anh biết người giết Carbone luôn à?” Summer hỏi.
“Từng việc một thôi,” tôi nói.
“Tiền sếp đây,” nữ trung sĩ bảo. “Tôi chỉ gom được từng này thôi.”
Cô lục túi mình rồi đặt bốn mươi bảy đô la lên bàn.
“Cảm ơn cô,” tôi nói. “Cứ cho là tôi mượn cô năm chục.
“Bù tí tiền phiền hà.”
“Năm mươi hai,” cô bảo. “Đừng quên con bé trông trẻ.”
“Cô còn gì nữa nào?”
Cô lôi ra một xấp giấy. Loại có dòng kẻ xanh dương mờ và đục lỗ bên rìa. Trên ấy ghi đầy những dòng số.
“Danh sách cuộc gọi,” cô bảo.
Cô đưa tôi một tờ giấy ghi chú của quân đội có ghi con số 202 trên đầu.
“Khách sạn Jefferson,” cô nói.
Cô đưa thêm một cuộn giấy fax.
“Hồ sơ lý lịch của thiếu tá Marshall,” cô bảo.
Cô đưa tiếp một cuốn danh bạ điện thoại. Nó khá dày, màu xanh lá, ghi số điện thoại của toàn bộ các doanh trại và trụ sở quân đội trên thế giới. Rồi cô đẩy thêm một cuộn giấy fax nữa. Đó là báo cáo dò tìm đường phố của thám tử Clark, trong hôm Giao thừa, tại Green Valley.
“Franz ở California nhắn rằng sếp cần nó,” cô nói.
“Tuyệt vời,” tôi bảo. “Cảm ơn. Cảm ơn cô vì tất cả.”
Cô gật đầu. “Sếp nên tin là tôi giỏi việc hơn thằng cha trực ngày kia đi. Và ai đó nên chuẩn bị tinh thần nói vậy về tôi khi họ bắt đầu tinh giảm biên chế nhé.”
“Tôi sẽ bảo họ,” tôi đáp.
“Đừng,” cô nói. “Sếp nói chẳng được gì đâu. Sếp lúc đó hoặc chết hoặc bóc lịch rồi.”
“Cô cất công đem cho tôi từng này thứ,” tôi bảo. “Cô đã buông xuôi tôi đâu.”
Cô không đáp.
“Vassell và Coomer đậu xe nơi nào?” tôi hỏi.
“Hôm mồng bốn ấy hả?” cô hỏi lại. “Chẳng ai rõ cả. Tay tuần tra đêm đầu thấy một xe công vụ tự lùi vào một góc xa trong bãi. Nhưng sếp đừng trông cậy điều đó. Tay tuần tra ấy không thấy biển số, nên không thể chắc chắn được. Và tay tuần tra thứ hai chẳng nhớ gì cả. Vậy nên hai lời khai này khập khiễng lắm.”
“Chính xác thì tay đầu tiên thấy gì?”
“Anh ta bảo là xe công vụ.”
“Có phải là một chiếc Grand Marquis màu đen không?”
“Một chiếc gì đó màu đen thì đúng hơn,” cô đáp. “Nhưng xe công vụ nào cũng hoặc màu đen hoặc xanh lá. Xe màu đen có gì lạ đâu.”
“Nhưng nó nằm cách biệt?”
Cô gật đầu. “Nó đậu một mình một cõi, phía góc xa trong bãi. Nhưng tay thứ hai không xác định được điều đó.”
“Thiếu tá Marshall đã ở đâu hôm mồng hai và ba?”
“Cái đó dễ hơn,” cô bảo. “Hai giấy đi đường được ký duyệt. Mồng hai tới Frankfurt, mùng ba về.”
“Nán lại một đêm ở Đức sao?”
Cô gật đầu. “Đi và về.”
Chúng tôi ngồi trong im lặng. Người bồi bàn cầm một tập giấy với bút chì tiến tới. Tôi nhìn thực đơn và bốn mươi bảy đô la nằm trên bàn, rồi gọi món cà phê và trứng dưới hai đô la. Summer hiểu ý, liền gọi nước hoa quả và bánh quy. Những thứ rẻ nhất mà chúng tôi có thể gọi, và đều giúp chúng tôi tỉnh táo.
