← Quay lại trang sách

HAI MƯƠI MỐT

Tôi giữ chặt lấy tờ mười đô kia để nhử cô ta, từng bước một. Cô ta khai rằng, hôm ấy sau khi trườn khỏi đùi tôi, cô ta đã đi một vòng hỏi han các cô gái khác. Cô ta đã kịp thủ thỉ với gần hết các cô. Nhưng chẳng ai biết gì cả. Chẳng ai biết thông tin gì, dù trực tiếp, hay gián tiếp. Không ai nghe thấy tin đồn nào quanh đây. Về một người đồng nghiệp gặp rắc rối ở quán trọ đối diện đường. Cô ta đã kiểm tra phòng riêng tư ở phía sau, mà cũng không tìm được manh mối nào. Rồi cô ta qua phòng thay đồ. Lúc ấy phòng không có ai. Vì tối đó đông khách quá. Những cô gái kia hoặc đang diễn trên sân khấu, hoặc đang đi khách ở quán trọ bên kia đường. Cô ta biết mình phải tiếp tục dò hỏi. Nhưng không có tin đồn nào cả. Cô ta nghĩ là nếu thực sự có chuyện không hay đã xảy ra thì hẳn phải có người nghe ngóng được gì đó rồi. Nên cô ta toan bỏ cuộc, và thây kệ tôi. Rồi đột nhiên tay lính nói chuyện với tôi trước đó bước vào phòng thay đồ. Cô ta mô tả rất kỹ diện mạo của Carbone. Như bao cô gái bán hoa khác, cô ta đã luyện cách ghi nhớ khuôn mặt. Khách quen thường rất thích được nhận ra. Vì như thế họ cảm thấy mình đặc biệt. Và vậy họ sẽ boa nhiều hơn. Cô ta kể rằng Carbone đã hăm dọa là không được nói bất cứ gì với bất cứ sĩ quan Quân cảnh nào. Cô ta nhấn mạnh giọng điệu, hệt như chính giọng anh ta từ mười ngày trước. Bất cứ gì với bất cứ sĩ quan Quân cảnh nào. Rồi như muốn thể hiện sự nghiêm túc của mình, anh ta vung tay tát cô ta hai cái, rất mạnh, cực nhanh, đầu tiên bằng lòng bàn tay, rồi mu bàn tay. Cú tát mạnh đến choáng váng. Cô ta không kịp né. Nghe giọng cô ta như ấn tượng với chúng lắm. Như thể cô ta vừa xếp hạng chúng với những cú đánh mình đã từng hứng chịu vậy. Như một chuyên gia sành sỏi. Và nhìn cô ta, tôi cũng đoán là cô ta đã quen với việc bị đánh rồi.

“Nhắc lại tôi nghe,” tôi bảo. “Tay lính đã đánh cô, chứ không phải chủ quán.”

Cô ta nhìn tôi như nhìn một người điên.

“Chủ quán không bao giờ đánh bọn tôi,” cô ta đáp. “Bọn tôi là công cụ kiếm ăn của hắn mà.”

Tôi đưa cô ta tờ mười đô, rồi chúng tôi bỏ cô ta ngồi lại bên chiếc bàn ở góc yên tĩnh kia.

“Thế nghĩa là sao?” Summer hỏi.

“Rõ ràng rồi còn gì,” tôi nói.

“Làm sao anh biết được vậy?”

Tôi nhún vai. Chúng tôi đã trở về phòng trọ của Kramer, xếp gọn giấy tờ, sắp lại đồ đạc, chuẩn bị lên đường một lần cuối.

“Hồi trước anh đoán nhầm,” tôi đáp. “Đến Paris anh mới nhận ra điều đó. Khi bọn mình đợi anh Joe ở sân bay ấy. Lúc anh quan sát đám đông kia. Bọn họ nhìn dòng người ra khỏi sân bay, nửa sẵn sàng chào đón, nửa sẵn sàng làm lơ. Đêm trong quán bar kia cũng vậy. Anh bước vào, tướng mạo to cao, nên người ta để ý. Họ có chút tò mò trong một thoáng. Nhưng họ không biết anh, và cũng không ưa chức vụ của anh, nên họ quay lưng mặc kệ anh. Cái ngôn ngữ cơ thể đó rất tinh tế. Chỉ trừ Carbone. Anh ta không mặc kệ anh. Anh ta quay về phía anh. Anh tưởng là do ngẫu nhiên, nhưng không phải. Anh tưởng là mình đã để ý anh ta, hóa ra anh ta cũng để ý anh.”

“Phải là việc ngẫu nhiên rồi. Anh ta đâu biết anh chứ.”

“Anh ta không biết anh, nhưng biết phù hiệu Quân cảnh. Anh ta đã tại ngũ mười sáu năm. Anh ta phải biết mình đang nhìn ai chứ.”

“Vậy tại sao anh ta lại quay sang anh?”

“Kiểu kiểm tra lại. Như thể bị bất ngờ ấy. Anh ta xoay đi, rồi đổi ý và xoay lại. Anh ta muốn anh tiếp cận mình.”

“Vì sao?”

“Vì anh ta muốn biết lý do anh đến đó.”

“Anh có cho anh ta biết không?”

Tôi gật đầu. “Giờ nhớ lại, thì có, anh có nói. Nhưng không nói chi tiết. Anh chỉ muốn nhờ anh ta đừng làm mọi người kinh động, nên anh bảo mình không đến kiếm chuyện với ai, chỉ tới tìm đồ bị mất ở bên kia đường, mà có thể một trong những cô gái bán hoa ở đây đã lấy nó. Anh ta thông minh lắm. Rất khéo. Câu anh như một con cá, và để anh tự khai.”

“Anh ta quan tâm để làm gì?”

“Anh từng nói thế này với lão Willard. Anh bảo là có những việc xảy ra nhằm đẩy những việc khác vào bế tắc. Carbone muốn cuộc điều tra của anh gặp bế tắc. Đó là mục tiêu của anh ta. Nên anh ta tính toán rất nhanh. Và cực kỳ thông minh. Đội Delta đâu có tuyển người đần, đó là chắc chắn. Anh ta bước vào rồi tát cô gái kia, để bịt miệng cô ta phòng khi cô ta biết điều gì đó. Rồi anh ta trở ra, và để anh nghĩ rằng chính tay chủ quán kia là thủ phạm. Anh ta còn chẳng thèm nói dối. Chỉ để mặc anh tự nghĩ như vậy. Anh ta lên dây cót anh như một món đồ chơi, rồi đẩy anh đi theo hướng mà mình muốn. Và anh đã cắn câu. Anh bạt tai gã chủ quán, rồi bọn anh quần thảo ngoài bãi xe. Và Carbone đứng đó, quan sát. Anh ta nhìn anh cho gã kia lên bờ xuống ruộng, như dự đoán, rồi thảo đơn tố cáo. Nhìn chung mưu kế của anh ta đã thành công. Anh ta bịt kín cả hai đầu mối. Cô gái kia thì bị bịt miệng, còn anh thì chẳng sớm cũng muộn sẽ ra khỏi sàn đấu vì bị kỷ luật. Anh ta thông minh lắm, Summer. Ước gì anh được gặp anh ta sớm hơn.”

