← Quay lại trang sách

HAI MƯƠI NĂM

Tôi đến văn phòng mình vào chín giờ sáng. Cô trung sĩ có đứa con trai đã ra về. Viên hạ sĩ quê Louisiana đã tới trực thay.

“Đoàn Luật sư Quân đội đến tìm sếp,” cậu ta bảo. Cậu ta chỉ ngón cái vào phòng tôi. “Tôi cho họ vào thẳng trong luôn rồi.”

Tôi gật đầu. Rồi nhìn quanh tìm cà phê. Nhưng không có. Khởi đầu tệ quá. Tôi mở cửa bước vào trong phòng mình. Có hai người đã ngồi sẵn trong ấy. Một người ngồi ở ghế dành cho khách. Người kia ngồi ngay bàn làm việc của tôi. Cả hai đều mặc quân phục nghi lễ. Cả hai đều đeo huy hiệu Đoàn Luật sư Quân đội trên ve áo. Hình một vòng hoa màu vàng, nằm dưới một thanh kiếm và một mũi tên đan chéo nhau. Người ngồi trên ghế khách là đại úy. Còn người ngồi ở bàn tôi là trung tá.

“Tôi ngồi đâu được?” tôi hỏi.

“Tùy anh,” tay trung tá trả lời.

Tôi không đáp.

“Tôi đã nhận được tin điện từ trại Irwin,” anh ta nói. “Xin anh nhận lời chúc mừng chân thành của tôi, Thiếu tá ạ. Anh đã xử lý xuất sắc vụ việc.”

Tôi không đáp.

“Và tôi có nghe nói về bản chương trình nghị sự của Kramer,” anh ta tiếp. “Văn phòng Tham mưu trưởng mới gọi báo tôi về nó. Một kết quả còn tuyệt vời hơn nữa. Hóa ra Chiến dịch Argon đã là một nước cờ đúng đắn.”

“Các anh tới đây không phải để bàn về lời cáo buộc,” tôi nói.

“Đúng,” anh ta đáp. “Anh nói không sai. Chuyện ấy đang được bàn luận tại Lầu Năm Góc, với cô trung úy của anh đó.”

Tôi lấy một chiếc ghế dành cho khách khác và đặt nó tựa vào tường, ngay dưới tấm bản đồ. Tôi ngồi xuống. Ngả lưng. Đặt tay lên đầu rồi vân vê đống đinh ghim trên ấy. Viên trung tá ngả người tới nhìn tôi. Anh ta đợi, như thể muốn tôi lên tiếng trước vậy.

“Anh hứng thú với chuyện này quá nhỉ?” tôi hỏi anh ta.

“Thì công việc của tôi mà,” anh ta đáp.

“Anh thích công việc của mình không?”

“Lúc có lúc không,” anh ta trả lời.

Tôi không nói gì.

“Vụ này hệt như sóng biển vậy,” anh ta nói. “Như một con sóng vỗ vào mặt cát, khựng lại, rồi lăn ngược về biển, chẳng để gì lại phía sau.”

Tôi không nói gì.

“Nhưng thật ra con sóng ấy có để lại một thứ,” anh ta tiếp. “Nó để lại một bịch rác nằm lềnh bềnh trên rìa nước, và ta phải xử lý nó.”

Anh ta đợi tôi trả lời. Nhưng tôi định ngậm chặt miệng. Tôi định bắt anh ta tự biên tự diễn từ đầu đến cuối. Nhưng cuối cùng tôi chỉ nhún vai bỏ cuộc.

“Đơn tố cáo hành hung dân thường,” tôi nói.

Anh ta gật đầu. “Đại tá Willard có lưu ý chúng tôi về việc này. Và nói thật thì cũng khó xử lắm. Tuy việc ăn cắp giấy đi đường có thể được châm chước vì là một phần của quá trình điều tra, nhưng đơn tố cáo hành hung kia thì không. Bởi vì hai thường dân đó hoàn toàn không liên quan đến vụ việc.”

“Tôi bị đánh lạc hướng,” tôi bảo.

“Tôi e là điều đó không xoay chuyển được sự thật.”

“Nhân chứng của anh đã chết rồi.”

“Nhưng anh ta đã để lại một bản khai có tuyên thệ cùng chữ ký của mình. Điều đó đồng nghĩa với việc bản thân anh ta đứng ở tòa làm chứng.”

Tôi không nói gì.

“Chung quy chúng ta chỉ cần một lời xác nhận đơn giản mà thôi,” viên trung tá nói. “Một câu trả lời có hoặc không, đơn giản ấy mà. Có phải anh đã có hành vi như trong đơn tố cáo của Carbone không?”

Tôi không nói gì.

Viên trung tá đứng dậy. “Anh cứ thoải mái thảo luận với luật sư.”

