HAI MƯƠI BA
Trại Irwin chiếm nhiều diện tích của sa mạc Mojave đến nỗi họ có thể dùng nó để thay thế các sa mạc khổng lồ của Trung Đông, hoặc, nếu bỏ qua cái nóng và cát, thì còn thay thế được cả những thảo nguyên vô tận của Đông Âu. Có nghĩa là trụ sở doanh trại đã mất dạng trong khi tôi mới đi được một phần mười con đường tới chiếc xe tăng Sheridan kia. Khung cảnh xung quanh tôi hoàn toàn hoang vu. Chiếc Humvee này trông thật bé nhỏ tại đây. vẫn là tháng Giêng nên ít sương nhiệt, nhưng nhiệt độ vẫn rất cao. Tôi áp dụng phương pháp nằm ngoài sách hướng dẫn lái Humvee gọi là thao tác điều hòa 2-40, nghĩa là anh mở hết cả hai cửa sổ xe và lái với vận tốc bốn mươi dặm trên giờ. Nhờ đó mà đón được chút gió dễ chịu. Bình thường lái Humvee với vận tốc bốn mươi dặm trên giờ thì khá là nhanh vì động cơ của nó mạnh. Nhưng giữa nơi đồng không mông quạnh này thì lại thấy chẳng nhanh gì.
Cả tiếng sau tôi vẫn đi vận tốc ấy, mà vẫn chưa tìm được đài quan sát kia. Khung cảnh này cứ mở rộng tới vô cùng. Trại Irwin là một trong những căn cứ quân sự lớn nhất thế giới. Chắc chắn là vậy. Có thể phe Xô Viết sở hữu nơi nào đó còn to hơn nữa, nhưng nếu đúng vậy thì tôi sẽ ngạc nhiên lắm. Biết đâu lão Willard đã có thể kể tôi nghe. Tôi mỉm cười và tiếp tục đi. Tôi vượt qua một ngọn đồi, và một miền đồng bằng hoang vu hiện ra trước mắt. Ở phía chân trời xuất hiện một đốm nhỏ, có vẻ là của chính đài quan sát kia. Một nhúm khói bụi ở chừng năm dặm về hướng Tây có vẻ là của xe tăng đang di chuyển.
Tôi vẫn bám theo con đường mòn. Giữ vận tốc bốn mươi. Cát bụi theo sau xe tôi như một cái đuôi. Luồng gió thổi vào cửa sổ nóng vô cùng. Miền đồng bằng này có vẻ rộng tới ba dặm bề ngang. Đốm nhỏ nơi chân trời kia hóa thành một vệt mờ, rồi càng lúc càng lớn lên khi tôi tới gần nó hơn. Sau một dặm, tôi nhìn thấy ba hình dáng riêng biệt. Chiếc xe tăng cũ nằm bên trái, đài quan sát kia nằm bên phải, còn chiếc Humvee của Marshall nằm ngay giữa. Nó đậu ở phía Tây tòa nhà, tránh ánh nắng buổi sáng. Trông nó như loại bắn-rồi-phắn mà tôi đã thấy ở trụ sở Quân đoàn XII tại Đức. Tòa nhà là một khối xi măng đơn giản. Có những lỗ lớn làm cửa sổ. Không lắp kính. Chiếc xe tăng là loại M551 cũ, một chiến xa bọc giáp nhôm hạng nhẹ, được sản xuất với mục đích làm phương tiện trinh sát. Nó nặng bằng một phần tư chiếc Abrams và chính xác là thứ mà những người như trung tá Simon đã tin là sự đổi mới của tương lai. Nó đã từng phục vụ trong vài sư đoàn dù phe ta. Nó không tệ. Nhưng chiếc trước mắt tôi trông tha hóa lắm. Nó được ốp thêm lớp ván gỗ thiết kế phỏng theo loại xe tăng đời trước của phe Xô Viết. Sẽ chẳng hiệu quả gì khi bắt lính ta tập bắn phá một thứ mà đồng đội mình vẫn đang sử dụng.
Tôi bám theo đường mòn, và dần giảm tốc khi cách đài quan sát kia về hướng Nam chừng ba chục yard. Tôi mở cửa và trườn ra không khí nóng bên ngoài. Tôi đoán nhiệt độ ngoài trời chỉ tầm hai mốt độ, nhưng so với Bắc Carolina, Frankfurt, và Paris, thì nơi đây chẳng khác nào Ả Rập Xê Út vậy.
Tôi thấy Marshall quan sát tôi từ một lỗ trong tòa nhà xi măng kia.
Tôi mới chỉ thấy hắn một lần, mà cũng không phải gặp trực tiếp. Hắn ngồi trong chiếc Grand Marquis hôm mồng một, bên ngoài trụ sở chỉ huy trại Bird, trong bóng tối, đằng sau lớp kính che màu xanh lá. Tôi từng chắc mẩm hắn là một tay cao to, ngăm đen, và hồ sơ của hắn cũng xác nhận vậy. Giờ trông hắn y hệt thế. Cao lớn, vạm vỡ, da màu ô liu. Mái tóc dày màu đen được cắt ngắn. Hắn mặc đồ dã chiến ngụy trang sa mạc, và đang ló đầu xuống nhìn ra từ một cái hốc trong khối xi măng kia.
Tôi đứng cạnh chiếc Humvee của mình. Hắn lặng lẽ quan sát tôi.
“Marshall?” tôi gọi.
Hắn không đáp.
“Anh đang ở một mình chứ?”
Không tiếng trả lời.
“Sĩ quan Quân cảnh đây,” tôi gọi, lớn giọng hơn. “Yêu cầu tất cả rời khỏi tòa nhà ngay lập tức.”
Không ai lên tiếng đáp. Không ai ra khỏi tòa nhà. Tôi vẫn thấy Marshall từ cái hốc kia. Hắn vẫn thấy tôi. Tôi đoán hắn ở đó một mình. Nếu hắn có đồng đội trong ấy, người đó hẳn đã bước ra rồi. Đâu còn ai khác có lý do gì để sợ tôi chứ.