“Tại sao anh ta lại muốn đẩy anh vào ngõ cụt? Động cơ là gì?”

“Anh ta không muốn anh tìm ra ai là người lấy chiếc cặp táp.”

“Vì sao không?”

Tôi ngồi xuống giường.

“Vì sao chúng ta không thể tìm được cô ả mà Kramer đã gặp tại đây?”

“Em không biết.”

“Vì đâu có cô ả nào,” tôi bảo. “Kramer đã gặp chính Carbone tại đây.”

Cô trân mắt nhìn tôi.

“Kramer cũng là người đồng tính,” tôi nói. “Gã và Carbone có quan hệ với nhau.”

“Carbone lấy chiếc cặp táp,” tôi bảo. “Từ chính căn phòng này. Bởi vì anh ta phải giữ kín mối quan hệ này. Cũng như những gì ta đã nghi ngờ với cô ả nọ, có thể anh ta đã lo rằng trong chiếc cặp có điều gì đó riêng tư về mình. Hoặc Kramer đã khoe khoang về hội nghị ở trại Irwin, về cách mà Thiết giáp sẽ chiến đấu chống trả. Vậy nên có thể Carbone tò mò. Hoặc thậm chí lo ngại. Anh ta là bộ binh suốt mười sáu năm trời. Và những kẻ tham gia đội Delta, thường cực kỳ trung thành với đơn vị mình. Có khi trung thành với đơn vị mình hơn là với người tình nữa.”

“Em không tin được,” Summer nói.

“Em nên tin,” tôi đáp. “Tất cả đều hợp lý. Cô Andrea Norton kia đã phần nào nói cho chúng ta đó thôi. Anh nghĩ cô ta biết chuyện của gã Kramer. Hoặc biết rõ, hoặc đoán ra, anh chưa chắc là cái nào. Bị bọn mình buộc tội, mà cô ta vẫn bình thản như không, em nhớ chứ? Lại còn thích thú nữa là khác. Hoặc cũng có thể là hoang mang. Cô ta là chuyên gia về tâm lý tính dục mà, cô ta từng gặp gã, và có thể đã bắt được tín hiệu nào đấy, về mặt chuyên môn. Hoặc thấy thiếu vài tín hiệu nào đó, về mặt cá nhân. Nên khi mình nghĩ rằng cô ta đã lên giường với Kramer, cô ta không tài nào hiểu được điều ấy. Nên cô ta đâu có nổi cáu. Sự việc không hề liên quan đến nhau. Và ta biết hôn nhân của Kramer là một màn kịch. Không con cái gì. Không ở nhà suốt năm năm trời. Thanh tra Clark còn thắc mắc sao gã mãi vẫn chưa ly dị. Anh ta từng hỏi anh, Ly dị đâu có ảnh hưởng gì tới cấp tướng đâu nhỉ? Anh đáp rằng, Không hề. Nhưng đồng tính thì có. Chắc chắn là thế. Đồng tính có ảnh hưởng vô cùng xấu đối với cấp tướng. Nên gã mới giữ cuộc hôn nhân đó. Một vỏ bọc để đối phó với quân đội. Tấm ảnh chụp bạn gái mà Carbone cất trong ví mình, cũng là vậy.”

“Ta không có bằng chứng.”

“Nhưng ta có thể tiếp cận chúng. Carbone cất bao cao su trong ví, cùng với tấm hình bạn gái. Anh cá em một ăn mười rằng cái bao cao su đó từng nằm chung hộp với cái bao mà Viện Walter Reed đã lấy ra từ người Kramer. Và anh cá em thêm lần nữa là ta có thể lục tìm xấp lệnh cũ và biết được thời gian và địa điểm mà hai người đó từng gặp nhau. Trong một buổi tập chung ở đâu đó, như trước giờ ta vẫn đoán. Vả lại, Carbone vốn là dân xe cộ của đội Delta. Viên sĩ quan phụ tá của họ đã kể anh vậy. Carbone có quyền vào lấy bất cứ chiếc xe Humvee nào trong bãi của họ, vào bất kỳ thời gian nào anh ta muốn. Vậy nên, cá em lần nữa, ta có thể tìm thấy Carbone rời trại trong một chiếc xe của Delta, một mình, vào đêm Giao thừa.”

“Anh ta có phải bị giết vì chiếc cặp táp không? Về sau ấy? Như bà Kramer vậy?”

Tôi lắc đầu. “Cả hai người họ bị giết không chỉ vì chiếc cặp táp đâu.”

Cô trân mắt nhìn tôi.

“Để lát đi,” tôi bảo. “Từng bước một thôi.”

“Nhưng Carbone giữ chiếc cặp táp mà. Chính anh nói thế. Anh ta đã bỏ chạy cùng nó.”

Tôi gật đầu. “Và anh ta lục soát nó ngay khi vừa về trại Bird. Anh ta tìm thấy bản chương trình nghị sự. Đọc. Và thấy điều gì trong đó khiến anh ta phải gọi sĩ quan chỉ huy của mình ngay lập tức.”

“Chính anh ta đã gọi Brubaker sao? Sao anh ta làm thế được? Anh ta đâu thể nói, Này sếp, tôi vừa lên giường với một thiếu tướng, và đoán xem tôi cuỗm được thứ gì này?”

“Anh ta có thể chỉ nói đã nhặt được nó ở đâu đó. Trên vỉa hè, chẳng hạn. Nhưng anh đang nghĩ là có thể Brubaker đã biết chuyện giữa Carbone và Kramer từ lâu. Đó là một khả năng. Đội Delta là một gia đình, còn Brubaker là dạng sĩ quan chỉ huy rất quan tâm cấp dưới của mình. Có khả năng ông ta đã biết rồi. Và còn lợi dụng tình thế nữa. Với mục đích tình báo chẳng hạn. Mấy tay này ganh đua nhau từng chút một. Và Sanchez bảo rằng Brubaker không bao giờ để vuột bất cứ sơ hở, hay lợi thế, hay mẩu thông tin nào. Vậy có thể là, để đổi lại lòng khoan dung của Brubaker, thì Carbone bắt buộc phải khai báo thông tin cho ông ta, từ những buổi lên giường cùng nhau của hai người họ.”

“Kinh khủng quá.”

Tôi gật đầu. “Khác gì làm gái đâu. Anh bảo em rồi, trong chuyện này không có người chiến thắng. Tất cả mọi người sẽ ra về trong nhục nhã.”

“Trừ chúng ta. Nếu chúng ta có kết quả điều tra.”

“Em sẽ ổn thôi. Anh thì không.”