Tôi liếc tay đại úy. Có vẻ như anh ta là luật sư của tôi. Viên trung tá rục rịch rời khỏi phòng và đóng cửa lại. Tay đại úy ngả người tới bắt tay tôi và tự giới thiệu bản thân.

“Anh nên tử tế với trung tá một chút,” anh ta nói. “Anh ấy đang cho anh cơ hội lớn đó. Đây chỉ là trò đánh đố nhau mà thôi.”

“Tôi giật dây động rừng,” tôi bảo. “Quân đội sẽ cho tôi ra bã.”

“Anh sai rồi, Reacher. Chẳng ai muốn cho anh ra bã cả. Chỉ do Willard nài ép sự việc quá mà thôi. Nên ta phải đi theo đúng quy trình.”

“Tức là?”

“Anh chỉ cần chối phăng đi là xong. Lời chứng của Carbone sẽ bị mâu thuẫn, và vì anh ta không còn sống để thẩm vấn, chiếu theo quyền được đối chất với nhân chứng chống lại anh trong Tu chính án thứ sáu, chắc chắn đơn tố cáo đó sẽ bị bác bỏ.”

Tôi ngồi yên.

“Tôi phải làm gì?” tôi hỏi.

“Anh chỉ cần ký một bản khai có tuyên thệ như Carbone mà thôi. Anh ta nói đen, anh nói trắng, thế là hết chuyện.”

“Văn bản chính thức?”

“Chỉ mất có năm phút anh ạ. Ta làm đây ngay cũng được nữa. Viên hạ sĩ của anh có thể thảo bản khai và làm chứng. Siêu dễ.”

Tôi gật đầu.

“Ngược lại thì sao?” tôi hỏi.

“Anh có điên mới nghĩ tới trường hợp ngược lại.”

“Chuyện gì sẽ xảy ra?” tôi hỏi.

“Nghĩa là anh nhận tội chứ sao.”

“Chuyện gì sẽ xảy ra?” tôi hỏi lại.

“Nếu anh nhận tội ư? Tước cấp bậc, tước lương bổng, từ thời điểm xảy ra vụ việc. Bên Dân sự sẽ không chấp nhận hình phạt nào thấp hơn thế đâu.”

Tôi không nói gì.

“Anh sẽ bị đánh xuống đại úy. Trong ban Quân cảnh bình thường ấy, vì Đội 110 sẽ không đón nhận anh nữa. Trả lời ngắn gọn thì là vậy. Nhưng chỉ có điên mới nghĩ tới việc tự thú. Việc anh cần làm là chối phăng nó đi.”

Tôi ngồi yên đó và nghĩ về Carbone. Ba mươi lăm tuổi, với mười sáu năm dành cho quân đội. Bộ binh, Dù, Biệt động, Delta. Mười sáu năm mồ hôi nước mắt. Anh ta chẳng làm gì sai, ngoại trừ việc cố giấu một bí mật lẽ ra không nên bị buộc phải giấu. Và cố cảnh báo đơn vị mình trước một mối họa. Cả hai việc ấy đều không sai. Nhưng anh ta đã chết. Chết trong rừng, chết trên bàn khám nghiệm. Rồi tôi nhớ tới tay hộ pháp trong quán thoát y. Tôi không quan tâm lắm tới gã nông dân bạn hắn. Mũi gãy đôi ba chỗ có là gì. Nhưng tay hộ pháp kia ăn đòn khá nặng. Dù vậy, hắn cũng đâu phải dạng công dân lương thiện gì ở Bắc Carolina này. Tôi không nghĩ thống đốc bang có ý cho hắn vào danh sách tặng thưởng huân chương công dân nào đâu.

Tôi nghĩ về hai người đó một lúc lâu. Carbone, và tay hộ pháp tại bãi xe. Rồi tôi nghĩ đến bản thân mình. Một thiếu tá, một ngôi sao, một điều tra viên xuất sắc thuộc đội đặc nhiệm, một tay đáng tin cậy đang trên đường tới đỉnh cao.

“OK,” tôi bảo. “Gọi trung tá vào đi.”

Tay đại úy đứng dậy và mở cửa. Anh ta giữ nó cho viên trung tá bước vào. Rồi đóng lại. Ngồi cạnh tôi. Viên trung tá rục rịch băng qua chúng tôi rồi ngồi xuống bàn làm việc.

“Rồi,” anh ta nói. “Ta quyết nhanh cho xong việc đi. Đơn tố cáo kia là không có cơ sở, đúng không?”

Tôi nhìn anh ta. Không nói gì.

“Sao nào?”

Con sẽ làm điều đúng đắn.

“Đơn tố cáo kia là đúng,” tôi đáp.

Anh ta nhìn tôi chằm chằm.

“Đơn tố cáo kia chính xác,” tôi bảo. “Chính xác đến từng chi tiết. Mọi việc xảy ra hệt như Carbone đã mô tả.”

“Chúa ơi,” viên trung tá kêu lên.

