HAI MƯƠI BỐN
Bay về phía Đông chúng tôi bị lấy lại mất ba tiếng đồng hồ có được khi sang phía Tây. Khi chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Washington Nationals thì đã mười một giờ đêm. Tôi lấy túi hành lý từ băng chuyền rồi chúng tôi lên xe trung chuyển ra khu để xe qua đêm. Chiếc Chevy vẫn ở đó đợi chúng tôi. Tôi dùng một ít tiền mà Franz đã cho vay để đổ đầy bình xăng. Rồi Summer chở cả hai về trại Bird. Cô phóng xe hết tốc lực trên con đường cao tốc I-95 quen thuộc. Chúng tôi băng qua Sở Cảnh sát bang, nơi tìm thấy chiếc cặp táp, trạm dừng chân, giao lộ hình hoa thị, quán trọ, và quán bar. Chúng tôi ký nhập trại tại cổng chính vào lúc ba giờ sáng. Doanh trại im ắng. Sương đêm phủ khắp nơi. Xung quanh không động tĩnh gì.
“Đi đâu đây anh?” Summer hỏi.
“Đến khu Delta,” tôi đáp.
Cô đưa cả hai tới cánh cổng khu trại giam cũ, và tay bảo vệ cho chúng tôi vào. Chúng tôi đậu ngay bãi xe chính của họ. Tôi thấy chiếc Corvette đỏ của Trifonov nằm trong bóng tối. Nó ở đó một mình, gần bức tường có gắn vòi nước. Trông nó sạch sẽ lắm.
“Sao mình lại đến đây?” Summer hỏi.
“Cáo buộc của chúng ta rất yếu,” tôi bảo. “Chính em đã nhận xét vậy. Và em nói đúng. Nó rất yếu. Dấu vết tìm thấy trong chiếc xe công vụ tuy có ích, nhưng chúng ta vẫn chưa có gì chắc chắn cả. Ta vẫn chưa thể xác thực Vassell, Coomer và Marshall có mặt ở bất cứ hiện trường nào. Không chắc chắn được. Ta đâu chứng minh được Marshall có động tới thanh xà beng kia. Ta đâu chứng minh được là hắn không ăn hũ sữa chua kia. Và ta rõ ràng cũng đâu chứng minh được Vassell và Coomer có trực tiếp ra lệnh cho hắn làm gì hay không. Nếu túng quá, họ vẫn có thể nói rằng Marshall tự biên tự diễn toàn bộ mọi chuyện.”
“Thì?”
“Chúng ta xông vào đối đầu với hai sĩ quan cấp cao mà có khả năng là không dính dáng gì tới cái cáo buộc đầy yếu ót và sơ hở kia. Chuyện gì lẽ ra phải xảy ra?”
“Họ lẽ ra phải phản kháng.”
Tôi gật đầu. “Họ lẽ ra phải chế giễu. Phải cười phá lên. Hoặc phải tức tối. Phải dọa nạt hoặc quát tháo. Họ lẽ ra phải xách ta lên thảy ra ngoài đường. Nhưng họ chẳng làm gì cả. Họ chỉ ngồi yên một chỗ. Và để sự im lặng phần nào thay thế cho lời thú tội. Anh nghĩ vậy. Đấy là cảm tưởng của anh.”
“Em cũng nghĩ thế,” Summer bảo. “Chắc chắn vậy.” “Vậy tại sao họ lại không phản kháng?”
Cô im lặng một thoáng.
“Lương tâm cắn rứt sao?” cô hỏi.
Tôi lắc đầu. “Còn khướt.”
Cô lặng đi một hồi lâu nữa.
“Chết,” cô nói. “Có thể họ chỉ đang chờ. Có thể họ muốn phanh phui sự việc trước mắt mọi người. Vào ngày mai, ở Thủ đô, khi làm việc cùng luật sư. Để phá banh sự nghiệp của ta. Để cho ta biết mùi. Có thể là đòn trả thù.”