“Vì sao?”

“Cứ đợi mà xem,” tôi bảo.

Chúng tôi xách túi đến chiếc Chevy, vẫn đang được giấu sau quán bar. Chúng tôi bỏ hành lý vào cốp xe. Trong bãi đã có nhiều xe hơn lúc nãy. Đêm đang nóng lên. Tôi kiểm tra đồng hồ. Đã gần tám giờ ở Bờ Đông, và gần năm giờ ở Bờ Tây. Tôi đứng yên, cân nhắc quyết định của mình. Nếu dừng lại để thở dù chỉ một giây, ta sẽ bị nghiền nát ngay.

“Anh phải gọi hai cuộc nữa,” tôi nói.

Tôi cầm theo cuốn danh bạ quân đội, rồi chúng tôi cùng đi về tiệm ăn tồi tàn kia. Tôi lục hết túi quần tìm xu lẻ, và vốc ra được một chút. Summer đóng góp một đồng hai lăm xu, và một đồng năm xu. Người bán hàng lấy đống tiền lẻ của tôi đổi cho một đồng bạc. Tôi tra xu vào máy, rồi gọi Franz ở trại Irwin. Năm giờ chiều bên ấy, vẫn là giữa giờ làm việc của anh ta.

“Tôi có qua được cổng chính của trại cậu không?” tôi hỏi anh ta.

“Sao lại không chứ?”

“Lão Willard đang truy đuổi tôi. Lão có quyền cấm cửa những nơi mà lão đoán tôi có thể tới.”

“Tôi vẫn chưa nghe lão nói gì.”

“Hay cậu tắt máy điện báo trong một, hai ngày gì đi.”

“Chừng bao lâu nữa cậu tới?”

“Lúc nào đó trong ngày mai.”

“Bọn bạn cậu đã tới rồi đây này. Họ vừa vào xong.”

“Tôi đào đâu ra bạn bè chứ.”

“Vassell và Coomer đó. Mới từ châu Âu tới.”

“Để làm gì?”

“Tập huấn.”

“Marshall vẫn ở đó chú?”

“Có. Hắn lái xe tới sân bay LAX để đón họ. Cả ba vừa về cùng nhau. Một đại gia đình đầm ấm.”

“Tôi cần cậu giúp hai điều này,” tôi bảo.

“Phải là thêm hai điều này, mới đúng.”

“Tôi cần người đón ở sân bay LAX. Ngày mai, khi chuyến bay sáng đầu tiên hạ cánh từ Thủ đô. Tôi cần cậu cử ai đó tới.”

“Và gì nữa?”

“Và tôi cần cậu cho người tìm chiếc xe công vụ mà Vassell và Coomer dùng ở đây. Nó là một chiếc Mercury Grand Marquis màu đen. Marshall đã ký mượn nó hôm Giao thừa. Đến bây giờ, hoặc nó đã trở về Lầu Năm Góc, hoặc vẫn đỗ lại tại Căn cứ Andrews. Tôi cần ai đó tìm rồi khám xét nó thật kỹ, về mặt pháp y. Khẩn trương lên nhé.”

“Bọn tôi phải để mắt tới gì đây?”

“Tới bất cứ gì.”

“OK,” Franz đáp.

“Mai gặp cậu nhé,” tôi nói.

Tôi dập máy, rồi lật danh bạ quân đội từ vần T trong tên Trại Bird tới vần L trong tên Lầu Năm Góc. Tôi di ngón tay xuống mục vần V trong tên Văn phòng Tham mưu trưởng. Tôi lưu ngón tay trên dòng đó trong một thoáng.

“Vassell và Coomer đang ở trại Irwin,” tôi bảo.

“Để làm gì?” Summer hỏi.

“Ẩn náu,” tôi đáp. “Họ tưởng ta vẫn đang ở châu Âu. Họ biết lão Willard đang canh me các sân bay. Bây giờ họ đang ngồi bó gói một chỗ.”

“Ta có phải tóm họ không?” Summer hỏi. “Họ đâu biết gì về bà Kramer. Điều ấy đã quá rõ. Họ cũng ngạc nhiên khi nghe anh kể, tối hôm ở văn phòng anh đó. Nên em nghĩ họ bật đèn xanh cho việc đột nhập, nhưng không ngờ tới thiệt hại ngoài dự kiến kia.”

Tôi gật đầu. Cô nói đúng. Họ bị bất ngờ thật, tối hôm nọ ở văn phòng tôi. Mặt Coomer tái mét khi hỏi: Do đột nhập cướp của à? Đó là câu hỏi xuất phát từ một lương tâm bị dằn vặt. Nghĩa là Marshall chưa kể với bọn họ. Hắn đã giữ hung tin cho chính mình. Hắn trở lại khách sạn Thủ đô kia vào lúc ba giờ hai mươi sáng, và kể với bọn họ rằng không thấy chiếc cặp táp, nhưng lại không kể về những điều khác. Vassell và Coomer hẳn đã xâu chuỗi sự việc ngay lúc ấy, tối hôm ở văn phòng tôi, trong bóng tối sau khi gặp tôi. Chuyến đi về nhà của họ đêm ấy chắc thú vị lắm. Có khi cả ba đã chửi bới nhau ỏm tỏi ấy chứ.

“Tất cả là do một mình Marshall,” Summer nói. “Hắn đã phát hoảng, chỉ có vậy thôi.”

“Về cơ bản thì việc này vẫn là một âm mưu,” tôi đáp. “Về pháp lý thì tất cả bọn họ đều phải chịu tội chung.”

“Khó mà khởi tố lắm.”

“Đó là việc của Đoàn Luật sư Quân đội.”

“Chứng cứ quá yếu. Sẽ khó chứng minh lắm.”

“Họ còn làm đủ thứ nữa mà,” tôi bảo. “Tin anh đi, vụ bà Kramer là mối lo nhỏ nhất của họ.”

Tôi tra thêm xu vào máy rồi gọi cho văn phòng Tham mưu trưởng, nằm sâu trong Lầu Năm Góc. Tiếng phụ nữ đáp máy. Giọng chuẩn Washington. Không cao quá, không trầm quá, có học thức, thanh lịch, hầu như không vương giọng vùng miền nào. Tôi đoán bà ta là một quản lý cấp cao, làm việc trễ hôm nay. Tôi đoán bà ta chừng năm mươi tuổi, tóc vàng đang chuyển bạc, mặt hoa da phấn.

“Chị ghi lại đi,” tôi bảo bà ta. “Tôi là một thiếu tá Quân cảnh tên Reacher. Gần đây tôi được thuyên chuyển công tác từ Panama tới trại Bird, Bắc Carolina. Tôi sẽ đứng đợi ở chốt kiểm tra vành đai E bên ngoài tòa nhà vào nửa đêm nay. Tham mưu trưởng có gặp tôi hay không, là hoàn toàn do ông ấy quyết định.”