“Anh điên à?” tay đại úy hỏi.

“Chắc vậy,” tôi đáp. “Nhưng Carbone không phải một kẻ nói dối. Đó không nên là điều cuối cùng được ghi trong hồ sơ của anh ta. Anh ta không đáng bị như thế. Dù sao anh ta cũng đã phục vụ quân đội suốt mười sáu năm trời.”

Căn phòng trở nên im lặng. Chúng tôi ngồi yên đó. Họ sắp đối mặt với một đống báo cáo phải viết. Tôi sắp đối mặt với việc bị đánh xuống làm đại úy Quân cảnh trở lại. Không còn thuộc đội đặc nhiệm nữa. Nhưng điều này đâu đáng ngạc nhiên. Tôi đã lường trước được nó rồi. Tôi đã lường trước việc này từ khi tôi nhắm mắt lại trên máy bay còn những quân cờ domino bắt đầu đổ xuống, tung tóe, quân này nối tiếp quân kia.

“Tôi có một yêu cầu,” tôi bảo. “Tôi muốn có hai ngày đình chỉ công tác. Bắt đầu từ hôm nay.”

“Vì sao?”

“Tôi phải đi dự đám tang. Tôi không muốn phải năn nỉ sĩ quan chỉ huy của mình cho nghỉ phép.”

Viên trung tá quay đi.

“Được thôi,” anh ta đáp.

Tôi trở về phòng thu dọn mọi thứ đồ đạc tôi có bỏ vào túi. Tôi đến chỗ sĩ quan quân nhu ký séc rút tiền mặt và bỏ năm mươi hai đô la vào phong bì cho cô trung sĩ của mình. Tôi gửi năm mươi đô la trả cho Franz. Tôi tạt qua phòng viên giám nghiệm lấy thanh xà beng mà Marshall đã sử dụng, rồi đặt nó chung với thanh xà beng mình đã mượn từ tiệm dụng cụ kia. Rồi tôi đến bãi xe Quân cảnh tìm mượn một chiếc xe. Tôi ngạc nhiên khi thấy chiếc xe Kramer đã thuê vẫn còn ở đó.

“Không ai bảo chúng tôi xử lý nó thế nào cả,” viên thư ký nói.

“Sao lại không?”

“Cái đấy phải sếp giải thích chứ. Đây là vụ của sếp mà.”

Tôi cần tìm một chiếc nào đó kín đáo, mà chiếc Ford đỏ tí hon này lại quá nổi bật giữa loạt xe màu nâu ô liu và đen. Nhưng tôi nghĩ đối với thế giới ngoài kia lại khác. Ở ngoài đó, thì chiếc Ford đỏ tí hon này sẽ chẳng gây nên sự chú ý nào.

“Để tôi đem đi trả,” tôi bảo. “Đằng nào tôi cũng đến sân bay Dulles mà.”

Và tôi không phải làm giấy tờ gì lôi thôi, bởi vì nó đâu phải xe quân đội.

Tôi rời trại Bird vào mười giờ hai mươi phút sáng và lái về hướng Bắc tới Green Valley. Tôi đi chậm hơn trước nhiều, vì chiếc Ford này chậm, và tôi cũng quen lái chậm, ít ra là so với tốc độ của Summer. Tôi không dừng lại ăn trưa. Tôi cứ thế đi mãi. Tôi tới sở cảnh sát vào ba giờ mười lăm chiều.

Tôi gặp thanh tra Clark khi anh ta đang ngồi ở bàn làm việc. Tôi bảo anh ta cuộc điều tra đã kết thúc. Rằng Summer sẽ báo chi tiết sau. Tôi lấy thanh xà beng mà anh ta đã mượn rồi lái đoạn đường mười dặm tới Sperryville. Tôi len qua con hẻm nhỏ hẹp rồi đậu trước tiệm dụng cụ kia. Cửa sổ nơi ấy đã được thay mới. Miếng ván gỗ vuông đã được dẹp đi. Tôi kẹp cả ba thanh xà beng trong tay, bước vào trong rồi trả lại cho ông già đứng sau quầy. Rồi tôi trở lại xe và đi theo con đường duy nhất dẫn ra khỏi thị trấn, thẳng tới Thủ đô Washington.

Tôi rẽ theo lối ngược chiều kim đồng hồ trên cao tốc Beltway, đến tìm khu xập xệ nhất thành phố. Có khá nhiều lựa chọn. Tôi chọn một khu bốn khối nhà chủ yếu là các nhà kho cũ kỹ với những con hẻm nhỏ cắt ở giữa. Thăm dò tới con hẻm thứ ba thì tôi thấy cái mình đang kiếm. Tôi thấy một ả bán hoa hốc hác bước ra từ một ô cửa lát gạch. Tôi bước ngang qua ả và thấy một tay đội mũ. Hắn có thứ tôi cần. Phải mất vài phút để hai bên làm quen. Nhưng cuối cùng thì tiền mặt cũng giúp hòa giải những khác biệt giữa chúng tôi, cũng như ở bao nơi khác trên thế giới. Tôi mua một ít cần sa, một ít ma túy đá, và hai túi nhỏ cocain. Tay đội mũ nhìn số lượng và thất vọng ra mặt. Chắc hắn nghĩ tôi là bọn tay mơ.