Tôi lắc đầu lần nữa. “Anh cáo buộc họ tội gì?”
“Âm mưu giết người.”
Tôi gật đầu. “Anh nghĩ là họ hiểu lầm anh.”
“Anh nói rõ ràng mà.”
“Họ hiểu lời anh nói. Nhưng hiểu sai nội dung. Anh đang nói về vấn đề này, họ lại tưởng vấn đề khác. Họ tưởng anh đang nói về một việc hoàn toàn khác cơ. Họ tự thú nhầm âm mưu rồi, Summer. Họ tự thú một tội khác, một tội ác mà họ biết mình không còn đường chối cãi.”
Cô không nói gì.
“Bản chương trình nghị sự,” tôi bảo. “Nó vẫn đâu đó ngoài kia. Họ vẫn chưa tìm thấy nó. Vì Carbone đã lừa họ. Họ mở chiếc cặp táp trên cao tốc I-95, và không thấy nó nằm trong đó. Nó đã biến mất từ trước rồi.”
“Vậy nó đang ở đâu?”
“Anh sẽ chỉ cho em xem,” tôi đáp. “Đó là lý do vì sao mình phải quay lại. Để em có thể sử dụng nó ngày mai. Ở Thủ đô ấy. Hãy dùng nó để cân bằng những thứ khác. Những thứ chúng ta còn yếu ấy.”
Chúng tôi trườn ra ngoài trời lạnh. Chúng tôi đi bộ qua bãi xe tới cánh cửa nhà giam kia. Bước vào trong. Tôi nghe tiếng người ngủ. Tôi nếm được cả mùi chua chua đặc trưng của phòng ngủ tập thể. Chúng tôi đi qua các hành lang, quẹo qua các góc đường trong bóng tối cho đến khi tới phòng Carbone. Nơi ấy trống không và đồ đạc vẫn y nguyên như trước. Chúng tôi bước vào và tôi bật đèn lên. Bước tới chiếc giường. Rướn tay với lên kệ. Lướt ngón tay qua các gáy sách. Lôi ra quyển sách lưu niệm cao, mỏng của nhóm Rolling Stones kia. Cầm nó. Rồi lắc nó.
Một tập chương trình nghị sự dày bốn trang rơi xuống giường.
Chúng tôi nhìn nó chằm chằm.
“Brubaker đã dặn anh ta giấu nó đi,” tôi bảo.
Tôi nhặt nó lên rồi đưa cho Summer. Tắt đèn, rồi chúng tôi bước ra ngoài hành lang. Đụng ngay tên trung sĩ Delta trẻ mặt râu da rám nắng kia. Anh ta đang mặc quần trong và áo thun. Đi chân không. Theo mùi trên người thì có lẽ anh ta vừa nhậu cách đây bốn tiếng đồng hồ.
“Chà chà,” anh ta nói. “Có ai đến chơi đây ta.”
Tôi không nói gì.
“Mấy người nói chuyện to quá tỉnh cả ngủ,” anh ta tiếp. “Mà còn bật tắt đèn nữa chứ.”
Tôi không nói gì.
Anh ta lườm vào phòng Carbone. “Về thăm hiện trường hả?”
“Đây đâu phải nơi anh ta chết.”
“Mày thừa hiểu ý tao mà.”
Rồi tay Delta mỉm cười, và tôi thấy tay anh ta cuộn lại thành nắm đấm. Tôi lấy cẳng tay trái đẩy anh ta vào tường. Sọ tên đó dập vào tường xi măng, làm mắt đờ đi một thoáng. Tôi giữ chặt cẳng tay ngang ngực anh ta. Cùi chỏ trái ấn xuống bắp tay phải, còn các ngón tay duỗi ra phía trên bắp tay trái. Ghìm chặt anh ta vào tường. Tôi dồn trọng lượng mình lên người đối phương. Cứ nghiến tới như vậy đến khi anh ta thở không nổi nữa.