“Marshall?” tôi gọi lại lần nữa.
Hắn rúc đi mất. Như tan vào bóng tối bên trong tòa nhà vậy. Tôi rút khẩu súng mượn ra khỏi túi. Đó là một khẩu Beretta M9 mới toanh. Tôi nghe một câu thần chú khi thao tập vũ khí vang lên trong đầu: Không bao giờ tin tưởng thứ vũ khí mà anh chưa tự bắn thử. Tôi lên một viên đạn vào nòng. Tiếng lách cách vang lớn giữa sa mạc hoang vắng. Tôi thấy cụm khói bốc lên từ phía Tây. Trông nó có vẻ to hơn, và gần tôi hơn trước một chút. Tôi gạt khóa an toàn của khẩu Beretta sang bắn.
“Marshall?” tôi gọi.
Hắn không đáp. Nhưng tôi nghe một giọng trầm văng vẳng đâu đó, rồi tiếng nhiễu vô tuyến ngắn ngủi của sóng radio. Bên trên đài quan sát không hề có gắn ăng ten. Hắn chắc đã đem theo một đài radio di động.
“Anh định gọi ai vậy, Marshall?” tôi nói thầm với bản thân. “Kỵ binh tiếp viện hả?”
Rồi tôi giật mình: Kỵ binh. Một trung đoàn kỵ binh Thiết giáp. Tôi quay qua nhìn về hướng Tây nơi cụm khói bốc lên. Chợt nhận ra tình huống của mình. Tôi đang ở giữa nơi hoang vắng một mình, cùng một tay sát nhân đã xác định. Hắn trong đài quan sát, còn tôi đứng ngoài. Cộng sự của tôi là một cô gái nặng vỏn vẹn bốn mươi cân cách xa mình gần năm mươi dặm. Còn bạn hắn đang cưỡi trên những chiếc chiến xa nặng bảy chục tấn ngay đường chân trời.
Tôi vội chạy khỏi con đường mòn. Vòng qua mặt Đông của đài quan sát. Lại thấy Marshall ở đó. Hắn nhảy từ hốc này sang hốc khác, và chỉ quan sát tôi. Chằm chằm nhìn tôi từ xa.
“Bước ra khỏi đài quan sát ngay, Thiếu tá,” tôi gọi.
Một thoáng im lặng. Rồi tiếng hắn vọng ra.
“Tôi không làm thế đâu,” hắn nói.
“Bước ra đây mau, Thiếu tá,” tôi gọi. “Anh biết vì sao tôi ở đây mà.”
Hắn lại chui vào bóng tối.
“Bây giờ anh đang kháng lệnh bắt giữ đó,” tôi gọi.
Không tiếng đáp. Không tiếng động nào. Tôi tiếp tục di chuyển. Vòng quanh đài quan sát. Vòng tới mặt hướng Bắc. Mặt tường phía Bắc không có hốc cửa sổ nào. Chỉ có một cánh cửa sắt. Nó vẫn đang đóng. Tôi đoán nó không có khóa. Có gì trong đó để mà ăn cắp chứ? Tôi có thể bước tới mà mở tung cửa ra thôi. Hắn có vũ khí không? Có thể theo thủ tục thông thường thì hắn sẽ không trang bị vũ khí. Đi quan sát tập bắn thì có thể đụng độ kẻ thù hiểm ác nào chứ? Nhưng tôi đoán một kẻ thông minh trong tình huống của gã Marshall này sẽ chuẩn bị đủ các phương án phòng bị.
Đất bị xới tung bên ngoài cánh cửa sắt, do người ta đánh xe ra khỏi đường chính và đỗ lại mà thành. Một tay kiến trúc sư sẽ gọi những chỗ đó là đường mòn tùy tiện. Không có con đường nào dẫn đến hướng Bắc tới tôi. Chúng chỉ dẫn tới đâu đó về hướng Tây hoặc Đông. Tránh ánh nắng, buổi sáng và buổi chiều. Nên tôi tiếp tục ở trên đất trống, và tiến tới cách cánh của sắt mười yard. Rồi tôi dừng lại. Một vị trí an toàn, trong tình hình trước mắt. Thà thế còn hơn là liều xông vào rồi bị mai phục. Tôi có thể đợi đó cả ngày. Chẳng vấn đề gì. Lúc ấy là tháng Giêng. Ánh nắng ban trưa sẽ chẳng hại được tôi. Tôi có thể đợi tới khi Marshall đầu hàng. Hoặc chết vì đói. Tôi vừa ăn một bữa gần đây hơn hắn. Rõ ràng vậy. Mà nếu hắn định lao ra xả súng, tôi cũng có thể bắn hạ hắn trước. Vậy cũng chẳng phải vấn đề.
Nhưng vấn đề là các hốc tường trong khối xi măng này. Trên ba mặt tường còn lại ấy. Chúng to bằng cửa sổ thông thường. Đủ to để một người đàn ông có thể trèo ra. Kể cả một kẻ to lớn như Marshall đây. Hắn có thể trèo ra từ mặt tường hướng Tây chạy tới chiếc Humvee của mình. Hoặc qua hướng Nam, cướp lấy xe của tôi. Phương tiện quân sự không có chìa khóa. Chúng chỉ có một nút khỏi động to đùng màu đỏ, để người ta tiện nhảy vào trong cơn hoảng loạn và phóng biến ra khỏi rắc rối. Mà tôi không thể trông chừng hướng Tây lẫn hướng Nam cùng lúc được. Từ một vị trí cho phép tôi ẩn thân, thì không.
Tôi có cần ẩn thân không?
Hắn có vũ khí không?
Tôi có một cách để biết.
Không bao giờ tin tưởng thứ vũ khí mà anh chưa tự bắn thử.