Rồi tôi lái tới Rock Creek, bang Virginia. Tôi đến nơi trước năm giờ chiều. Tôi đậu xe cách trụ sở chính Đội Đặc nhiệm 110 chừng ba trăm yard, trên một dốc cao, để tiện nhìn qua hàng rào vào bãi xe. Tôi nhận ra xe của lão Willard dễ dàng. Lão khoe với tôi rồi mà. Một chiếc Pontiac GTO cổ điển. Nó nằm ngay đó, gần cửa ra phía sau. Tôi sụp người thấp xuống ghế, giương mắt lên và quan sát.

Lão bước ra vào lúc năm giờ mười lăm. Hết giờ hành chính. Lão khởi động chiếc Pontiac rồi lùi dần ra khỏi tòa nhà. Tôi đã hé cửa sổ cho thoáng, và dù đậu cách xa tới ba trăm yard, tôi vẫn còn nghe tiếng ống xả. Tiếng động cơ V-8 khá trơn tru. Tôi đoán Summer sẽ thích tiếng ấy lắm. Tôi tự nhủ trong đầu rằng nếu may mắn trúng số, tôi sẽ mua tặng cô một chiếc GTO.

Tôi khởi động chiếc Ford. Lão Willard lao ra khỏi bãi xe và quay về phía tôi. Tôi sụp người xuống đợi lão đi qua. Tôi đếm thầm một giây, hai giây rồi vòng lại đuổi theo lão. Lão rất dễ bám theo. Tôi chỉ cần hạ cửa sổ lắng nghe tiếng xe là được. Lão đi khá chậm, bóng xe lồ lộ phía trước, gần giữa đường. Tôi lùi ra xa và đợi dòng xe đi làm về che kín tầm nhìn gương chiếu hậu của lão. Lão về hướng Đông, tới khu dân cư ở Thủ đô. Tôi đoán lão phải thuê nhà ở Arlington hay Maclean gì đó từ những ngày còn ở Lầu Năm Góc. Tôi mong đó không phải một căn hộ chung cư. Tôi đoán có khả năng là một căn nhà riêng hơn. Với gara to để chứa chiếc xe cơ bắp kia. Vậy thì tốt, bởi vì nhà riêng sẽ dễ dàng hơn nhiều.

Là một căn nhà. Nó nằm trên khu phố ngoại ô về phía Bắc Arlington. Nhiều cây cối, đa số đều trơ trọi, một vài cây thường xanh. Các lô nhà trông thật kỳ quái. Lối vào nhà thì dài và ngoằn ngoèo. Cây cối thì trồng cẩu thả. Đường này đáng lẽ phải gắn bảng ghi: Chỉ dành cho nam công chức lương trung bình đã ly dị hoặc còn độc thân mới đúng. Nơi này là kiểu như vậy. Dù không lý tưởng, nhưng vẫn hơn một khu dân cư nhà sát sạt nhau, với sân trước đầy trẻ con nghịch ngợm và các bà nội trợ sốt ruột.

Tôi đi theo và dừng lại cách chừng một dặm. Tôi ngồi yên đợi trời tối hẳn.

Tôi đợi đến bảy giờ rồi đi bộ tới. Mây bay thấp và mù sương. Trời không sao. Không trăng. Tôi đang mặc bộ dã chiến ngụy trang rừng cây. Tôi là người vô hình, trong chừng mực thiết kế của Lầu Năm Góc. Tôi đoán tầm bảy giờ nơi này vẫn sẽ vắng người lắm. Tôi đoán nhiều công chức lương trung bình có tham vọng trở thành công chức lương cao, nên ắt vẫn đang ngồi gí lại văn phòng, cố gây ấn tượng với bất cứ ai cần gây ấn tượng. Tôi đi theo con đường chạy song song với con đường nằm sau nhà lão Willard, và tìm thấy hai khoảnh sân bừa bộn nằm cạnh nhau. Chẳng nhà nào sáng đèn. Tôi đi theo lối vào nhà của căn đầu tiên, rồi tiếp tục vòng qua căn nhà tối mò, thẳng ra sân sau. Tôi đứng yên. Không có tiếng chó sủa. Tôi quay đầu, và lần theo hàng rào đến khi thấy được sân sau của nhà lão Willard. Nơi ấy mọc đầy những bụi cỏ úa. Bên ngoài còn một bếp nướng thịt đã cũ gỉ bị bỏ lại giữa sân. Trong ngôn ngữ quân đội, nơi này chẳng gọn gàng ngăn nắp gì. Nó luộm thuộm vô cùng.