“Tôi xong việc chưa?” cô trung sĩ hỏi.
Tôi gật đầu. “Cảm ơn cô. Thực lòng đấy.” Summer lùi ra để cô đứng dậy.
“Hôn cháu giùm tôi,” tôi bảo.
Nữ trung sĩ của tôi chỉ đứng đó, xương xẩu mà chắc khỏe. Cứng rắn như mỏ chim gõ kiến. Nhìn thẳng vào mắt tôi.
“Mẹ tôi vừa mất,” tôi nói. “Một ngày nào đó con trai cô sẽ nhớ đến những buổi sáng như thế này.”
Cô gật đầu một cái, rồi bước ra cửa. Một phút sau chúng tôi thấy cô ngồi trong chiếc xe bán tải của cô, một bóng hình nhỏ bé, cô độc trước vô lăng. Cô lái đi vào màn sương của bình minh. Một dải khói xả trườn theo sau xe cô rồi dần tan biến.
Tôi soạn xấp giấy tờ thành một đống ngăn nắp, rồi bắt đầu bằng hồ sơ cá nhân của Marshall. Chất lượng tờ fax không cao, nhưng vẫn đọc được. Trên ấy ghi những thông tin thông thường. Trang đầu tôi biết Marshall sinh tháng Chín năm 1958. Suy ra hắn đã ba mốt tuổi. Không vợ con. Không vợ cũ. Hắn đã thành đôi với quân đội rồi, tôi đoán vậy. Hắn cao một mét chín ba, và nặng một trăm ký. Quân đội cần biết chỉ số đó để cập nhật các phân vị hậu cần của mình. Hắn thuận tay phải. Quân đội cần biết điều đó vì súng trường bắn tỉa loại kéo thoi nạp đạn của mình chỉ dành cho người thuận tay phải. Quân nhân thuận tay trái thường không được nhận vào đội bắn tỉa. Việc phân loại diễn ra vào ngày đầu tiên vào quân đội.
Tôi lật trang.
Marshall quê ở Sperryville, bang Virginia, và học mẫu giáo, tiểu học, và trung học ở đó.
Tôi mỉm cười. Summer nhìn tôi, đầy thắc mắc. Tôi tách các trang ra rồi đưa chúng cho cô, rồi nhón ngón tay chỉ vào những chi tiết liên quan. Rồi tôi đưa cô tờ ghi chú có viết số điện thoại của khách sạn Jefferson trên ấy.
“Tìm điện thoại đi,” tôi bảo.
Cô tìm thấy một chiếc ngay tại cửa, trên tường, gần quầy tính tiền. Tôi thấy cô bỏ vào đó hai xu, nhấn số rồi nói chuyện, và đợi. Tôi thấy cô trình bày tên họ, cấp bậc và đơn vị. Tôi thấy cô đứng nghe. Tôi thấy cô nói chuyện tiếp. Tôi thấy cô đợi thêm. Rồi nghe thêm nữa. Cô bỏ thêm xu vào máy. Một cuốc gọi dài. Tôi đoán cô bị chuyển máy khắp nơi. Rồi tôi thấy cô nói cảm ơn. Tôi thấy cô dập máy. Tôi thấy cô trở về phía tôi, nhìn nham hiểm và thỏa mãn.
“Hắn có một phòng ở đó,” cô bảo. “Đúng ra là chính hắn tự đặt phòng, một ngày trước đó. Ba phòng, cho hắn, Vassell và Coomer. Và có hóa đơn đậu xe nữa.”
“Em có nói chuyện với bãi xe không?”
Cô gật đầu. “Một chiếc Mercury màu đen. Tới sau lúc ăn trưa, rời đi lúc một giờ kém hai mươi sáng, trở lại vào ba giờ hai mươi sáng, và cuối cùng rời đi sau bữa sáng ngày đầu năm.”