Tôi ngừng lại.

“Chỉ vậy thôi à?” người phụ nữ kia hỏi.

“Vâng,” tôi đáp, rồi dập máy. Tôi bỏ mười làm xu còn lại vào trong túi áo. Gập cuốn danh bạ và kẹp vào dưới tay mình.

“Đi nào,” tôi bảo. Chúng tôi tạt qua một trạm xăng, rồi bơm đầy bình với tám đô la. Sau đó, chúng tôi đi về phía Bắc.

“Tham mưu trưởng có gặp anh hay không, hoàn toàn do ông ta quyết định ư?” Summer hỏi. ”Thế nghĩa là quái gì vậy?”

Chúng tôi lên cao tốc I-95, vẫn cách Thủ đô về phía Nam chừng ba giờ đi xe. Chắc chỉ hai tiếng rưỡi thôi, nếu Summer cầm lái. Lúc ấy trời đã tối hẳn, và xe cộ đầy đường. Dư âm của kỳ nghỉ lễ đã qua. Thế giới đã đi làm trở lại.

“Đang xảy ra việc gì lớn lắm,” tôi bảo. “Nếu không thì vì sao Carbone lại dám lôi Brubaker ra khỏi bữa tiệc? Bất cứ điều gì kém sửng sốt hơn đều có thể để dành cho lúc sau được. Nên việc rất lớn, và người chơi cũng toàn các ông lớn. Chắc chắn là vậy. Còn ai có khả năng dịch chuyển hai chục sĩ quan Quân cảnh đội đặc nhiệm khắp nơi trên thế giới trong cùng ngày nữa chứ?”

“Anh chỉ là thiếu tá thôi,” cô bảo. “Franz, Sanchez, và những người khác cũng vậy. Bất cứ đại tá nào cũng có quyền dịch chuyển bọn anh mà.”

“Nhưng các vị chỉ huy trưởng cũng bị thuyên chuyển luôn. Bọn họ bị gạt ra. Để có chỗ dịch chuyển bọn anh. Phần lớn các vị chỉ huy trưởng cũng là đại tá đấy.”

“OK, vậy thì bất cứ chuẩn tướng nào cũng làm được.”

“Với chữ ký duyệt lệnh giả sao?”

“Ai mà chẳng làm giả chữ ký được.”

“Và hy vọng thoát được sau đó ư? Không, toàn bộ việc này được dàn xếp bởi một người biết mình không thể bị trừng phạt. Một ai đó bất khả xâm phạm.”

“Chính là Tham mưu trưởng sao?”

Tôi lắc đầu. “Không, Phó Tham mưu trưởng thì đúng hơn, anh nghĩ vậy. Phó Tham mưu trưởng là người đã lên từ bộ binh. Và ta có thể cho rằng ông ta là một kẻ tương đối thông minh. Ai lại để bọn ngơ ngác ngồi ghế đó. Anh nghĩ ông ta đã thấy các dấu hiệu. Ông ta thấy Bức Tường Berlin dần sụp đổ, và nghĩ về việc đó, rồi nhận ra tất cả những thứ khác cũng sẽ sụp đổ theo mà thôi. Chính là toàn bộ cơ chế thiết lập lâu đời này.”

“Và sao nữa?”

“Và ông ta bắt đầu lo lắng về động thái nào đó từ Thiết giáp. Một động thái quyết liệt. Như mình từng nói, bọn họ có quá nhiều thứ để mất. Anh đoán vị Phó này lường thấy rắc rối, nên dịch chuyển bọn anh, sung từng người vào từng nơi hợp lý, để bọn anh kịp ngăn chặn trước khi có chuyện. Mà anh nghĩ ông ta lo lắng cũng không sai. Anh đoán Thiết giáp đã thấy hiểm họa tới gần, nên họ muốn đánh phủ đầu trước. Họ đâu muốn các đơn vị phối hợp đặt dưới sự chỉ huy của sĩ quan bộ binh. Họ muốn giữ nguyên hiện trạng này. Nên anh nghĩ hội nghị ở trại Irwin nọ chính là dịp để bọn họ bàn việc triển khai một động thái quyết liệt. Một điều kinh khủng nào đó. Vậy nên bọn họ mới lo sốt vó nếu bản chương trình nghị sự kia lọt ra ngoài.”

“Nhưng thay đổi là điều tất nhiên mà. Có ai cản nổi nó đâu.”

“Có ai bình thản mà chấp nhận điều đó đâu,” tôi đáp. “Chưa từng có, và sẽ chẳng bao giờ có. Em xuống xưởng tàu Hải quân đi, và anh cam đoan rằng em sẽ tìm thấy cả triệu tấn giấy tờ năm chục năm tuổi, được cất giữ đâu đó, nói rằng không gì có thể thay thế tàu chiến, và hàng không mẫu hạm là thứ rác rưởi hiện đại mà thôi. Ở đó sẽ chẳng thiếu các vị đô đốc đang dồn toàn bộ tâm huyết viết những bài luận dài cả trăm trang, thề sống thề chết rằng cách của họ mới là tuyệt đối.”

Summer không đáp.

Tôi mỉm cười. “Cứ tìm trong hồ sơ của chúng ta, có khi em lại tìm thấy thứ do chính ông cố của gã Kramer viết, rằng xe tăng chẳng thể nào thay thế được ngựa chiến ấy chứ.”

“Chính xác thì họ định làm gì?”

Tôi nhún vai. “Ta chưa thấy bản chương trình nghị sự kia. Nhưng ta vẫn đoán được mà. Hiển nhiên là làm giảm uy tín của đối thủ rồi. Bới bèo ra bọ triệt để. Chắc chắn có sự thông đồng với bên công nghiệp quốc phòng. Nếu thuyết phục được các nhà sản xuất nói rằng xe thiết giáp hạng nhẹ không thể an toàn, thì quá tốt cho họ. Họ có thế tận dụng để tuyên truyền đại chúng. Họ có thể dọa người dân rằng con cái họ sẽ được đưa tới chiến tuyến trong những cái hộp sắt mà ná trẻ con bắn cũng thủng. Họ có thể cố hù dọa Quốc hội, rằng một đội máy bay vận tải C-130 đủ lớn để tạo sự khác biệt sẽ tốn hàng trăm tỷ đô la.”

“Đó mới chỉ là chửi nhau bình thường mà thôi.”

“Nên có thể còn nhiều nữa. Ta chưa biết hết được. Cơn trụy tim của Kramer làm mọi thứ trật đường ray. Ít nhất là trong thời điểm này.”

“Anh nghĩ họ sẽ khởi động lại mọi sự à?”

“Nếu là em có làm không? Khi mình có quá nhiều thứ để mất?”

Cô rời một tay khỏi vô lăng. Đặt lên đùi. Hơi xoay qua nhìn tôi.