“Giúp tôi việc này,” tôi bảo. “Tuần này nhớ ngày nào cũng đọc báo nhé.”
Rồi tôi lục túi áo khoác bằng tay còn rảnh và tìm thấy viên đạn. Viên mà chính anh ta đã giao tới. Viên đạn có khắc tên tôi. Tôi giơ nó lên. Nó lóe ánh vàng dưới ngọn đèn đêm mờ.
“Nhìn đây,” tôi nói.
Tôi giơ cho anh ta thấy viên đạn. Rồi nhét nó vào mũi anh ta.
Cô trung sĩ của tôi đang ngồi ở bàn. Cái cô có đứa con trai nhỏ ấy. Cô đang pha cà phê. Tôi rót lấy hai cốc rồi đem vào văn phòng. Summer cầm theo bản chương trình nghị sự kia hệt như một chiến lợi phẩm. Cô gỡ kim bấm ra khỏi xấp giấy rồi trải từng tờ lên bàn.
Chúng là bản gốc in trên máy đánh chữ. Không phải bản sao giấy than, hay fax, hay photo. Chắc chắn vậy. Trên giấy còn đầy những dòng ghi chú và chỉnh sửa viết bằng tay nguệch ngoạc dọc theo mép. Chữ của ba người khác nhau. Tôi đoán đa số là của Kramer, nhưng gần như chắc chắn cũng có chữ của Vassell và Coomer nữa. Đây là bản thảo đầu tiên. Điều đó cũng đã rõ. Có thể thấy dấu vết của sự cân nhắc và suy xét kỹ lưỡng của họ trên đây.
Tờ đầu tiên phân tích những trở ngại mà Thiết giáp đang phải đối mặt. Các đơn vị phối hợp, sự mất uy thế. Khả năng mất quyền chỉ huy vào tay người khác. Nghe thật u ám, nhưng lẽ thường là thế. Và mối lo của họ cũng đúng, theo lời Tham mưu trưởng.
Tờ thứ hai và thứ ba ghi chép những thứ mà tôi đã tiên đoán được phần nào cùng với Summer. Những đề xuất nhằm hạ gục uy tín của đối phương, tận dụng triệt để những điểm yếu của họ. Vài ghi chú bên mép giấy có nhắc đến những điểm yếu đó, mà nhiều cái đọc khá thú vị. Tôi thắc mắc không biết họ đã thu thập những thông tin đấy bằng cách nào. Và tôi thắc mắc liệu có ai trong Đoàn Luật sư Quân đội điều tra thêm về những cái trong này không. Có thể sẽ có vài người. Các cuộc điều tra thường như vậy. Ta chẳng bao giờ biết chúng hướng mình đi đến đâu cả.
Có một số ý tưởng cho các chiến dịch nhắm đến công chúng. Đa số đều nhạt nhẽo. Lính Thiết giáp chẳng còn giao du gì với công chúng kể từ khi đón xe buýt tới học năm đầu tiên tại West Point. Rồi có nhắc đến các nhà thầu quốc phòng lớn. Có những ý tưởng cho các đề xuất chính trị trong Bộ Lục quân và Quốc hội. Vài ý tưởng chính trị trong đó vòng lại và liên kết với các nhà thầu quốc phòng kia. Có bóng gió về những mối quan hệ phức tạp vô cùng. Có thể thấy là tiền vào đầu này và trợ giúp ra đầu bên kia. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng được nhắc đích danh. Sự bảo trợ của ông ta rõ ràng đã bị xem thường. Có một dòng tên ông ta còn được gạch dưới và ghi thêm như sau: đã mua chuộc. Nhìn chung thì ba trang giấy đầu này chứa đầy những thứ đặc trưng của một bọn ngạo mạn chăm chăm tìm mọi cách giữ gìn vị thế. Rõ ràng là hèn hạ, bẩn thỉu và tuyệt vọng vô cùng. Nhưng chẳng có điều gì đưa anh vào tù cả.