Tôi lướt qua đống giấy tờ và tìm thấy bản fax của thanh tra Clark ở Green Valley. Báo cáo kết quả dò hỏi từng nhà một. Trong đó ghi chép khá nhiều hoạt động xe cộ. Hôm đấy là Giao thừa, có rất nhiều người đi tới, và trở về từ các tiệc liên hoan. Có một chiếc mà người ta tưởng là taxi đậu trên đường nhà bà Kramer, ngay trước hai giờ sáng.
“Xe công vụ có thể bị tưởng là taxi,” tôi bảo. “Em biết đó, họ thấy một chiếc sedan màu đen trơn, sạch sẽ nhưng hơi cũ, đã chạy nhiều dặm, nhìn giống một chiếc Crown Victoria.”
“Cũng có lý,” Summer bảo.
“Rất có lý chứ,” tôi đáp.
Chúng tôi thanh toán, boa một đô la, rồi kiểm xem số tiền cô trung sĩ của tôi cho mượn còn lại bao nhiêu. Chúng tôi quyết định nếu tiếp tục như thế này, thì cả hai phải tiết kiệm tiền ăn, vì còn dành tiền đổ xăng nữa. Và tiền điện thoại. Và các loại chi phí khác.
“Giờ mình đi đâu?” Summer hỏi tôi.
“Qua bên kia đường,” tôi bảo. “Tới quán trọ. Ta sẽ náu lại ở đó cả ngày. Làm thêm chút việc, rồi ngủ.”
Chúng tôi giấu chiếc Chevy phía sau quán bar, rồi đi bộ băng qua đường. Sau đó gọi thằng nhỏ gầy còm trực ở quán trọ dậy, hỏi thuê phòng.
“Một phòng ạ?” cậu ta hỏi.
Tôi gật đầu. Summer không phản đối. Cô thừa biết bọn tôi không đủ tiền thuê hai phòng. Vả lại chúng tôi đâu phiền ở cùng nhau. Ở Paris đã quá ổn đấy thôi, nếu nói về hoạt động ban đêm của cả hai.
“Mười lăm đô,” thằng nhỏ gầy còm kia bảo.
Tôi đưa cậu ta tiền, rồi cậu ta mỉm cười và trao tôi đúng chìa khóa căn phòng mà Kramer đã chết trong ấy. Tôi đoán thằng này muốn tỏ ra hài hước. Tôi không nói gì. Tôi cũng không màng. Tôi nghĩ phòng một người từng chết còn đỡ hơn phòng thuê theo giờ nhiều.
Chúng tôi đi cùng nhau dọc hành lang, mở cửa phòng rồi bước vào trong. Căn phòng vẫn ẩm thấp, nâu ố và tồi tàn. Cái xác đã được lấy đi, còn lại căn phòng vẫn y nguyên như lần đầu tôi nhìn thấy nó.
“Chẳng được như khách sạn George V nhỉ,” Summer bảo.
“Còn phải nói nữa,” tôi đáp.
Chúng tôi đặt túi xuống sàn, rồi tôi soạn đống giấy tờ mà cô trung sĩ đã chuẩn bị cho lên giường. Tấm khăn phủ giường còn hơi ẩm. Tôi chỉnh máy sưởi đặt dưới cửa sổ, đến khi nó tỏa ra hơi ấm.
“Tiếp theo là gì đây?” Summer hỏi.
“Danh sách cuộc gọi,” tôi bảo. “Anh đang tìm cuộc gọi nào tới một số có mã vùng 919.”
“Đó là số địa phương mà. Trại Bird cũng là 919 luôn.”
“Tuyệt vời,” tôi đáp. “Thế thì ta phải rà tới cả triệu cuốc điện thoại địa phương.”
Tôi trải đống giấy in lên giường rồi bắt đầu xem xét. Không tới cả triệu cuộc gọi. Nhưng cũng phải tới mấy trăm cuộc. Tôi bắt đầu tìm từ thời điểm đêm Giao thừa trở đi. Tôi bỏ qua những số được gọi tới nhiều lần, từ nhiều hơn một số điện thoại. Tôi đoán nó là số của hãng taxi, hay vũ trường, hay quán bar gì đó. Tôi bỏ qua những số có số nội bộ giống trại Bird. Phần lớn đều là số những nhà riêng ngoài doanh trại. Những quân nhân trực đêm hẳn đã gọi về cho gia đình, chừng một giờ đồng hồ sau nửa đêm, chúc mừng năm mới vợ, hoặc chồng và con cái mình. Tôi tập trung xem có con số nào đó khác thường. Những số của các thành phố khác trong tiểu bang Bắc Carolina. Đặc biệt là số điện thoại nào của thành phố khác mà chỉ được gọi tới duy nhất một lần, sau nửa đêm ba chục tới bốn chục phút. Đó là mục tiêu của tôi. Tôi kiên nhẫn xem qua hết xấp giấy in, dò từng dòng, từng trang một, tìm con số đó. Tôi đâu có vội. Tôi có cả ngày.