Tôi nhắm vào giữa cánh cửa sắt và bóp cò. Khẩu Beretta hoạt động tốt. Cực kỳ ngon lành là khác. Nó khạc ra tia chớp cùng một tiếng nổ và giật lại, rồi một tiếng choang lớn vang lên, và viên đạn để lại một lỗ lõm nhỏ, rất rõ, trên mặt kim loại cách tôi mười yard.
Tôi để tiếng vang lắng xuống.
“Marshall?” tôi gọi. “Anh đang kháng lệnh bắt giữ đó. Nên tôi sẽ vòng qua và bắt đầu bắn lần lượt vào các ô cửa sổ. Hoặc đạn sẽ giết chết anh, hoặc sẽ văng tứ tung làm anh bị thương. Anh muốn tôi dừng lúc nào cũng được, chỉ việc bước ra ngoài đây với hai tay đặt lên đầu.”
Tôi nghe tiếng nhiễu sóng radio lần nữa. Bên trong đài quan sát.
Tôi di chuyển về hướng Tây. Cúi thấp người và đi thật nhanh. Nếu hắn có súng hắn sẽ bắn, nhưng sẽ trượt thôi. Nếu cho tôi quyền chọn ai đó bắn mình, thì tôi sẽ chọn ngay một tay cạo giấy chỉ biết tới kế hoạch và chiến lược. Nhưng nghĩ lại, hắn cũng đâu vô dụng lắm khi xử lý Carbone hay Brubaker. Nên tôi nới rộng khoảng cách một chút để có cơ hội trốn ra sau chiếc Humvee của hắn. Hoặc chiếc xe tăng Sheridan cũ kia.
Nửa chừng, tôi dừng lại và khai hỏa. Thật chẳng ra gì nếu chỉ biết hứa suông mà không dám làm. Nhưng tôi nhắm cao, vào mé trong mặt cạnh cửa sổ, như thế nếu viên đạn có trúng hắn thì trước đó cũng đã văng qua hai mặt tường và trần nhà rồi. Phần lớn lực bắn sẽ bị tiêu bớt và chẳng thể gây thương tổn nặng gì cho hắn. Đạn chín li hiệu Parabellum tốt, nhưng không thần kỳ đến vậy.
Tôi vòng ra sau nắp xe Humvee của hắn. Đặt tay cầm súng lên bề mặt kim loại hầm hập. Lớp sơn ngụy trang nham nhám. Như thể có cát trộn vào vậy. Tôi nhắm lên đài quan sát. Tôi đang nhìn nó từ dưới lên. Tôi khai hỏa lần nữa, phía trên cao mé trong mặt cạnh cửa sổ.
“Marshall?” tôi gọi. “Nếu anh muốn bị cảnh sát bắn chết, thì tôi cũng không ngại đâu.”
Không lời đáp. Tôi đã mất ba viên. Chỉ còn mười hai viên mà thôi. Một tay thông minh hẳn sẽ chỉ nằm yên dưới sàn nhà mặc tôi bắn bừa. Đường đạn của tôi sẽ hướng lên cao so với người hắn vì tôi đang ở dưới thấp. Và cũng vì bậu cửa sổ nữa. Tôi có thể để đạn nẩy lại từ trần nhà và mé tường đối diện, nhưng đạn bật đâu có như đánh bi-da. Ta chẳng thể canh đường chúng bay, và cũng chẳng thể tin tưởng chúng.
Chợt tôi thấy có chuyển động ngay hốc cửa sổ.
Hắn có vũ khí.
Mà cũng không phải súng ngắn thường. Tôi thấy một nòng súng săn to chĩa về phía mình. Màu đen. Phải to cỡ ống nước mưa. Tôi đoán là một khẩu Ithaca Mag-10. Một khẩu súng đáng gờm. Nếu anh muốn một khẩu súng săn, thì khẩu Mag-10 này chính là hạng nhất. Nó được gọi là Súng ngáng đường vì cực kỳ hiệu quả với các phương tiện vỏ mỏng. Tôi cúi người lùi ra sau, để động cơ của chiếc Humvee nằm giữa tôi và đài quan sát kia. Cố gắng ép người càng thấp càng tốt.
Rồi tôi nghe tiếng radio lần nữa. Từ bên trong đài quan sát. Một lệnh ngắn, loáng thoáng và đầy tiếng nhiễu, khiến tôi không nghe ra được chữ, nhưng theo nhịp điệu và biến đổi của tín hiệu thì nghe như một câu hỏi có ba từ. Hình như là Xin nhắc lại? thì phải. Anh sẽ nghe câu đó sau khi anh đưa ra một lệnh khó hiểu.
Rồi tôi nghe tiếng lệnh lặp lại. Xin nhắc lại? Rồi tôi nghe giọng Marshall. Chẳng rõ lắm. Ba âm tiết. Từ đầu tiên loáng thoáng. Tôi chắc chắn, chắc vậy.
Hắn đang gọi cho ai và ra lệnh gì vậy?
“Đầu hàng đi, Marshall,” tôi gọi. “Anh muốn ngập trong cứt sâu tới đâu hả?”
Đó là cái mà một viên đàm phán giải cứu con tin gọi là câu hỏi áp lực. Người ta cho là nó gây tác động tiêu cực về tâm lý. Nhưng không có nghĩa lý gì về mặt pháp lý. Nếu hắn bắn tôi, hắn sẽ bóc lịch bốn trăm năm trong trại Leavenworth. Nếu không bắn, hắn sẽ bóc lịch ba trăm năm. Không có khác biệt gì thực sự. Một tay biết suy nghĩ sẽ mặc kệ lệnh ấy.
Và hắn mặc kệ thật. Quả là một kẻ biết suy nghĩ. Hắn mặc kệ lệnh ấy và bắn khẩu Ithaca khổng lồ kia, là tôi cũng sẽ làm thế thôi.