Rồi tôi chợt phát hiện ra điều đó trên trang thứ tư.
Trang thứ tư có đề mục rất kỳ lạ: Q.T.T.D., Vượt Giới hạn. Dưới đề mục là một câu trích dẫn từ cuốn Binh Pháp Tôn Tử: Khi bị dồn vào đường cùng mà không quyết chiến với kẻ thù thì chỉ còn đường chết.Dọc theo mép giấy còn ghi thêm một dòng nữa bằng bút chì, mà tôi đoán là chữ tay của Vassell: Với bậc chỉ huy, thì sự điềm tĩnh khi lâm cảnh nguy cấp chính là dũng khí, còn sự quyết liệt khi truy đuổi kẻ địch chính là chí khí. Wavell.
“Wavell là ai thế anh?” Summer hỏi.
“Một vị tổng chỉ huy mặt trận của Anh quốc thời xưa,” tôi đáp. “Thời Thế chiến thứ hai. Sau đó làm toàn quyền Anh tại Ấn Độ. Ông ta bị chột một mắt trong Thế chiến thứ nhất.”
Dưới dòng trích dẫn của Wavell là một ghi chú bằng bút chì của người khác. Chắc là của Coomer. Nó ghi: Ai xung phong đây? Tôi? Hay Marshall? Ba câu hỏi đó được khoanh tròn, và được một đường dài bằng bút chì nối tới dòng đề mục: Q.T.T.D., Vượt Giới hạn.
“Thế nghĩa là sao?” Summer hỏi.
“Em đọc đi,” tôi đáp.
Dưới câu trích dẫn của Tôn Tử là một danh sách ghi mười tám cái tên. Tôi biết hầu hết bọn họ. Đó là tên của những vị tiểu đoàn trưởng có máu mặt thuộc các sư đoàn bộ binh trứ danh như Sư đoàn số 82 và số 101, vài công chức cấp cao của Lầu Năm Góc, và dăm ba người nữa. Tuổi tác và cấp bậc của bọn họ khá thú vị. Dù không có những sĩ quan cấp thấp, nhưng danh sách đây không chỉ dành riêng cho các cụ già. Không hề. Trong số họ có vài ngôi sao đang lên. Vài lựa chọn hiển nhiên, vài kẻ nổi loạn khác thường. Vài cái tên tôi thấy lạ hoắc. Tên những người tôi chưa nghe bao giờ. Thí dụ như một tay tên là Abelson chẳng hạn. Tôi chẳng biết Abelson là ai. Tên anh ta được đánh dấu bằng bút chì. Mà những người khác lại không.
“Đánh dấu để làm gì nhỉ?” Summer hỏi.
Tôi gọi cho cô trung sĩ ngồi phòng ngoài.
“Cô biết ai tên Abelson không?” tôi hỏi.
“Không,” cô đáp.
“Tìm hiểu thử xem,” tôi bảo. “Anh ta chắc chắn phải là trung tá trở lên.”
Tôi nhìn lại danh sách. Nó ngắn, nhưng đủ đơn giản để hiểu. Nó là một bảng liệt kê mười tám cái xương trụ cột trong một bộ xương đang tiến hóa. Hoặc mười tám dây thần kinh chính trong một hệ thần kinh phức tạp. Rút bọn họ ra, thì một bộ phận nhất định trong lục quân sẽ bị tê liệt. Ngay lập tức luôn ấy chứ. Nhưng quan trọng nhất là nó sẽ bị tê liệt cả về sau đó nữa. Vì thiếu những ngôi sao đang lên. Vì quy trình tiến hóa bị kềm hãm. Và qua những cái tên mà tôi nhận ra, thì bộ phận lục quân sẽ bị tê liệt ấy chính là bộ phận có các đơn vị trang bị nhẹ trong đó. Cụ thể hơn, thì sẽ là những đơn vị hạng nhẹ hướng tới thế kỷ hai mươi mốt chứ không phải những đơn vị ngoái nhìn về thế kỷ mười chín. Mười tám người chẳng là bao, so với một lục quân hàng triệu người. Nhưng họ là những ví dụ được lựa chọn xuất sắc. Hẳn đã có những phân tích rất sắc bén. Và xác định mục tiêu kỹ lưỡng. Bởi vì họ toàn là những nhân vật cấp cao, biết suy nghĩ và lên kế hoạch. Những ngôi sao sáng. Nếu anh muốn tìm mười tám người nào đó, mà sự hiện diện hoặc vắng mặt của họ có khả năng xoay chuyển thế cục tương lai, thì tên họ nằm trên tờ giấy này đây, được đánh máy và lập thành bảng.