Tôi tìm thấy nó ở xấp giấy thứ ba. Cuộc gọi ấy được ghi lại vào mười hai giờ ba mươi hai phút. Ba mươi hai phút sau khi năm 1989 chuyển thành 1990. Đúng khung thời gian mà tôi đã dự đoán. Một cuộc gọi kéo dài gần mười lăm phút. Tầm như tôi đã dự đoán. Một đầu mối triển vọng đây. Tôi đọc lướt tới. Kiểm tra hai chục tới ba chục phút sau. Chẳng còn chi tiết nào đáng giá bằng. Tôi trở lại, đặt ngón tay dưới con số mình đã nhắm tới kia. Đó là đầu mối khả thi nhất. Hoặc là tia hy vọng duy nhất.
“Em có bút không?” tôi hỏi.
Summer đưa tôi một cây từ trong túi áo.
“Em có đồng xu nào không?” tôi hỏi.
Cô đưa tôi một đồng năm mươi xu. Tôi viết con số khả thi nhất kia lên giấy ghi chú, ngay dưới dòng số điện thoại khách sạn Jefferson ở Thủ đô. Rồi đưa cho cô.
“Em gọi thử,” tôi bảo. “Xem ai đáp máy. Em phải qua đường tới quán ăn mà gọi. Điện thoại của quán trọ hư rồi.”
Cô bỏ ra ngoài chừng tám phút. Tôi tranh thủ đánh răng. Tôi tin thế này: nếu anh không có thì giờ để ngủ, thì đi tắm sẽ đỡ mệt hơn nhiều. Nếu không có thì giờ đi tắm, thì đánh răng là lựa chọn tiếp theo.
Tôi đặt bàn chải vào ly thủy tinh trong nhà vệ sinh, và Summer mở cửa bước vào. Giá lạnh bám theo cô vào cùng.
“Đó là số điện thoại của một khách sạn sân golf, ở ngoại ô thành phố Raleigh,” cô bảo.
“Thế là đủ tốt với anh rồi,” tôi nói.
“Brubaker,” cô bảo. “Đó là nơi Brubaker đã ở lại. Khi đi nghỉ phép.”
“Chắc ông ta đang nhảy đầm,” tôi đáp. “Em có nghĩ vậy không? Lúc nửa giờ sau tiếng pháo hoa Giao thừa ấy? Nhân viên lễ tân có khi phải lôi ông ta ra khỏi phòng khiêu vũ để nghe điện thoại ấy chứ. Vậy nên cuộc gọi mới dài mười lăm phút. Chủ yếu là thời gian đợi.”
“Vậy ai đã gọi ông ta?”
Trên giấy có ghi mã số xác định vị trí nơi gọi. Tôi đọc mà chả hiểu gì. Chỉ toàn con số với chữ cái. Nhưng cô trung sĩ của tôi đã chuẩn bị trước bản chú giải. Trên tờ giấy sau xấp giấy cuối là một danh sách những mã số, và vị trí mà chúng đại diện. Cô nói đúng. Cô giỏi hơn thằng cha trực ban ngày kia nhiều. Nhưng dù sao, cô cũng đã là trung sĩ cấp E-5, trong khi tay kia chỉ là hạ sĩ cấp E-4, mà đời Lục quân Hoa Kỳ đáng sống vốn là nhờ có các trung sĩ rồi.
Tôi so sánh mã số với dòng chú giải.
“Là ai đó đã gọi tới bằng điện thoại trả xu, từ trụ sở đội Delta,” tôi bảo.