Về lý thuyết thì đây là khoảnh khắc tôi đang đợi chờ. Bắn một khẩu súng nòng dài mà yêu cầu phải có thao tác lên đạn trước khi bắn tiếp viên nữa sẽ tạo nhiều sơ hở cho người bắn sau khi bóp cò. Đáng lẽ tôi phải lao ra từ nơi ẩn nấp ngay lập tức và bắn trả một viên chí tử. Nhưng sức va chạm khủng khiếp của viên đạn mười gauge [1] kia làm tôi chậm nửa giây. Tôi không trúng đạn. Đạn nổ ở tầm thấp và cắm vào bánh trước của chiếc Humvee. Tôi nghe tiếng bánh xe nổ, và góc đầu xe thụp xuống tới mười inch trên cát. Khói bụi văng tung tóe. Sau nửa giây tôi nhìn lên thì nòng khẩu súng đã biến mất. Tôi bắn vào mé trên mặt cạnh cửa sổ. Tôi muốn đạn nẩy từ trên ấy xuống xuyên qua đầu hắn.
[1] 10 gauge ~ 2,588mm
Phát súng của tôi không thành. Hắn gọi ra từ trong.
“Tôi đang nạp đạn đây,” hắn nói.
Tôi khựng lại. Có thể hắn nói dối. Một khẩu Mag-10 chứa được ba viên. Hắn mới bắn một phát. Có thể hắn muốn dụ tôi ra khỏi nơi ẩn nấp và xông tới chỗ hắn. Khi đó hắn sẽ bắn tung tôi đi với nụ cười trên môi. Tôi ở yên vị trí của mình. Tôi đâu có cái sung sướng được nạp đạn ấy. Tôi đã mất bốn viên, và còn mười một viên mà thôi.
Tôi lại nghe tiếng radio lần nữa. Tiếng nhiễu ngắn, bốn âm tiết, nhỏ dần về sau. Đã nghe rõ, hết. Nhanh và bình thản, như tiếng láy rền của đàn piano vậy.
Marshall khai hỏa lần nữa. Tôi thấy nòng súng đen ngòm vươn ra khỏi cửa sổ cùng một tiếng nổ lớn, và góc sau chiếc Humvee lún xuống hai lăm phân. Cứ thế sụp thẳng xuống. Tôi thụp xuống đất trong một giây và liếc nhìn dưới ấy. Hắn đang bắn nổ bánh xe. Một chiếc Humvee có thể chạy khi bánh xì hơi. Đó là một phần trong yêu cầu thiết kế của nó. Nhưng nó không thể chạy khi các bánh xe đã bung bét. Và một khẩu súng săn mười gauge đâu chỉ làm xì bánh xe. Nó thổi tung bánh xe ấy chứ. Nó xé toác lốp cao su ra khỏi vành xe, để mảnh vụn bay lả tả khắp bán kính hai mươi bước xung quanh.
Hắn muốn phá chiếc Humvee của hắn rồi chạy tới cướp lấy xe mình.
Tôi quỳ dậy rồi khum người sau nắp xe. Giờ tôi thực sự an toàn hơn trước. Chiếc xe lún nghiêng về phía ghế hành khách trước, tạo thành một gờ kim loại ngon lành chắn giữa tôi và hắn xuống tới nền cát. Tôi áp người vào cái chắn bùn trước. Để đầu ngang tầm với thùng động cơ. Giữa tôi và khẩu súng kia là gần ba trăm cân gang. Tôi nghe mùi dầu diesel. Một ống xăng đã trúng đạn. Dầu chảy ra rất nhanh. Một xe mất bánh, cạn sạch dầu. Mà thấm ướt áo bằng dầu diesel, châm lửa nó rồi thảy vào đài quan sát cũng chẳng được gì. Tôi không có diêm quẹt. Vả lại dầu diesel cũng không bắt lửa như xăng. Nó chỉ là chất lỏng nhờn nhờn mà thôi. Nó cần được cho bốc hơi và nén chặt mới nổ được. Đó là lý do chiếc Humvee được thiết kế chạy bằng diesel. An toàn là trên hết.
“Bây giờ thì tôi nạp đạn đây,” Marshall gọi ra.
Tôi đợi. Hắn nói dối hay thật vậy? Chắc hắn nói thật. Nhưng tôi mặc kệ. Tôi đâu có giục hắn đâu. Tôi có sáng kiến hay hơn. Tôi bò theo bên sườn bị nghiêng của chiếc Humvee và dừng lại ở cái hãm xung sau xe. Ngó ra sau nó và quan sát khung cảnh trước mắt. Tôi thấy chiếc Humvee của tôi ở hướng Nam. Tôi thấy được gần như cả đoạn đường đến đài quan sát ở hướng Bắc. Từ đây tới đó là một khoảng đất trống hơn hai mươi lăm yard. Vành đai trắng giữa hai chiến tuyến. Marshall sẽ phải chạy thục mạng qua một khoảng đất trống rộng hai mươi lăm yard mới tới chiếc Humvee của tôi. Băng qua tầm bắn của tôi. Chắc hắn sẽ chạy giật lùi, vừa chạy vừa bắn loạn. Nhưng súng của hắn chỉ chứa được ba viên. Nếu hắn bắn nhắm chừng, thì cứ tám yard mới bắn một viên. Nếu hắn bắn hết đạn khi mới đầu và không còn vũ khí, thì từ đây tới chiếc xe, hắn chẳng khác nào ở truồng. Dù cách nào chăng nữa, hắn cũng sẽ bị hạ thôi. Chắc chắn là vậy. Tôi đang cầm một khẩu súng ngắn bắn cực chính xác với mười một viên đạn Parabellum, và một cái hãm xung bằng thép để tựa tay mà bắn.
Tôi mỉm cười.
Tôi đợi.
Và rồi chiếc xe tăng Sheridan nổ tung sau lưng tôi.