“Vậy sao anh muốn gặp Tham mưu trưởng?” cô hỏi. “Nếu anh nói đúng, thì vị Phó kia mới cùng bên phe anh mà. Ông ta đưa anh tới đây. Ông ta là người bảo vệ anh.”

“Như chơi cờ thôi em,” tôi bảo. “Trò kéo co. Có hai phe ta, địch. Phe ta đưa anh đến đây, phe địch dời Garber đi nơi khác. Di chuyển Garber khó hơn là anh, suy ra phe địch là cấp trên của phe ta. Và người duy nhất cao hơn vị Phó, chính là Tham mưu trưởng. Hai vị trí đó luôn thay đổi luân phiên, vì ta biết vị Phó là người của bộ binh, suy ra Tham mưu trưởng sẽ là người của Thiết giáp. Suy ra, hắn có liên can.”

“Tham mưu trưởng là phe địch sao?”

Tôi gật đầu.

“Vậy sao anh còn muốn gặp hắn?”

“Vì ta đang ở trong quân đội, Summer ạ,” tôi bảo. “Ta phải đối mặt với kẻ thù, chứ không đối mặt với đồng minh.”

Càng gần Thủ đô chúng tôi càng trở nên lặng lẽ. Tôi biết điểm mạnh lẫn yếu của mình, và tôi đủ trẻ, đủ can đảm và đủ ngu ngốc để không ngán ai cả. Nhưng đối đầu với Tham mưu trưởng là cả một vấn đề khác. Một vị thế siêu phàm. Chẳng còn ai khác cao hơn chức vị đó cả. Trong những năm tôi phục vụ quân ngũ đã qua ba người như vậy, dù chưa từng gặp bất cứ người nào trong số đó. Chưa từng nhìn thấy họ nữa, theo tôi nhớ. Và tôi cũng chưa từng thấy vị Phó Tham mưu trưởng, hay vị Thứ trưởng, hay bất kỳ những kẻ dòng dõi nào trong vòng tròn cao quý đó cả. Họ như thể một loài khác vậy. Có gì đó ở họ khác xa những kẻ còn lại như chúng tôi.

Nhưng khởi đầu của bọn họ cũng như chúng tôi. Chính tôi cũng có thể lên tới vị thế đó, theo lý thuyết. Tôi từng tốt nghiệp trường quân sự West Point, giống họ vậy. Nhưng trường West Point suốt mấy thập kỷ này chẳng hơn gì một trường kỹ sư được đánh bóng vậy. Để lên đến bậc Tham mưu, anh phải được cử đi học ở một nơi khác sau khi tốt nghiệp. Một nơi nào đó cao cấp hơn. Anh phải tốt nghiệp hoặc Đại học George Washington, hoặc Stanford, hoặc Harvard, hoặc Yale, hoặc MIT, hoặc Princeton, hoặc từ những trường ở tận Anh quốc như Oxford hay Cambridge. Anh phải có học bổng Rhodes. Anh phải có bằng thạc sĩ hay tiến sĩ về kinh tế, chính trị hoặc quan hệ quốc tế. Anh phải tham gia chương trình White House Fellows của chính phủ. Đó là nơi sự nghiệp của tôi rẽ hướng. Ngay sau trường West Point. Tôi nhìn vào gương và thấy một thằng cha giỏi thụi nhau hơn là dùi mài kinh sử. Người khác nhìn tôi cũng thấy vậy. Công đoạn phân loại diễn ra ngay ngày đầu trong quân đội. Nên bọn họ đi đường họ, còn tôi đi đường tôi. Họ đến vành đai E và Cánh Tây, còn tôi đến những con hẻm nhập nhoạng đèn ở Seoul hay Manila. Nếu họ đến lãnh thổ của tôi, họ sẽ phải rạp bụng sát đất mà bò. Còn nếu tôi đến lãnh thổ của họ, cái đó còn phải chờ xem sao.

“Để anh đi một mình,” tôi bảo.

“Còn lâu,” Summer đáp.

“Anh sẽ đi một mình,” tôi nói. “Em muốn gọi đây là gì cũng được. Là lời khuyên từ một người bạn, hoặc mệnh lệnh trực tiếp của một sĩ quan cấp trên. Nhưng em sẽ ở lại trong xe. Chắc chắn thế. Nếu cần, anh sẽ còng tay em vào vô lăng.”

“Ta lâm vào cảnh này cùng nhau mà.”

“Nhưng ta cần phải khôn khéo. Đây đâu phải mình đi gặp Andrea Norton. Việc này vô cùng rủi ro. Chẳng lý do nào hai ta phải cùng nhau xuống lỗ cả.”

“Anh có ở yên trong xe không? Nếu anh là em?”

“Anh sẽ trốn dưới gầm xe ấy,” tôi đáp.

Cô không nói gì. Chỉ lặng lẽ lái xe, tốc độ nhanh hơn bao giờ hết. Chúng tôi đến đại lộ Beltway. Bắt đầu chặng đường dài một phần tư vành đai theo chiều kim đồng hồ tới Arlington.

An ninh ở Lầu Năm Góc hôm nay được siết chặt hơn ngày thường một chút. Hình như có ai đó đang sợ nhúm phiến quân tàn dư của tay độc tài Noriega triển khai một cuộc tấn công hai ngàn dặm về phía Bắc. Nhưng chúng tôi vào bãi đậu xe mà không gặp trở ngại gì. Ở đó gần như bị bỏ trống. Summer đánh một vòng thật chậm rồi dừng lại gần cửa chính. Cô tắt máy rồi kéo phanh tay. Động tác của cô mạnh hơn mức cần thiết một chút. Tôi đoán cô đang tỏ thái độ với mình. Tôi nhìn đồng hồ. Năm phút trước nửa đêm.

“Ta còn định cãi nhau nữa không em?” tôi hỏi.

Cô nhún vai.

“Chúc anh may mắn,” cô nói. “Nhớ cho hắn no đòn nhé.” Tôi trườn ra trời lạnh. Đóng cửa xe sau lưng, rồi đứng yên một lúc. Tòa nhà đứng sừng sững trước tôi trong màn đêm. Người ta bảo đây là tòa nhà phức hợp văn phòng lớn nhất thế giới, và khi ấy tôi tin họ. Tôi bắt đầu bước đi. Trước cửa là một gờ giảm tốc dài. Rồi đến một phòng an ninh to bằng sân bóng rổ. Phù hiệu đặc nhiệm đã giúp tôi vượt qua nơi ấy. Rồi tôi hướng tới trung tâm của tòa nhà. Có năm hành lang theo hình ngũ giác đồng tâm, gọi là các vành đai. Mỗi nơi được dựng chốt an ninh riêng để bảo vệ. Phù hiệu đã giúp tôi vượt qua vành đai B, C và D. Nhưng chẳng có gì trên thế giới này có thể giúp tôi vào đến vành đai E. Tôi dừng lại bên ngoài chốt an ninh cuối cùng và gật đầu với lính gác. Anh ta cũng gật đầu lại. Anh ta quen nhìn người khác đứng chờ ở đây rồi.