“Một tay Delta nào đó gọi cho sĩ quan chỉ huy của mình,” Summer nói. “Thế thì có ích gì cho ta chứ?”
“Khung thời gian rất đáng ngờ,” tôi đáp. “Hẳn phải là việc gì đó cấp bách, phải không?”
“Ai vậy chứ?”
“Từng bước một thôi,” tôi nói.
“Đừng cho em ra rìa chứ.”
“Anh đâu có.”
“Có. Anh đang thu mình lại đấy.”
Tôi không đáp.
“Mẹ anh vừa mất, anh đang đau buồn, rồi bây giờ lại tự cô lập bản thân. Nhưng anh không nên làm vậy. Anh đâu làm việc này một mình được, Reacher. Anh đâu thể nào sống cả đời trong cô độc chứ.”
Tôi lắc đầu.
“Không phải vậy,” tôi bảo. “Chỉ là, anh đang đoán mò mà thôi. Từ nãy giờ anh toàn mò mẫm. Hết chỗ nhỏ tới chỗ lớn. Và anh không muốn mình ngã dập mặt. Không thể gục ngã trước mắt em. Em sẽ chẳng còn tôn trọng anh nữa.”
Cô không đáp.
“Anh biết,” tôi nói. “Em không còn tôn trọng anh từ khi thấy anh ở truồng rồi.”
Cô khựng lại. Rồi mỉm cười.
“Nhưng em nên tập làm quen với cảnh đó đi,” tôi bảo. “Bởi vì nó sắp xảy ra bây giờ đấy. Thật ra, là ngay lúc này luôn mới đúng. Ta dành cả ngày còn lại nghỉ ngơi thôi.”
Chiếc giường quá tệ. Nệm lún ở giữa, còn chăn gối thì ẩm ướt. Có khi còn tệ hơn nữa. Tại một quán trọ chất lượng thế này, nếu căn phòng từ dạo Kramer chết đến giờ vẫn không có người thuê, thì tôi khá chắc rằng họ cũng chẳng buồn thay luôn chiếc nệm ấy chứ. Kramer dù chưa chui vào chăn, nhưng gã vẫn đã nằm chết trên ấy. Người gã hẳn đã rỉ đủ thứ dịch ra giường. Summer có vẻ không màng tới việc ấy. Nhưng vì cô đâu có thấy xác gã nằm trơ ra trên đây, da dẻ tái xám chứ.
Nhưng rồi tôi lại nghĩ, Anh còn đòi gì hơn với giá mười lăm đô chứ?Và Summer gạt suy nghĩ của tôi ra khỏi giường. Cô làm tôi mất tập trung vô cùng. Chúng tôi cũng thấm mệt rồi, nhưng không mệt tới mức như vậy. Chúng tôi ăn ý hơn, trong lần thứ hai. Lần thứ hai thường là tuyệt nhất. Kinh nghiệm của tôi là vậy. Anh nôn nóng và chưa nguội hứng thú.
Xong xuôi, chúng tôi lăn ra ngủ như em bé. Máy sưởi bắt đầu tỏa nhiệt khắp phòng. Chăn gối dần ấm lên. Tiếng xe cộ ngoài cao tốc kia nghe thật dễ chịu. Như tiếng nhiễu vô tuyến vậy. Chúng tôi đã được an toàn trong lúc ấy. Chẳng ai nghĩ ra nổi nơi này để tới bắt chúng tôi cả. Kramer đã chọn lựa hay lắm. Đây chính là nơi ẩn náu tuyệt hảo. Chúng tôi lăn xuống chỗ nệm lún cùng nhau, rồi ôm nhau thật chặt. Cuối cùng tôi lại nghĩ, đây là chiếc giường tuyệt vời nhất mà tôi từng nằm.
Rất lâu sau chúng tôi mới dậy, bụng đói meo. Lúc ấy đã sáu giờ tối. Bên ngoài cửa sổ tối mù. Những ngày tháng Giêng cứ nối đuôi nhau trôi đi mất, trong khi chúng tôi chẳng hề để tâm tới. Chúng tôi tắm rửa, mặc quần áo rồi bước qua bên kia đường ăn tối. Tôi cầm theo cuốn danh bạ quân đội.