Tôi nghe tiếng rít trong gió như là một viên đạn to bằng chiếc xe Volkswagen đang bay tới, và tôi quay lại vừa kịp lúc trông thấy một chiếc xe tăng cũ nát bét, như thể vừa bị tàu lửa tông phải. Nó bay lên khỏi mặt đất cả ba chục phân, lớp vỏ giả bằng ván gỗ vỡ vụn, tháp pháo văng ra khỏi vành khung, xoay tròn chậm rãi trên không, rồi rơi uỳnh xuống mặt cát cách tôi mười bước.
Không có vụ nổ nào. Chỉ có tiếng trầm của sắt thép va nhau vang lên. Rồi một thoáng im lặng đáng sợ.
Tôi quay lại. Nhìn khoảnh đất trống. Marshall vẫn ở trong đài quan sát. Rồi một bóng đen vụt qua đầu tôi, và tôi thấy một viên đạn bay giữa không trung với ảo giác chuyển động chậm kỳ lạ mà anh gặp ở pháo bắn từ xa. Nó bay vút qua đầu tôi theo một vòng cung cực chuẩn rồi vào nền cát cách đó tầm mươi yard. Viên đạn bắn tung lên một cụm khói với cát và ngập sâu vào lòng đất.
Không nổ.
Họ đang bắn mình bằng đạn luyện tập.
Tôi nghe tiếng rít của tua bin ở xa. Tiếng lạch cạch của bánh xích, bánh răng đệm và trục lăn văng vẳng. Tiếng gầm nghèn nghẹt của động cơ trong khi đám xe tăng xông về phía tôi. Tôi nghe một tiếng bùmvăng vẳng khi nòng súng khai hỏa. Rồi im lặng. Rồi tiếng rít trong không khí. Rồi thêm nhiều tiếng sắt thép vỡ tung khi chiếc Sheridan lại trúng đạn. Không nổ. Viên đạn luyện tập thường to bằng đạn thật, cùng kích cỡ, cùng trọng lượng, cùng lượng chất nổ, nhưng không lắp ngòi nổ ở mũi đạn. Chúng chỉ là một cục kim loại. Như đạn súng ngắn, có điều chúng to ngang hơn mười hai phân và dài hơn ba chục phân.
Marshall đã ra lệnh đổi mục tiêu tập bắn.
Đó là cuộc trao đổi trên radio mà tôi nghe thấy. Marshall đã bắt họ dừng việc đang làm ở cách đó năm dặm về hướng Tây. Hắn đã lệnh cho họ tiến về phía mình rồi nã pháo về tọa độ của chính hắn. Họ đã ngạc nhiên lắm. Xin nhắc lại? Xin nhắc lại? và Marshall đã trả lời: Tôi chắc chắn.
Hắn đã đổi mục tiêu để tiện bề trốn thoát.
Ngoài kia có bao nhiêu chiếc tăng? Tôi còn bao nhiêu thời gian nữa? Nếu có tới hai chục chiến xa nã súng vào khu vực này thì một mục tiêu bé như tôi cũng sẽ dính đạn sớm thôi. Chỉ trong vài phút. Chắc chắn là vậy. Nguyên tắc trung bình bảo đảm điều đó. Và trúng một viên đạn to ngang hơn mươi hai phân và dài hơn ba chục phân sẽ chẳng vui vẻ gì. Gần trúng cũng tệ chẳng kém. Một cục kim loại nặng hai mươi ba cân đập vào chiếc Humvee mà tôi đang trốn đằng sau sẽ làm cho chiếc xe vỡ tung thành một cơn mưa những mảnh vụn bay tứ tung với vận tốc âm thanh và sắc không thua những con dao K-bar. Dù không có ngòi nổ, nhưng chỉ động lực của chúng cũng đủ làm điều đó xảy ra. Sẽ như một quả lựu đạn nổ tung ngay cạnh tôi vậy.
Tôi nghe những tiếng bùm, bùm rời rạc vọng tới từ hướng Bắc và Tây. Những tiếng trầm đục. Hai khẩu pháo bắn liên tục trước sau. Đang ở gần hơn trước. Tiếng gió rít lên trên không. Một viên bay xa, nhưng viên kia bay thấp theo quỹ đạo thẳng hướng tung vào giữa bên sườn chiếc Sheridan. Viên đạn găm vào, rồi bay xuyên qua sườn chiếc xe tăng như đạn.38 bắn vào lon thiếc vậy. Nếu trung úy Simon được chứng kiến cảnh ấy, anh ta hẳn sẽ đổi cách nhìn về tương lai.
Thêm nhiều khẩu pháo nữa khai hỏa. Khẩu này nối tiếp khẩu kia. Một loạt đạn rời rạc. Không có vụ nổ nào. Nhưng những âm thanh vật lý phá hoại kia còn đáng sợ hơn nhiều. Nghe chúng như những tiếng gầm cổ xưa. Không khí rít lên. Những tiếng thuỵch trầm đục khi đạn cắm vào cát. Những tiếng kim loại va vào nhau rung lên rợn người, như một cuộc đọ kiếm giữa hai vị thần khổng lồ cổ đại vậy. Từng mảng lớn của chiếc Sheridan lăn đi lông lốc, va đập, rung lên và trượt dài trên nền cát. Không trung phủ đặc khói bụi. Tôi sặc lên sặc xuống. Marshall vẫn trong đài quan sát. Tôi cúi thấp người và vẫn nhắm khẩu Beretta về khoảng trống trước mặt. Chờ đợi. Cố gồng cứng tay. Chằm chằm nhìn vào khoảng trống. Trừng mắt nhìn vào đó, trong vô vọng. Tôi không hiểu nổi. Marshall hẳn phải biết mình không thể đợi lâu hơn được nữa. Hắn đã ra lệnh giáng xuống một trận mưa kim loại. Cả hai chúng tôi đều đang bị xe tăng Abram tấn công. Chiếc Humvee của tôi chẳng sớm thì muộn cũng sẽ dính đạn. Phương tiện tẩu thoát duy nhất của hắn sắp tan thành mây khói trước mắt. Nó sẽ sớm bị lật tung lên, lộn nhào rồi cắm xuống đất. Nguyên tắc trung bình bảo đảm điều đó. Hoặc không thì chính đài quan sát sẽ trúng đạn và đổ sập xuống đầu hắn trước tiên. Hắn sẽ bị chôn vùi trong đống đổ nát. Một trong hai điều trên sẽ chóng xảy ra mà thôi. Chắc chắn vậy. Không thể tránh khỏi. Vậy thằng cha này còn đợi cái gì nữa?