Tôi bẻ cột hàng rào đến khi mình đủ chỗ luồn qua được. Tôi bước thẳng tới sân nhà lão Willard, vòng qua gara đến cửa chính. Hiên nhà lão không có đèn. Từ ngoài đường nhìn vào nửa khuất, nửa rõ. Không hoàn hảo lắm. Nhưng cũng không đến nỗi. Tôi tựa cùi chỏ lên chuông cửa. Nghe thấy tiếng chuông vang lên bên trong. Một phút yên lặng, rồi tôi chợt nghe tiếng chân. Tôi lùi lại. Lão Willard mở cửa. Không ngập ngừng chút nào. Chắc lão đang đợi người ta giao đồ Tàu tới. Hoặc bánh pizza gì đó.

Tôi thụi một đấm vào ngực lão, để đẩy lão vào trong. Tôi bước vào rồi lấy chân gạt cửa đóng lại. Căn nhà ảm đạm kinh khủng. Không khí bên trong có mùi ẩm mốc. Lão Willard níu lấy thành cầu thang, thở hổn hển lấy hơi. Tôi đấm vào mặt lão, đẩy lão ngã vật ra sàn. Lão lồm cồm bò dậy, và tôi tung chân đá mạnh vào mông lão, và cứ thế đá liên tiếp cho đến khi lão bắt đầu hiểu ra và bò thật nhanh đến nhà bếp. Lão tới nơi rồi vật qua một bên, ngồi dậy trên sàn, tựa lưng vào tủ bếp. Mặt vừa hoảng loạn, hiển nhiên rồi, vừa vô cùng bối rối. Như không tin nổi tôi dám làm việc này. Như đang nghĩ: Mọi chuyện là vì mỗi cái đơn tố cáo kia sao? Cái đầu tính toán của lão không tài nào hiểu được.

“Ông có nghe về Vassell và Coomer chứ?” tôi hỏi lão.

Lão gật đầu lia lịa, nhanh và đầy sợ hãi.

“Còn nhớ trung úy Summer không?” tôi hỏi lão.

Lão gật tiếp.

“Cô ấy chỉ ra cho tôi một điều,” tôi bảo. “Cũng khá hiển nhiên thôi, cô ấy bảo rằng bọn họ đã có thể thoát tội nếu tôi không phớt lờ ông.”

Lão chỉ nhìn tôi chằm chằm.

“Tự dưng tôi nghĩ,” tôi tiếp. “Chính xác thì tôi phớt lờ ông việc gì nhỉ?”

Lão không nói gì.

“Tôi đã đánh giá sai ông,” tôi bảo. “Tôi xin lỗi. Vì tôi tưởng mình đang phớt lờ một thằng khốn nhiều chuyện và hám danh lợi. Tôi tưởng mình đang phớt lờ một tay quản lý văn phòng đần độn khó tính, hay bồn chồn, tưởng mình hơn người nào đó. Nhưng không phải. Tôi đang phớt lờ một điều hoàn toàn khác.”

Lão ngẩng lên nhìn tôi.

“Ông đâu có thấy hổ thẹn vì Kramer,” tôi bảo. “Ông đâu thấy lo khi tôi quấy rối Vassell và Coomer. Ông đâu có vì thể diện lục quân mà yêu cầu tôi báo cáo Carbone đã chết do tai nạn. Ông chỉ làm việc ông được đưa vào để làm mà thôi. Có ai đó muốn lấp liếm ba vụ cố sát, nên đưa ông vào để ông xử lý. Ông là đồng phạm trong kế hoạch ém nhẹm sự việc này, Willard. Đó là việc ông đã làm. Đó là điều mà tôi đã phớt lờ. Ý tôi là, không phải vậy thì còn quái gì nữa, ra ông ra lệnh cấm tôi điều tra án mạng? Đây là một vụ lấp liếm, được lên kế hoạch, được tổ chức, và được quyết định từ trước đó rất kỹ.

Nó đã được quyết định vào mồng hai tháng Giêng, khi Garber bị thuyên chuyển, và ông tiếp quản vị trí này. Ông được đặt vào đây, để kế hoạch của họ trong mùng bốn được diễn ra suôn sẻ. Chẳng còn lý do nào khác cả.”

Lão không nói gì.

“Tôi nghĩ họ muốn đặt một tay vô dụng ở đó, để mọi chuyện diễn ra tự nhiên. Nhưng họ còn cao tay hơn. Họ đặt một người bạn của mình vào đó.”

Lão không nói gì.

“Lẽ ra ông phải từ chối,” tôi bảo. “Nếu ông từ chối, thì họ đã chẳng dám tiếp tục kế hoạch, và cả Carbone lẫn Brubaker vẫn sẽ còn sống.”

Lão không nói gì.