Chúng tôi nhắm tới món vừa nhiều calo nhất, vừa rẻ nhất, vậy mà cuối cùng vẫn tiêu mất những tám đô la cho cả hai. Quán ăn này cho phép châm nước thoải mái, nên tôi lợi dụng điều đó một cách tàn nhẫn. Rồi tôi đứng khư khư ở gần quầy thanh toán dùng điện thoại gắn trên tường. Tôi kiểm tra số trong danh bạ rồi gọi cho Sanchez ở trại Jackson.
“Tôi nghe bảo cậu đang ngập đầu trong đống cứt,” anh ta nói.
“Tạm thời là vậy,” tôi bảo. “Cậu đã nghe ngóng được gì thêm về vụ Brubaker chua?”
“Ví dụ?”
“Ví dụ, họ đã tìm ra xe của ông ta chưa?”
“Rồi, họ tìm thấy rồi. Nó đậu xa thành phố Columbia lắm.”
“Để tôi đoán nhé,” tôi bảo. “Ở đâu đó cách trại Bird một giờ đi xe về hướng Bắc, có thể hơi về hướng Đông Nam thành phố Raleigh. Chắc là ở Smithfield, Bắc Carolina phải không?”
“Thế quái nào mà cậu đoán được hay vậy?”
“Linh cảm thôi,” tôi nói. “Phải gần nơi cao tốc I-95 giao với U.S. 70. Ngay trên phố chính luôn. Họ có nghĩ đó là nơi ông ta bị giết không?”
“Chắc chắn vậy rồi. Bị giết ngay trong xe. Ai đó bắn ông ta từ băng ghế sau. Kính chắn gió bị vỡ tung ngay phía trước ghế tài xế, và mảng kính còn trụ lại trên khung dính đầy máu và óc. Và trên vô lăng còn có vết máu không hề bị nhòe đi. Suy ra chẳng ai lái xe sau khi ông ta bị bắn chết cả. Suy ra đó là nơi ông ta đã bị giết. Ngay trong xe mình. Tại Smithfield, Bắc Carolina.”
“Họ có tìm thấy vỏ đạn không?”
“Không thấy vỏ đạn. Và không có chứng cứ cụ thể nào có thể dùng để truy tìm được cả, ngoài những thứ tào lao mà họ đã lường từ trước.”
“Bọn họ có giả thuyết nào chưa?”
“Đó là bãi xe của một khu công nghiệp. Nơi ấy to đùng, như một dấu mốc của địa phương, ban ngày tấp nập lắm, nhưng trống hoác vào ban đêm. Họ đoán có hai xe đã hẹn gặp nhau ở đây. Brubaker tới trước, xe kia tới sau dừng ngay bên cạnh, ít nhất có hai người đã xuống xe, họ mở cửa vào xe Brubaker, người ngồi trước, người ngồi sau, rồi nán lại một lúc lâu, có thể để nói chuyện gì đó, rồi tên ngồi phía sau rút súng ra bóp cò. Đó là cách mà họ giải thích vì sao đồng hồ đeo tay của Brubaker lại vỡ nát. Họ đoán ông ta đã đặt cổ tay trái lên phía trên vô lăng, theo kiểu người bình thường ngồi trong xe thôi. Nhưng dù sao đi nữa, ông ta gục xuống, bị bọn họ lôi ra ngoài, bỏ vào cốp xe kia, rồi lái tới thành phố Columbia để vứt cái xác.”
“Rồi nhồi vào túi quần ông ta ít ma túy và tiền mặt.”
“Điều tra viên vẫn chưa biết những thứ ấy từ đâu ra.”
“Thế sao bọn thủ ác không dời xe ông ta đi nơi khác?” tôi hỏi. “Đưa cái xác tới tận Nam Carolina, mà để nguyên chiếc xe lại, có vẻ hơi ngớ ngẩn.”
“Chẳng ai biết vì sao cả. Cũng có thể vì đi lại trong một chiếc xe đầy máu, với kính chắn gió bị bắn vỡ tung, chẳng khác nào lạy ông tôi ở bụi này. Hoặc có thể là bọn thủ ác nhiều khi ngớ ngẩn thật.”