Rồi tôi quỳ gối thẳng dậy và nhìn đài quan sát.
Vì tôi chợt nhận ra.
Hắn muốn tự sát.
Tôi đã mời hắn cơ hội bị cảnh sát bắn chết, nhưng hắn đã chọn bị xe tăng bắn chết. Hắn đã thấy tôi tới tận đây và đoán ra tôi là ai. Như Vassell và Coomer, hắn đã ngồi bó gối ngày này qua ngày khác, chờ đợi kết cục này. Và lúc này đây, cuối cùng, kết cục đó đã lái xe Humvee xé tan khói bụi sa mạc mà lao thẳng tới hắn. Hắn đã đắn đo, và quyết định bốc điện đàm lên.
Hắn sắp tiêu tùng, và hắn muốn kéo mình theo cùng.
Tôi có thể nghe tiếng xe tăng tiến sát hơn rồi. Không đầy tám hay chín trăm yard nữa thôi. Tôi có thể nghe tiếng bánh xích của chúng nghiến và rít lên. Chúng vẫn di chuyển rất nhanh. Chúng sẽ tản ra, như trong sách hướng dẫn thực chiến đã ghi. Chúng sẽ vừa gầm rú vừa phóng tới. Chúng sẽ tung một loạt những cột cát lên không trung. Chúng sẽ dàn thành một đội hình bán nguyệt di động, với nòng pháo hướng vào trong như que chèn bánh xe vậy.
Tôi bò trở lại và nhìn chiếc Humvee của mình. Nhưng nếu tôi chạy tới nó Marshall sẽ bắn hạ tôi từ chốn an toàn trong đài quan sát kia. Chắc chắn là thế. Khoảng đất trống rộng hai lăm yard ắt cũng thuận lợi với hắn hệt như với tôi vậy.
Tôi đợi.
Tôi nghe tiếng bùm, và một tiếng vút của viên đạn, rồi lập tức đứng dậy chạy về hướng ngược lại. Tôi nghe thêm một tiếng bùm và vút nữa, và viên đạn pháo đầu tiên đâm vào chiếc Sheridan khiến nó bị lật hẳn lại, còn viên thứ hai trúng chiếc Humvee của Marshall và phá hủy nó hoàn toàn. Tôi ném mình ra sau mặt tường phía Bắc của đài quan sát rồi lăn người ép sát vào dưới chân tường, lắng nghe tiếng mảnh vỡ kim loại bắn phầm phập vào khối nhà xi măng, và tiếng rít của lớp giáp chiếc xe tăng Sheridan cũ kỹ khi cuối cùng nó cũng rụng thành từng mảnh.
Những chiếc xe tăng kia đã rất gần rồi. Tôi nghe tiếng động cơ của chúng lên rồi xuống, khi chúng vượt qua những gờ cát. Tôi có thể nghe tiếng bánh xích của chúng va đập vào lớp giáp ngoài. Tôi còn nghe được tiếng rin rít của nòng pháo xoay nữa.
Tôi đứng dậy. Đứng thẳng người. Quệt cát ra khỏi mắt. Bước tới cánh cửa sắt. Nhìn lỗ hõm sáng loáng do tôi bắn vào lúc trước. Tôi biết Marshall hoặc đang đứng bên cửa sổ hướng Nam canh chừng tôi bỏ chạy, hoặc đứng bên cửa sổ hướng Tây cố tìm ra xác tôi trong đống vụn. Tôi biết hắn cao to và thuận tay phải. Tôi nhắm trong đầu mình một mục tiêu mơ hồ. Đặt tay trái lên nắm đấm cửa. Đợi.
Loạt pháo tiếp theo bắn gần tới mức tôi nghe tiếng bùm vút bùm vút không gián đoạn. Tôi mở cửa lao vào trong. Marshall ở ngay trước mặt tôi. Hắn đang quay đi, về hướng Nam, tắm trong ánh sáng từ ngoài cửa sổ. Tôi nhắm vào bả vai trái hắn và đang chực bóp cò thì chợt một viên đạn thổi tung trần nhà đài quan sát. Căn phòng lập tức ngập trong khói bụi còn tôi thì bị những thanh xà cùng những tấm tôn trên trần nhà rơi xuống va trúng, đồng thời còn bị những mảnh vụn bê tông bay tứ tung đập vào người. Tôi khuỵu gối xuống. Rồi chúi sấp mặt về phía trước. Tôi bị kẹt cứng. Tôi không thấy Marshall nữa. Tôi nhổm dậy trên đầu gối, lấy cánh tay gạt đi những mảnh vụn. Khói bụi cuộn thẳng lên cao, và tôi nhìn thấy mảng trời xanh ngay trên đầu mình. Tôi nghe tiếng xích xe tăng khắp xung quanh. Rồi tôi nghe thêm một tiêng bùm vútnữa và góc trước tòa nhà bị bắn tung. Nó biến mất trong một tích tắc. Nó vừa hãy là một khối cứng cáp, bất chợt thành những cụm khói bụi màu xám bay thẳng tới tôi với vận tốc âm thanh. Một luồng gió mạnh bụi bặm quất theo sau và đánh tôi ngã xuống lần nữa.