“Ông cũng đã giết hai người đó, Willard ạ. Chẳng khác gì bọn bạn ông đâu.”

Tôi ngồi xổm xuống cạnh lão. Lão quờ quạng trên sàn rồi ép sát lưng vào tủ bếp phía sau. Vẻ bại trận trong mắt lão. Nhưng lão vẫn cố chống cự lần chót.

“Cậu đâu chứng minh được điều gì,” lão nói.

Đến lượt tôi im lặng.

“Lỡ như tôi thực sự vô dụng thì sao,” lão nói. “Cậu nghĩ đến điều đó chưa? Cậu lấy gì để chứng minh giả thuyết đấy chứ?”

Tôi không nói gì. Mắt lão trợn lên.

“Cậu đừng tưởng mình đang đối mặt với bọn khờ nào đấy,” lão tiếp. “Chẳng có chứng cứ nào cả.”

Tôi rút khẩu Beretta của Franz ra khỏi túi. Khẩu súng mà tôi đã lấy lại từ sa mạc Mojave. Tôi đâu có làm mất nó. Tôi đem theo nó suốt từ California. Đó là vì sao tôi phải ký gửi hành lý, duy nhất chỉ chuyến bay ấy. Họ đâu cho anh cầm theo súng lên máy bay. Bằng không thì phải thủ tục lằng nhằng.

“Khẩu súng này đã được liệt vào danh sách bị phá hỏng,” tôi nói. “Trên văn bản chính thức thì nó không hề tồn tại.”

Lão nhìn nó chằm chằm.

“Đừng có dại,” lão nói. “Cậu đâu chứng minh được gì.”

“Người ông đang đối mặt cũng không phải dạng khờ đâu,” tôi bảo.

“Cậu không hiểu,” lão nói. “Đó là lệnh. Cấp trên giao xuống. Ta đang ở trong quân đội. Ta phải biết tuân theo lệnh.”

Tôi lắc đầu. “Chẳng quân nhân nào tin cái lý lẽ đó cả.”

“Đó là lệnh được giao,” lão lặp lại.

“Từ ai?”

Lão chỉ nhắm mắt và lắc đầu.

“Chẳng sao,” tôi nói. “Tôi thừa biết từ ai. Và tôi biết tôi sẽ chẳng thể đụng đến hắn. Ở địa vị của hắn, thì không. Nhưng tôi có thể đụng đến ông. Ông sẽ giúp tôi chuyển thông điệp.”

Lão mở mắt.

“Cậu không dám đâu,” lão nói.

“Tại sao ông không từ chối?”

“Làm sao từ chối được. Đã đến lúc phải chọn phe. Cậu vẫn chưa hiểu sao? Đã đến lúc tất cả chúng ta phải làm điều đó.”

Tôi gật đầu. “Có lẽ vậy.”

“Hãy suy nghĩ thấu đáo,” lão nói. “Xin cậu đấy.”

“Tôi tưởng ông là quả táo thối duy nhất,” tôi bảo. “Nhưng hóa ra cả rổ đầy táo thối. Những trái táo còn ngon mới là hiếm thấy.”

Lão nhìn tôi chằm chằm.

“Ông đã phá hỏng nó,” tôi nói. “Ông và đám bạn thối nát của ông.”

“Phá hỏng cái gì cơ?”

“Tất cả.”

Tôi đứng dậy. Lùi lại. Gạt khóa an toàn của khẩu Beretta sang Bắn.

Lão nhìn tôi trân trân.

“Tạm biệt, đại tá Willard,” tôi nói.

Tôi đặt súng lên thái dương mình. Lão trân trối nhìn tôi.

“Đùa chút thôi,” tôi bảo.

Rồi tôi bắn một viên xuyên qua trán lão.

Đó là một viên đạn chín li xuyên giáp tiêu chuẩn. Nó bắn ót lão văng lên tủ bếp đằng sau, dính vào một đống ly tách vỡ nát. Tôi nhồi cần sa, ma túy đá và cocain vào túi áo lão, cùng một cuộn tiền tượng trưng. Rồi tôi bước ra cửa sau và đi khỏi sân nhà lão. Tôi lách qua hàng rào, qua khoảng sân của nhà phía sau, tới xe của tôi. Tôi ngồi vào ghế lái, mở túi và thay đôi bốt khác. Cởi bỏ đôi đã bị hỏng ở sa mạc Mojave, lấy đôi mới hơn. Rồi tôi đi về hướng Tây, tới sân bay Dulles. Tới bãi trả xe của tiệm cho thuê xe Hertz. Chủ tiệm cho thuê xe thường đâu có ngu. Họ thừa biết khách thuê hay làm bẩn xe lắm. Họ thừa biết sẽ moi ra đủ thứ rác rưởi sau khi nhận lại xe. Nên họ đặt nhiều thùng rác to đùng ngay bãi trả xe và hy vọng khách thuê biết ý mà tự dọn phần nào rác rưởi của mình. Nhờ vậy mà họ sẽ hớt được một khoản tiền. Họ bớt được mỗi xe một phút, thì sẽ bớt được kha khá tiền lương phải trả nhân viên mỗi năm. Tôi bỏ đôi bốt cũ vào một thùng, và khẩu Beretta vào thùng kia. Với lượng xe tiệm Hertz cho thuê ở sân bay Dulles mỗi ngày, thì đống rác đây sẽ sớm bị đem đi nghiền ngay mà thôi.