Tôi ngả lưng vào tường. Tường xi măng được làm nhẵn, cảm giác rất trơn và lạnh lẽo. Bên trong tòa nhà vắng lặng. Tôi chẳng nghe được tiếng gì khác ngoài tiếng ống nước, tiếng máy sưởi và hoi thở vững vàng của viên canh gác. Sàn nhà lót các tấm vải sơn sáng bóng, và chúng phản chiếu ánh đèn huỳnh quang trên trần nhà thành hai vệt sáng dài chạy đến một điểm ảo ở mãi đằng xa.

Tôi đợi. Tôi thấy một chiếc đồng hồ trong bốt canh. Nó đang chỉ quá nửa đêm. Quá nửa đêm năm phút. Rồi mười phút. Tôi đợi. Tôi bắt đầu nghĩ lời thách thức của mình đã bị lờ đi. Họ toàn là chính trị gia cả. Có thể họ đã đi một nước cờ cao hơn sức tôi có thể tưởng tượng. Có thể họ sĩ diện, hay tinh vi, hay kiên nhẫn hơn tôi. Có thể tôi đã vươn hơi quá tầm với của mình rồi.

Hoặc người phụ nữ đáp điện thoại kia đã quẳng tin nhắn của tôi vào thùng rác.

Tôi đợi.

Rồi mười lăm phút sau nửa đêm, tôi chợt nghe tiếng gót giày gõ xuống lớp vải sơn vọng tới. Tiếng giày tây, riêng rẽ từng nhịp bước một, nửa khẩn cấp, nửa thong thả. Như một người bận bịu nhưng không hốt hoảng. Tôi không thấy người đó. Tiếng gót giày gõ sàn vọng tới chỗ tôi từ một góc khuất. Nó chạy trước người đó, dọc theo hành lang vắng người như một âm thanh cảnh báo từ xa vậy.

Tôi lắng nghe âm thanh đó, nhìn nơi mà nó gợi ý người kia sẽ hiện ra, và đó chính là điểm mà ánh đèn huỳnh quang trên trần nhà gặp ảnh phản chiếu của mình trên sàn. Âm thanh kia vẫn vọng tới. Rồi một người đàn ông rẽ góc tiến vào, bước xuyên qua ánh sáng chói bừng. Người đó tiếp tục đi thẳng tới hướng tôi, nhịp chân không đổi, không chậm lại, không tăng tốc, vẫn bận rộn, mà không hốt hoảng. Người đó tới gần hơn. Đó chính là Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ. Ông ta mặc bộ quần áo tiệc tối trang trọng. Áo vét ngắn màu xanh ôm vào ở hông. Quần xanh có hai viền chỉ vàng hai bên. Cổ đeo nơ. Khuy áo và khuy cổ tay vàng. Hai bên tay áo và vai là những hàng dây tết chỉ vàng được thắt và uốn vòng rất công phu. Khắp người ông ta là huy hiệu, quân hàm, khăn quàng cùng nhiều huân chương phiên bản nhỏ khác, tất cả đều bằng vàng. Đầu ông ta đã bạc. Cao chừng một mét bảy lăm, nặng tám chục cân. Theo đúng số đo trung bình của quân nhân hiện đại.

Ông ta tới cách tôi chừng mười bước thì tôi lập tức giậm chân đứng nghiêm, giơ tay lên chào. Một phản xạ hoàn toàn tự nhiên. Như một tín đồ Công giáo gặp Giáo hoàng vậy. Ông ta không chào lại. Chỉ nhìn tôi. Hình như có một thông lệ nào đó ngăn cấm sĩ quan giơ tay chào kiểu nhà binh khi đang mặc quân phục tiệc tối thì phải. Hoặc khi đang đi đầu trần trong Lầu Năm Góc. Hoặc cũng có thể là ông ta bất lịch sự mà thôi.

Ông ta chìa tay ra.

“Xin lỗi tôi đến muộn,” ông ta nói. “Cậu đợi được thì tốt quá. Tôi vừa từ Nhà Trắng về. Đi ăn tối với vài người bạn nước ngoài ấy mà.”

Tôi bắt tay ông ta.

“Vào văn phòng tôi đi,” ông ta bảo.

Ông ta dẫn tôi qua chốt an ninh vành đai E, rồi chúng tôi rẽ trái vào hành lang và đi tiếp một đoạn. Sau đó chúng tôi vào một căn phòng, và tôi gặp người phụ nữ đáp máy ban nãy. Trông bà ta cũng giống hình ảnh tôi tưởng tượng ít nhiều.

Bà ta mặc thường phục. Một áo khoác sậm màu đứng đắn đến mức trông trang trọng hơn cả một bộ đồng phục. Nhưng giọng bà ta nghe trực tiếp hay hơn khi ở trên điện thoại.

“Cà phê chứ, Thiếu tá?” bà ta nói.

Bà ta đã pha sẵn một bình mới. Tôi đoán bà ta đã bật máy lên vào lúc mười một giờ năm mươi ba, để cà phê pha xong vào chính xác nửa đêm. Văn phòng Tham mưu trưởng dám là một nơi như vậy lắm. Bà ta đưa tôi đĩa lót, và một cái ly làm bằng sứ trong. Tôi sợ mình vô tình bóp vỡ nó như bóp vỏ trứng mất.

“Hướng này,” Tham mưu trưởng nói.

Ông ta dẫn tôi vào văn phòng mình. Ly cà phê của tôi rung lắc dữ dội trên đĩa lót. Văn phòng của ông ta đơn giản đến ngạc nhiên. Tường xi măng làm nhẵn hệt như tòa nhà vậy. Và dùng một loại bàn làm việc bằng thép mà tôi từng thấy trong văn phòng chuyên viên khám nghiệm tử thi ở trại Bird.

“Ngồi đi,” ông ta nói. “Nếu cậu không phiền, thì ta sẽ bàn chuyện nhanh nhé. Cũng trễ rồi.”

Tôi không nói gì. Ông ta quan sát tôi.

“Tôi đã nhận được tin nhắn của cậu,” ông bảo. “Nhận được, và hiểu rõ.”

Tôi không nói gì. Ông ta thử mớm lời.

“Tay chân giỏi của gã Noriega vẫn còn nhởn nhơ ngoài kia,” ông ta nói. “Cậu nghĩ nguyên nhân là sao?”

“Đất nước ba mươi ngàn dặm vuông,” tôi đáp. “Quá rộng rãi để người ta ẩn náu.”

“Liệu ta có tóm được hết chúng không?”

“Không phải bàn,” tôi nói. “Sẽ có kẻ bán đứng chúng mà thôi.”

“Cậu là một người hoài nghi.”

“Một người thực tế thì đúng hơn,” tôi đáp.

“Cậu có gì cần nói với tôi nào, Thiếu tá?”