“Cậu có ghi lại câu trả lời của bà Brubaker, khi được hỏi về cú điện thoại của chồng mình không?”
“Sau bữa tối mồng bốn á?”
“Không, trước đó cơ,” tôi bảo. “Hôm Giao thừa ấy. Nửa tiếng sau khi bọn họ nắm tay nhau hát bài ‘Auld Lang Syne’ kia.”
“Hình như có. Tôi ghi chép nhiều cái hay ho lắm. Để tôi xem thử.”
“Nhanh chân lên nhé,” tôi bảo. “Tôi đang dùng điện thoại trả xu đó.”
Tôi nghe tiếng ống nghe điện thoại đặt xuống bàn ở bên kia đường dây. Rồi tiếng sột soạt đằng xa trong văn phòng anh ta. Tôi tra thêm hai đồng hai lăm xu nữa vào máy điện thoại. Chúng tôi đã tiêu mất hai đô la tiền gọi điện rồi. Cộng thêm mười hai đô tiền ăn, và mười lăm đô tiền phòng nữa. Chúng tôi còn có mười tám đô trong túi. Tôi biết chắc mình sẽ phải dùng mười đô la trong số ấy, hy vọng là sớm thôi. Tôi bắt đầu ước quân đội đừng mua dòng xe Caprice có gắn động cơ V-8 khổng lồ làm chi. Một chiếc động cơ bốn xi lanh như xe gã Kramer dùng hẳn đã giúp chúng tôi đi xa hơn, với tám đô la tiền xăng.
Tôi nghe Sanchez bốc máy lần nữa.
“OK, Giao thừa,” anh ta nói. “Bà vợ bảo tôi rằng ông ta bị lôi ra khỏi buổi tiệc khiêu vũ, vào tầm mười hai giờ rưỡi sáng. Bà ta kể là có chút bực mình vì điều đó.”
“Ông ta có kể gì cho vợ mình về cuộc gọi không?”
“Không. Nhưng bà vợ kể rằng ông ta nhảy hăng hơn sau khi nghe xong cú điện thoại đó. Kiểu bùng cháy lắm. Như thể cắn thuốc vậy. Trông ông ta lúc ấy hứng khỏi lắm.”
“Bà ta chỉ nhìn cách ông chồng nhảy mà biết được sao?”
“Bọn họ cưới nhau lâu rồi mà, Reacher. Lúc ấy phải hiểu nhau chứ.”
“OK,” tôi bảo. “Cảm ơn nhé, Sanchez. Tôi phải đi rồi.”
“Cẩn thận đấy.”
“Lúc nào chả thế.”
Tôi cúp máy rồi trở về bàn ăn.
“Bây giờ mình đi đâu?” Summer hỏi.
“Giờ ta đi xem các cô gái múa thoát y,” tôi đáp.
Chỉ vài bước từ tiệm ăn tồi tàn kia là đã tới quán bar. Có vài xe đậu xung quanh, nhưng không nhiều. Lúc ấy vẫn còn khá sớm. Phải vài giờ nữa đám đông mới ùa tới. Dân địa phương quanh đây còn đang ở nhà, ăn tối, xem tin thể thao. Mấy tay ở trại Bird bắt đầu kết thúc bữa tối trong phòng ăn, tắm rửa, thay quần áo, đi thành nhóm hai hoặc ba, tìm chìa khóa xe, và phân công tài xế. Nhưng tôi vẫn căng mắt cảnh giác. Tôi không muốn đụng phải một nhóm Delta nào đó. Nhất là khi đang ở ngoài trời tối thế này. Tôi không còn nhiều thời gian để phí phạm nữa.
Chúng tôi kéo cửa bước vào trong. Phía sau quầy thanh toán là một gương mặt mới. Chắc là bạn, hay người thân của gã hộ pháp trước kia. Tôi không biết hắn. Hắn cũng không biết tôi. Hai chúng tôi lúc ấy đang mặc đồ dã chiến. Không lộ đơn vị nào. Không lộ dấu hiệu nào khai rằng chúng tôi là sĩ quan Quân cảnh. Nên gương mặt mới kia đón tiếp chúng tôi cũng tạm gọi là hoan hỉ. Hắn nhìn chúng tôi và thấy phần tiền trực giờ đầu của mình vừa dày thêm. Chúng tôi đi lướt qua hắn.