Tôi gượng dậy và bò tới trước. Cố lết qua những xà nhà đổ sập và những đống bê tông vỡ vụn. Tôi ném những tấm tôn méo mó qua một bên. Tôi như một cái xe đẩy tuyết. Như một cái máy ủi, lừ lừ tiến tới, gạt những đống đổ nát qua hai bên trái phải. Xung quanh đầy khói bụi khiến tôi chẳng còn thấy gì ngoài ánh nắng. Ở ngay trước tôi đây thôi. Ánh sáng ở phía trước, bóng tối ở phía sau. Tôi tiếp tục tiến tới.
Tôi tìm thấy khẩu Mag-10. Nòng của nó đã bị đè nát. Tôi ném nó qua một bên và ủi tới. Tôi thấy Marshall nằm trên sàn. Hắn không cử động. Tôi gạt đống đổ nát khỏi người hắn, rồi nắm cổ áo lôi hắn ngồi dậy. Kéo hắn theo mình tới tận mặt tường phía trước. Tôi ngả lưng vào đó rồi trườn lên tới hốc cửa sổ. Tôi ho và khạc ra toàn bụi bặm. Chúng dính đầy mắt tôi. Tôi kéo hắn lên, lôi hắn qua bậu cửa sổ rồi thảy hắn ra ngoài. Tôi lao ra theo hắn. Tôi chống tay khuỵu gối nhổm dậy, nắm lấy cổ áo hắn rồi tiếp tục kéo lê đi. Bên ngoài đài quan sát khói bụi đang tan dần. Tôi thấy nhiều xe tăng, cách chúng tôi chừng ba trăm yard cả bên phải lẫn trái. Rất nhiều xe tăng là khác. Những đống kim loại nóng rẫy dưới ánh mặt trời gay gắt. Họ đã bao vây chúng tôi. Họ dàn thành một hình tròn hoàn hảo, động cơ rầm rì, nòng pháo chĩa thẳng tới, hướng về khoảng trống phía trước. Tôi nghe tiếng bùm vút lần nữa và thấy tia chớp lóe lên trước một họng pháo, và thấy nó thụt lùi về sau bởi sức giật. Tôi thấy viên đạn pháo bay thẳng qua đầu chúng tôi. Tôi thấy nó bay trên không trung. Tôi nghe nó phá vỡ hàng rào âm thanh với một tiếng rắc như cổ ai bị bẻ gãy. Nghe tiếng nó đâm sầm vào những gì còn lại của đài quan sát. Thêm khói bụi và mảnh xi măng rơi lộp độp lên người tôi. Tôi chúi sấp mặt xuống đất nằm im, bị kẹt lại ngay khu vành đai trắng này.
Rồi một chiếc xe tăng nữa khai hỏa. Tôi thấy nó thụt lùi lại bởi sức giật. Cả khối kim loại bảy chục tấn, bị giật lại mạnh đến mức chổng đầu trước lên trời. Viên đạn pháo của nó rít lên trên đầu. Tôi bắt đầu di chuyển. Tôi kéo Marshall theo sau mình và bò trên mặt đất như đang bơi vậy. Tôi chẳng biết hắn đã nói gì trên điện đàm. Chẳng biết hắn đã ra lệnh gì. Hẳn hắn đã nói với đồng đội là mình đã ra khỏi đài quan sát. Có khi hắn đã bảo họ mặc kệ những chiếc Humvee này. Có thể vì thế nên mới có câu Xin nhắc lại? của bọn họ. Có thể hắn bảo họ rằng mấy chiếc Humvee này cũng là mục tiêu. Có thể đó là điều bọn họ thấy không tin nổi.
Nhưng tôi biết bọn họ sẽ không dừng bắn ngay. Vì bọn họ đâu nhìn thấy chúng tôi. Bụi bặm bốc lên như khói, và bên trong một chiếc Abrams kín mít đâu có nhìn rõ được xung quanh. Như thể chụp một chiếc túi đi chợ lên đầu rồi cô nhìn ra ngoài bằng cái lỗ vuông nhỏ xíu đục dưới đáy vậy. Tôi khựng lại gạt bụi đi và ho, rồi nhìn về phía trước. Chúng tôi đang ở gần chiếc Humvee của tôi.
Trông nó vẫn cứng cáp.
Trông nó vẫn nguyên vẹn.
Cho tới giờ.
Tôi đứng dậy và chạy nốt chặng đường mười feet cuối cùng, lôi Marshall qua bên ghế phụ, mở cửa, rồi ném hắn vào trong. Rồi tôi trèo qua người hắn nhảy vào ghế tài. Đập cái nút đỏ to đùng kia và nổ máy. Gạt cần vào số, đạp ga mạnh đến mức hai bên cửa đóng sập vào khi chiếc xe rồ lên. Rồi tôi bật hết đèn lên, để chân xuống sàn và lao vút đi. Summer hẳn sẽ tự hào lắm. Tôi lái xe lao thẳng vào hàng xe tăng trước mặt. Còn hai trăm yard. Còn một trăm yard. Tôi chọn một điểm, nhắm thật cẩn thận rồi phóng qua khe hở giữa hai chiếc xe tăng chủ lực đang đi với vận tốc hơn tám mươi dặm một giờ.
Chừng một dặm sau thì tôi đi chậm lại. Thêm một dặm nữa thì tôi dừng lại. Marshall vẫn còn sống. Nhưng hắn đang bất tỉnh, và chảy máu bê bết khắp người. Tôi nhắm khá tốt. Vai hắn có một vết thương to hoác cỡ chín li, xuyên thủng xương, từ bên này qua bên kia, cùng những vết thương khác khi đài quan sát đổ sập. Máu hắn quện vào xi măng và bụi thành ra một thứ dung dịch màu mận sền sệt. Tôi chỉnh lại hắn trên ghế, và kéo đai an toàn thắt hắn lại thật chặt. Rồi tôi mở hộp sơ cứu ra, lấy băng quấn chặt trước sau vết thương trên vai hắn, rồi tiêm thêm một mũi morphine. Tôi viết chữ M lên trán hắn bằng cây bút chì dầu như cách người ta vẫn làm khi trên chiến trường. Như thế phía cứu thương biết mà tránh tiêm quá liều cho hắn khi hắn đến bệnh viện.