Tôi nhấp cà phê. Đèn khá tối. Chợt tôi nhận ra mình đang ở sâu trong một tòa nhà an ninh vào hàng nhất thế giới, vào một đêm muộn, đối mặt với quân nhân quyền lực nhất quốc gia. Mà tôi lại sắp sửa ném ra một lời buộc tội nghiêm trọng. Và chỉ một người khác biết tôi đang ở đây, mà có khi cô đã bị ném vào một phòng giam đâu đó rồi ấy chứ.

“Tôi từng ở Panama hai tuần trước,” tôi nói. “Sau đó được chuyển đi.”

“Cậu nghĩ là vì sao?”

Tôi hít một hơi. “Tôi nghĩ là Phó Tham mưu trưởng đã sắp đặt từng cá nhân tới từng nơi riêng biệt vì ông ta lo lắng về một rắc rối lớn.”

“Rắc rối kiểu gì?”

“Một cuộc đảo chính nội bộ, từ nhóm bạn nối khố của ông bên Thiết giáp.”

Ông ta lặng đi một hồi lâu, rồi hỏi, “Mối lo đó có thực tế không?”

Tôi gật đầu. “Có một hội nghị ở trại Irwin diễn ra vào hôm mồng một. Tôi cho rằng bản chương trình nghị sự đó có chứa thông tin đáng quan ngại, có thể vi phạm pháp luật, có khả năng là mưu phản nữa.”

Tham mưu trưởng không đáp.

“Nhưng nó đã thất bại,” tôi nói. “Vì thiếu tướng Kramer đã chết. Thất bại đó có thể dẫn tới vô vàn rắc rối. Nên ông đã tự can thiệp, bằng cách thuyên chuyển đại tá Garber ra khỏi Đội 110 và cho một kẻ bất tài tiếp quản.”

“Sao tôi lại làm thế?”

“Để mọi việc thuận theo chiều tự nhiên, và việc điều tra cũng thất bại.”

Ông ta ngồi im một lúc lâu. Rồi chợt mỉm cười.

“Suy luận giỏi lắm,” ông ta nói. “Sự sụp đổ của cộng sản Xô Viết hiển nhiên sẽ gây ra đủ loại phiền lo cho nội bộ quân đội Hoa Kỳ. Những phiền lo ấy hiển nhiên sẽ dẫn đến đủ thứ âm mưu và toan tính trong nội bộ. Những âm mưu và toan tính nội bộ này hiển nhiên sẽ được lường trước, và hiển nhiên sẽ có những phương án được chuẩn bị để sẵn sàng diệt trừ hiểm họa tiềm tàng từ trong trứng nước. Và như cậu nói, cấp trên hiển nhiên sẽ chịu nhiều áp lực, dẫn đến việc họ đi các nước cờ riêng, và những nước cờ đối lại.”

Tôi không nói gì.

“Như chơi cờ ấy mà,” ông ta bảo. “Phó Tham mưu trưởng đi một nước, và tôi đi một nước đối lại. Một kết cục đương nhiên, ta đoán vậy, bởi vì cậu đang truy tìm hai nhân vật cấp cao, trong đó một người ở cấp cao hơn người kia.”

Tôi nhìn thẳng vào mắt ông ta.

“Tôi có sai không?” tôi hỏi.

“Chỉ sai hai điều thôi,” ông ta đáp. “Đương nhiên là cậu đúng ở khoản có những thay đổi lớn đang tới. Cơ quan tình báo CIA có hơi chậm chạp trong việc phát hiện sự sụp đổ hiển nhiên của phía Nga, khiến chúng ta chỉ còn không đầy một năm để cân nhắc mọi việc. Nhưng tin tôi đi, chúng ta đã cân nhắc mọi việc rồi. Chúng ta đang ở một tình thế độc đáo lắm. Chúng ta như một võ sĩ hạng nặng dành biết bao năm trời tập luyện chuẩn bị thi đấu giải vô địch thế giới, rồi bỗng một sáng thức dậy chợt thấy đối thủ mình nhắm đến lâu nay tự dưng lăn đùng ra chết. Đó là một cảm giác kỳ khôi vô cùng. Nhưng chúng ta đã thăm dò đến nơi đến chốn.”

Ông ta cúi xuống mở ngăn tủ, rồi chật vật lấy ra một tập hồ sơ khổng lồ. Nó phải dày tới ba inch. Nó rơi thịch xuống mặt bàn làm việc của ông ta. Nó được bọc trong một lớp bìa xanh lá, có khắc một dòng chữ dài màu đen. Ông ta lật ngược lại cho tôi đọc. Nó ghi: Thay đổi.

“Sai lầm đầu tiên của cậu là tầm nhìn quá hạn hẹp,” ông ta nói. “Cậu phải lùi lại mà nhìn nó bằng con mắt của chúng tôi. Nghĩa là từ trên nhìn xuống ấy. Thay đổi đâu chỉ dành riêng cho Thiết giáp. Tất cả sẽ phải thay đổi. Đương nhiên là chúng ta sẽ chuyển qua những đơn vị phối hợp cơ động hơn. Nhưng sai lầm khi cho rằng chúng chỉ là một nhóm bộ binh buộc thêm vài chiếc chuông và còi mà thôi. Chúng sẽ là một khái niệm hoàn toàn mới. Chúng sẽ là một thứ chưa từng xuất hiện. Có thể ta sẽ phối hợp cả trực thăng chiến đấu, và giao quyền chỉ huy cho những người bay trên trời. Có thể ta sẽ tập trung vào phương thức tác chiến điện tử, và giao quyền chỉ huy cho những người dùng máy tính.”

Tôi không nói gì.

Ông ta đặt tay lên tập hồ sơ, úp lòng bàn tay xuống. “Điều ta muốn nói ở đây là chẳng có phe nào giữ được nguyên hiện trạng của mình sau cuộc đổi mới này. Ừ thì, vị thế của Thiết giáp sẽ bị tổn hại. Không phải bàn về điều đó rồi. Nhưng phía bộ binh, kể cả pháo binh, kể cả vận tải, ban hậu cần, và tất cả những ban bệ khác, cũng sẽ phải chịu chung cảnh như vậy. Có những bên sẽ tổn thất nhiều hơn ấy chứ. Kể cả Quân cảnh nữa, biết đâu đấy. Tất cả sẽ phải thay đổi, Thiếu tá ạ. Sẽ không có hòn sỏi nào không bị lật lên cả.”

Tôi không nói gì.

“Đây đâu phải cuộc thượng đài giữa Thiết giáp và bộ binh,” ông ta nói. “Cậu cần hiểu điều đó. Nói vậy là giản lược thái quá. Đây là cuộc thượng đài của tất cả mọi người. Sẽ không có người chiến thắng, tôi e là vậy. Nhưng đồng thời, sẽ chẳng có ai thua cuộc. Cậu có thể chọn cách nghĩ như vậy. Mọi người đều trên cùng một con thuyền.”