Điện thoại tôi reo lên. Tôi bật nút Loa ngoài và nghe giọng cô trung sĩ.
“Abelson từng là người của đội trực thăng Apache đó sếp,” cô nói. “Sếp biết mấy chiếc trực thăng chiến đấu đó không? Mấy chiếc máy bay vũ trang hạng nặng ấy? Mà lúc nào cũng vỗ ngực xưng tên?”
“Từng là sao?” tôi hỏi.
“Anh ta chết trước hôm Giao thừa. Bị xe tông khi đang đi bộ trên đường ở Heidelberg, Đức. Một vụ tông rồi bỏ trốn.”
Tôi tắt điện thoại.
“Swan có nhắc đến chuyện này,” tôi bảo. “Có nói qua. Giờ anh mới nhớ.”
“Tên anh ta được đánh dấu,” Summer nói.
Tôi gật đầu. “Một mục tiêu bị loại, còn mười bảy.”
“Q.T.T.D. nghĩa là gì?”
“Một biệt ngữ xưa của cơ quan CIA,” tôi đáp. “Nghĩa là quyết tâm tiêu diệt.”
Cô không nói gì.
“Nói theo cách khác, là ám sát đấy,” tôi tiếp.
Chúng tôi ngồi lặng đi một lúc thật lâu. Tôi nhìn lại hai câu trích dẫn kỳ quái kia lần nữa. Kẻ thù. Khi bị dồn vào đường cùng. Dũng khí của bậc chỉ huy. Chí khí của ông ta. Tôi cố tưởng tượng xem thứ thôi thúc điên khùng xuất phát từ lòng kiêu hãnh nào có thể khiến người ta bồi thêm hai câu trích dẫn hoành tráng thế này vào danh sách những người mình muốn giết hòng giữ lấy công việc và vị thế của mình. Không tài nào hình dung nổi. Nên tôi thây kệ, rồi xếp bốn trang giấy đánh máy vào với nhau, và gắn kim bấm lại qua hai cái lỗ ban đầu. Tôi lấy từ ngăn tủ ra một cái phong bì, rồi bỏ xấp giấy vào.
“Bản chương trình nghị sự bị thất lạc từ ngày đầu năm,” tôi bảo. “Và họ biết nó đã mất luôn vào ngày mồng bốn. Nó không nằm trong cặp táp, cũng không có trên người Brubaker. Vậy nên họ bỏ cuộc. Họ buông xuôi một tuần trước. Họ phải giết ba mạng người để tìm nó, nhưng vẫn không thấy. Nên họ chỉ còn có thể ngồi một chỗ, biết chắc rằng sớm muộn gì nó cũng quay lại đập họ tơi tả.”
Tôi đẩy phong bì qua mặt bàn.
“Em nhớ dùng nó,” tôi dặn Summer. “Hãy dùng nó ở Thủ đô. Hãy dùng nó để treo cổ bọn chết tiệt ấy lên.”
Lúc ấy đã bốn giờ sáng, và Summer ngay lập tức lên đường tới Lầu Năm Góc. Tôi lên giường đánh một giấc bốn tiếng đồng hồ. Tám giờ tôi tự dậy. Tôi còn một việc phải xử lý, đồng thời, tôi cũng biết chắc bản thân mình sắp đón nhận kết quả cuối cùng.