Rồi tôi dạo quanh hít thở khí trời một lúc. Chỉ đi tới đi lui dọc con đường mòn, không mục đích. Tôi ho, khạc nhổ, rồi phủi bụi trên người càng sạch càng tốt. Người tôi ê ẩm và đau nhức vì bị hứng một đợt mưa xi măng. Tôi vẫn còn nghe tiêng xe tăng nã pháo tận hai dặm phía sau. Tôi đoán họ đang đợi lệnh ngừng bắn. Tôi đoán họ sẽ hết đạn trước khi nhận được cái lệnh nào.
Tôi áp dụng thao tác điều hòa 2-40 suốt đường về. Nửa đường thì Marshall tỉnh dậy. Tôi thấy cằm hắn hếch lên. Thấy hắn lơ đãng nhìn về trước rồi quay qua trái nhìn tôi. Hắn đang phê morphine, tay phải thì vô dụng, nhưng tôi vẫn cảnh giác. Nếu hắn níu lấy vô lăng bằng tay trái, hắn vẫn có thể đưa chiếc xe ra khỏi đường mòn. Hắn có thể sẽ khiến xe lao thẳng vào những quả bom xịt. Hoặc vào con rùa sa mạc nào đó. Nên tôi nhả tay phải khỏi vô lăng và thụi một đấm vào giữa hai mắt hắn. Một cú đánh ra trò. Hắn lăn ra ngủ lại ngay. Gây mê bằng tay. Hắn không còn làm phiền tôi nữa cho tới khi cả hai về đến doanh trại.
Tôi đưa hắn thẳng tới khu quân y. Gọi cho Franz từ trạm y tế và yêu cầu một đội canh gác. Tôi đợi họ tới, rồi hứa hẹn đề bạt và huân chương cho bất cứ ai giữ được Marshall sống tới lúc xử án. Tôi dặn họ đọc quyền của hắn ngay khi hắn tỉnh dậy. Và dặn họ đề phòng hắn tự tử. Rồi tôi để họ làm việc và lái về văn phòng của Franz. Bộ dã chiến của tôi đã nát bét, cứng đơ vì bụi, và tôi đoán mặt mũi, chân tay lẫn đầu tóc của tôi chẳng khá hơn là bao vì Franz đã phá lên cười ngay khi trông thấy tôi.
“Bắt giữ một thằng cha cạo giấy cũng khó nhằn đó nhỉ,” anh ta bảo.
“Summer đâu?” tôi hỏi.
“Đang đánh điện cho Đoàn Luật sư Quân đội,” anh ta đáp. “Gọi điện cho người này người kia.”
“Tôi làm mất khẩu Beretta của cậu rồi,” tôi bảo.
“Ở đâu cơ?”
“Ở nơi mà một nhóm nhà khảo cổ sẽ mất một trăm năm nữa mới tìm thấy.”
“Chiếc Humvee của tôi có ổn không?”
“Ổn hơn xe của Marshall đó,” tôi bảo.
Tôi tìm thấy túi đồ của mình trong một phòng khách dành cho sĩ quan và tắm nước nóng thật lâu. Rồi tôi dốc hết đồ trong túi áo, túi quần, chuyển chúng qua bộ dã chiến mới, và vứt đi bộ rách nát kia. Tôi nghĩ bất cứ sĩ quan hậu cần nào cũng đồng ý với tôi rằng chẳng có cách nào phục hồi được nó nữa. Tôi ngồi trên giường một hồi lâu. Hít vào, thở ra. Rồi đi bộ về văn phòng của Franz. Tôi gặp Summer ở đó. Cô trông rạng rỡ lắm. Cô đang cầm trên tay một xấp hồ sơ mới đầy những trang giấy.
“Ta có tiến triển rồi,” cô bảo. “Đoàn Luật sư Quân đội xác nhận các vụ bắt giữ của ta là hợp pháp lý.”
“Em có trình bày cáo buộc không?”
“Họ bảo sẽ cần lời tự thú.”
Tôi không nói gì.
“Ta phải gặp bên công tố ngày mai,” cô nói. “Tại Thủ đô.” “Em đi đi,” tôi bảo. “Anh sẽ không có mặt đâu.”
“Vì sao?”
Tôi không đáp.
“Anh ổn chứ?”
“Vassell và Coomer đã chịu khai chưa?”
Cô lắc đầu. “Vẫn chưa nói nửa lời. Tối nay Đoàn Luật sư Quân đội sẽ đưa họ tới Washington. Người ta đã phân công luật sư cho họ.”
“Có gì đó không ổn,” tôi bảo.
“Sao cơ anh?”
“Chuyện quá dễ dàng.”
Tôi nghĩ một thoáng.
“Ta phải về trại Bird,” tôi nói. “Ngay bây giờ.”
Franz cho tôi vay năm chục đô la và hai tấm giấy đi đường. Tôi ký nhận chúng và Leon Garber ký duyệt chúng dù đang ở cách chúng tôi cả mấy ngàn dặm tận Hàn Quốc. Rồi Franz đưa chúng tôi về sân bay LAX. Anh ta dùng xe công vụ vì chiếc Humvee của anh ta dính đầy máu Marshall. Đường thoáng nên chuyến đi khá nhanh. Chúng tôi bước vào và tôi đổi giấy đi đường lấy ghế ngồi trong chuyến bay đầu tiên tới Thủ đô. Tôi ký gửi hành lý. Lần này tôi không muốn xách tay chúng nữa. Chúng tôi khởi hành vào ba giờ chiều. Chúng tôi đã ở lại California chính xác tám tiếng đồng hồ.