Ông ta rời tay khỏi tập hồ sơ.

“Sai lầm thứ hai của tôi là gì?” tôi hỏi.

“Chính tôi đã chuyển cậu ra khỏi Panama,” ông ta nói. “Không phải vị Phó kia. Ông ta có biết gì về việc này đâu. Tôi tự tay lựa chọn hai mươi người, rồi đặt họ vào những nơi tôi nghĩ là cần thiết. Tôi dàn đều các cậu ra, bởi vì tôi nhận thấy bên nào cũng có khả năng chớp mắt trước tiên. Đó là đơn vị hạng nhẹ, hay đơn vị hạng nặng? Chẳng tài nào đoán được. Một khi chỉ huy của họ bắt đầu suy nghĩ, tất cả sẽ nhận ra mình có quá nhiều thứ để mất. Tôi cử cậu đến trại Bird, ví dụ nhé, vì hơi lo ngại tay David Brubaker. Hắn là dạng người xông xáo mà.”

“Nhưng chính Thiết giáp là bên chớp mắt trước tiên,” tôi nói.

Ông ta gật đầu.

“Có vẻ là vậy,” ông ta nói. “Nếu cậu bảo thế. Đó vẫn luôn là điều may rủi mà. Và thú thật thì tôi cũng hơi thất vọng. Họ là anh em của tôi. Nhưng tôi sẽ không vì vậy mà bao bọc cho họ. Tôi đã đi tiếp và đi lên. Tôi đã bỏ họ lại phía sau. Tôi hoàn toàn hài lòng để sự việc diễn ra tự nhiên.”

“Vậy tại sao ông lại thuyên chuyển Garber?”

“Tôi đâu có làm.”

“Vậy là ai?”

“Trên tôi có ai?”

“Không ai cả,” tôi bảo.

“Ước gì là vậy,” ông ta nói.

Tôi không đáp.

“Một khẩu M16 có giá bao nhiêu?” ông ta hỏi.

“Tôi không biết,” tôi đáp. “Không đắt lắm, tôi đoán vậy.”

“Chúng ta mua chúng với giá tầm bốn trăm đô la,” ông ta nói. “Một chiếc xe tăng chủ lực Abrams M1A1 có giá bao nhiêu?”

“Chừng bốn triệu đô.”

“Thế thì nghĩ đến các nhà thầu quốc phòng to bự xem,” ông ta nói. “Họ sẽ theo phe nào? Đơn vị hạng nhẹ, hay đơn vị hạng nặng?”

Tôi không đáp. Tôi đoán đó là một câu hỏi tu từ.

“Trên tôi có ai?” ông ta hỏi lại lần nữa.

“Bộ trưởng Bộ Quốc phòng,” tôi đáp.

Ông ta gật đầu. “Một gã choắt kinh tởm. Một chính trị gia đấy. Các đảng phái chính trị nhận đóng góp cho các chiến dịch. Và các nhà thầu quốc phòng cũng tiên đoán được tương lai như mọi người mà thôi.”

Tôi không đáp.

“Cậu có nhiều thứ phải nghĩ đấy,” Tham mưu trưởng nói. Ông ta nhấc tập hồ sơ kia bỏ lại vào ngăn tủ. Rồi đặt thế vào trên mặt bàn một tập hồ sơ mỏng hơn. Nó được ghi: Argon.

“Cậu biết argon là gì không?” ông ta hỏi.

“Một loại khí trơ,” tôi đáp. “Họ dùng nó trong các bình cứu hỏa. Nó phủ một lớp khí đè xuống ngọn lửa và ngăn ngọn lửa lan ra xung quanh.”

“Vì vậy tôi mới chọn cái tên này. Chiến dịch Argon chính là kế hoạch thuyên chuyển các cậu vào cuối tháng Chạp.”

“Vậy sao ông phải dùng chữ ký của Garber?”

“Như cậu đã ám chỉ, tôi muốn để việc thuận theo chiều tự nhiên. Lệnh dành cho Quân cảnh mà được ký bằng tên Tham mưu trưởng sẽ gây nghi ngờ. Mọi người sẽ tự động chỉnh đốn thái độ. Hoặc ngửi thấy mùi nguy và sẽ lập tức chui sâu xuống đất trốn. Việc cậu lúc đó sẽ còn khó hơn nhiều. Và nó phản lại mục đích của tôi.”

“Mục đích của ông?”

“Tôi muốn ngăn chặn sự việc, đương nhiên. Đó là ưu tiên. Nhưng đồng thời tôi cũng tò mò lắm, Thiếu tá ạ. Tôi muốn biết kẻ nào phát hoảng đầu tiên.”

Ông ta giao tôi tập hồ sơ.

“Cậu là điều tra viên đội đặc nhiệm,” ông ta nói. “Theo quy chế thì Đội 110 có những quyền lực phi thường. Cậu có quyền bắt giữ bất cứ người lính nào ở bất cứ đâu, kể cả tôi, ngay trong văn phòng này, nếu cậu muốn. Vậy nên đọc tập hồ sơ Argon này đi. Tôi nghĩ nó sẽ giải oan giúp tôi. Nếu cậu đồng ý, thì hãy tiếp tục công việc của mình ở nơi khác.”

Ông ta đứng dậy từ sau bàn làm việc. Chúng tôi bắt tay lần nữa. Rồi ông ta bước ra khỏi phòng. Để tồi ngồi một mình trong văn phòng, ngay trái tim của Lầu Năm Góc, vào giữa đêm.

Nửa tiếng sau tôi trở lại xe với Summer. Cô tắt máy để dành xăng, nên trong xe khá lạnh.

“Sao rồi anh?” cô hỏi.

“Một sai lầm nghiêm trọng,” tôi nói. “Trò kéo co này không phải giữa Phó và Tham mưu trưởng. Nó là giữa Tham mưu trưởng với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.”

“Anh chắc chứ?”

Tôi gật đầu. “Anh đã đọc qua hồ sơ. Bên trong đầy những lệnh và ghi chú từ chín tháng trước. Nhiều loại giấy khác nhau, nhiều loại máy đánh chữ khác nhau, nhiều loại bút khác nhau, không có cách nào làm giả chúng được trong vỏn vẹn bốn tiếng đồng hồ. Đó là kế hoạch của Tham mưu trưởng từ trước đến giờ, và ông ta vẫn luôn là phe ta.”

“Vậy thái độ ông ta ra sao?”

“Cũng không đến nỗi,” tôi đáp. “Đang cân nhắc. Nhưng anh không nghĩ ông ta sẽ giúp anh đâu.”

“Giúp gì?”

“Giúp lôi anh ra khỏi rắc rối.”

“Rắc rối nào anh?”

“Em cứ đợi mà xem.”

Cô trân trân nhìn tôi.

“Bây giờ mình đi đâu?” cô hỏi.

“California,” tôi bảo.