Tôi bước tới ga. Tôi không thích đón xe buýt nữa. Tôi xuất trình thẻ quân nhân, rồi ký một tờ séc mua vé máy bay một chiều tới Paris, cùng chuyến bay Air France sáng sớm mà Joe đã từng đi, khi thế giới còn chưa thay đổi.

Tôi đến đường Rapp vào tám giờ sáng. Joe dặn tôi xe sẽ đến vào lúc mười giờ. Nên tôi tranh thủ cạo râu và tắm gội trong phòng tắm dành cho khách, sau đó tìm bàn là của mẹ, rồi là bộ quân phục nghi lễ thật cẩn thận. Tôi lấy bộ xi trên hộc tủ xuống đánh giày cho láng bóng. Rồi tôi mặc quần áo. Tôi cài lên áo khoác tất tần tật các loại huân chương, dài tới bốn hàng. Tôi tuân sát theo hai cuốn Quy định ăn mặc tiêu chuẩn và Quy định cài huân chương cỡ lớn. Mỗi chiếc huân chương nằm gọn trên phần ruy băng của chiếc nằm dưới nó. Tôi lấy miếng vải chùi qua chúng. Tôi chùi cả phù hiệu của mình, kể cả hình lá sồi của thiếu tá, một lần cuối. Rồi tôi bước vào căn phòng khách sơn trắng và đợi.

Joe mặc một bộ vét đen. Tôi chẳng biết gì về quần áo nhưng tôi đoán là đồ mới. Nó được may từ thứ chất liệu tốt. Chắc là lụa. Hoặc len cashmere. Tôi chịu. Nhưng nó rất đẹp. Anh mặc sơ mi trắng và cà vạt đen. Giày đen. Trông anh ổn lắm. Tôi chưa khi nào thấy anh bảnh hơn lúc này. Anh đang cố gắng lắm. Mắt anh trông hơi mệt mỏi. Chúng tôi không trò chuyện với nhau. Chỉ đứng đợi.

Chúng tôi xuống đường vào mười giờ kém năm. Chiếc corbillardđến rất đúng giờ, từ dépôt mortuaire. Đằng sau là một chiếc limousine Citroen màu đen. Chúng tôi leo lên chiếc limousine và đóng cửa, rồi nó lặng lẽ đi theo sau chiếc xe tang kia.

“Chỉ mình thôi ạ?” tôi hỏi.

“Người khác đợi mình ở đó rồi.”

“Có những ai ạ?”

“Ông Lamonnier,” anh nói. “Với vài người bạn của mẹ.” “Mình tổ chức ở đâu thế?”

“Ở Père-Lachaise,” anh đáp.

Tôi gật đầu. Père-Lachaise là một nghĩa trang cổ nổi tiếng. Một nơi đặc biệt. Tôi đoán vì có công với Kháng chiến mà mẹ được chôn cất ở đó. Hoặc ông Lamonnier đã thu xếp.

“Có người muốn mua nhà mẹ,” anh Joe nói.

“Bao nhiêu ạ?”

“Tính bằng đô la thì phần của chú sẽ là khoảng sáu mươi ngàn.”

“Em không lấy đâu,” tôi bảo. “Anh cứ đưa cho ông Lamonnier. Anh dặn ông ấy đem chia cho mấy ông bà già nào còn sống ấy. Chắc ông ấy phải biết tổ chức từ thiện nào đó.”

“Cựu binh thôi à?”

“Người già là được. Bất kỳ ai dám làm điều đúng đắn, vào giờ khắc đúng đắn.”

“Chú chắc chứ? Lỡ cần thì sao.”

“Em thà không lấy còn hơn.”

“OK,” anh bảo. “Tùy chú.”

Tôi nhìn ra cửa sổ. Một ngày xám xịt. Sắc màu mật ong của Paris đã bị thời tiết đánh bay. Dòng sông lờ đờ trôi, trông như sắt nấu chảy vậy. Chúng tôi đi qua quảng trường Place de la Bastille. Nghĩa trang Père-Lachaise nằm ngay hướng Đông Bắc của nó. Không xa, nhưng cũng không đủ gần. Chúng tôi bước ra khỏi xe gần một quầy bán bản đồ chỉ dẫn tới các ngôi mộ nổi tiếng. Đủ loại ngôi sao được chôn cất tại Père-Lachaise: nào là nhà soạn nhạc Chopin, nhà văn Molière, ca sĩ Edith Piaf, và nhạc sĩ Jim Morrison.