Bên trong phòng chỉ có một phần mười là có khách. Cảm giác ấy rất lạ. Đột nhiên nơi này lạnh lẽo, mênh mông và trống rỗng. Nhìn như một nhà máy nào đó vậy. Vắng các cơ thể người áp vào nhau, tiếng nhạc to và đanh hơn nhiều. Mặt sàn trống huơ. Có thể nói là thênh thang. Cả trăm chiếc ghế không người ngồi. Chỉ có một cô gái đang biểu diễn thôi. Cô ta ở trên sân khấu chính. Tắm mình trong ánh đèn đỏ, nhưng nhìn cô ta lạnh lùng và thờ ơ vô cùng. Tôi thấy Summer nhìn cô ta. Thấy cô rùng mình. Tôi từng nói cô rằng: Rồi cô sẽ làm gì đây? Vào quán thoát y làm chung với cô Sin kia? Nhưng bây giờ nhìn tận mắt, chắc cô thấy đó không phải là một lựa chọn hấp dẫn cho lắm.
“Sao ta lại ở đây?” cô hỏi.
“Để tìm chìa khóa giải đáp tất cả mọi việc,” tôi nói. “Sai lầm lớn nhất của.”
“Đó là?”
“Em xem thì biết,” tôi đáp.
Tôi vòng qua tới trước cửa phòng thay đồ. Gõ cửa hai lần. Một cô gái lạ mặt mở cửa. Cô ta áp người vào cánh cửa, chỉ ló đầu ra. Có khi cô ta đang không mặc gì.
“Tôi cần gặp Sin,” tôi bảo.
“Cô ấy không có ở đây.”
“Có chứ,” tôi nói. “Cô ta còn phải trả tiền đợt lễ Giáng sinh mà.”
“Cô ấy bận rồi.”
“Mười đô,” tôi nói. “Mười đô để nói chuyện thôi. Không đụng chạm.”
Cô gái biến mất và cánh cửa đóng lại sau lưng cô ta. Tôi đứng tránh qua một bên, để người đầu tiên Sin nhìn thấy là Summer. Chúng tôi đợi. Và đợi. Rồi cánh cửa mở lần nữa, và Sin bước ra. Cô ta đang mặc một chiếc váy ôm sát. Nó màu hồng. Và lấp lánh. Nhìn cô ta khá cao, trên đôi cao gót bằng nhựa trong. Tôi bước ra sau lưng cô ta. Đứng chắn trước cửa phòng thay đồ. Cô ta xoay lại và nhìn thấy tôi. Mắc kẹt rồi nhé.
“Vài câu hỏi,” tôi nói. “Chỉ thế thôi.”
Trông cô ta khá hơn lần cuối tôi gặp. Vết bầm mười ngày trước trên mặt cô ta đã phần nào dịu xuống. Có thể cô ta đã trang điểm đậm hơn một chút. Nhưng đó là dấu vết rắc rối duy nhất của cô ta. Đôi mắt cô ta đờ đẫn. Tôi đoán cô ta vừa chơi ma túy. Một kim giữa hai ngón chân. Cái gì giúp mình vượt qua mỗi đêm thì cứ dùng thôi.
“Mười đô,” cô ta nói.
“Mình ngồi đi,” tôi đáp.
Chúng tôi tìm một bàn cách xa loa nhạc. Ở đấy cũng khá yên tĩnh. Tôi rút một tờ mười đô la từ trong túi, huơ ra phía trước. Nhưng chưa thả nó vội.
“Cô còn nhớ tôi chứ?” tôi hỏi.
Cô ta gật đầu.
“Còn nhớ đêm đó không?” tôi hỏi.
Cô ta gật đầu lần nữa.
“OK, tôi hỏi đây. Ai đã đánh cô?”
“Thằng lính kia,” cô đáp. “Cái thằng hôm ấy anh vừa nói chuyện xong đó.”