Ngay cửa nghĩa trang đã có người đứng đợi chúng tôi. Có cô lễ tân ở chung cư của mẹ, và hai người phụ nữ khác mà tôi không biết. Nhóm croques-mort nâng chiếc quan tài lên vai. Họ giữ yên nó một giây, rồi bước đi thật chậm. Joe và tôi theo sau, cạnh nhau. Ba người phụ nữ kia bước theo chúng tôi. Trời khá lạnh. Chúng tôi đi trên con đường nhỏ giữa hai bên lăng tẩm và bia mộ kỳ lạ của châu Âu. Rồi chúng tôi đến trước một ngôi mộ còn trống. Đất đào được chất gọn gàng một bên và được phủ lên một tấm thảm xanh lá, mà tôi đoán là để nhìn cho giống màu cỏ. Ông Lamonnier đã đợi sẵn chúng tôi ở đó. Tôi đoán ông đã tới đó từ trước rất lâu. Có lẽ ông đi chậm hơn cả đoàn đưa tang. Chắc ông không muốn làm chậm chân chúng tôi, hoặc tự làm xấu hổ mình trước mọi người.

Nhóm nhà đòn đặt chiếc quan tài xuống dây quàng đã xếp trước dưới đất. Rồi họ lại nhấc cả chúng lên, di chuyển dần đến bên mộ, và dùng dây quàng nhẹ nhàng hạ chiếc quan tài xuống. Vào trong ngôi mộ còn trống kia. Có một người đàn ông đứng đọc gì đó trong cuốn sách. Tôi nghe vài từ tiếng Pháp và dịch chúng ra tiếng Anh trong đầu mình. Cát bụi về cát bụi, đó là chắc chắn, thung lũng nước mắt. Tôi không thực sự chú tâm lắm. Tôi chỉ nhìn theo chiếc quan tài đang hạ dần xuống huyệt.

Người đàn ông kia ngừng đọc, một người trong nhóm nhà đòn thu lại tấm thảm xanh lá, và Joe vốc lấy một nhúm đất. Anh giữ nhúm đất trong lòng bàn tay, rồi rắc lên nắp quan tài. Đất rơi lã chã trên mặt gỗ. Người đàn ông cầm cuốn sách kia cũng làm vậy. Rồi đến cô lễ tân. Rồi hai người phụ nữ kia. Rồi đến ông Lamonnier. Ông lảo đảo trên gậy chống của mình, cúi xuống, vốc đầy tay một nhúm đất. Ông khựng lại, mắt ngấn lệ, rồi chỉ xoay nhẹ cổ tay để nhúm đất trong nắm tay trút xuống như nước.

Tôi bước tới, đặt tay lên tim, và gỡ Huân chương Ngôi Sao Bạc ra khỏi ghim cài. Tôi cầm nó trong tay. Ngôi Sao Bạc là một huân chương đẹp vô cùng. Nó có một hình ngôi sao bạc nhỏ xíu nằm chính giữa một ngôi sao lớn hơn nhiều bằng vàng. Ruy băng của nó bằng lụa, ba màu đỏ, trắng và xanh, với hoa văn chìm. Huân chương của tôi có khác chữ: J. Reacher ở đằng sau. Tôi nghĩ trong đầu: J là Josephine. Tôi thảy nó xuống huyệt. Nó va vào quan tài, nẩy lên, rồi rơi xuống, mặt ngửa, lóe lên tia sáng nhỏ bé giữa bầu trời u xám.

Tôi gọi một cuộc đường dài từ Avenue Rapp và lấy lệnh trở về Panama. Joe và tôi ăn bữa trưa muộn cùng nhau, và cùng hứa giữ liên lạc. Rồi tôi ra đến sân bay, bay qua London và Miami, rồi bắt phương tiện về phương Nam. Với tư cách là một đại úy mới toe, tôi được giao cho quyền chỉ huy một đại đội. Chúng tôi được giao nhiệm vụ giữ gìn trật tự tại thành phố Panama khi Chiến dịch Chính nghĩa đang đến hồi kết. Cũng khá vui. Người của tôi là mấy tay cũng hay ho. Được quay trở lại chiến trường thật thoải mái. Và cà phê thì vẫn ngon như thường lệ. Họ chuyển cà phê tới bất kỳ nơi nào chúng tôi đặt chân đến, trong những can to bằng thùng phi chứa dầu.

Tôi không bao giờ trở về trại Bird. Chẳng còn gặp lại cô trung sĩ có cậu con trai kia. Tôi vẫn hay nghĩ đến cô, khi quân đội bắt đầu cắt giảm cán bộ. Tôi cũng không còn gặp lại Summer. Tôi nghe bảo cô dùng tờ chương trình nghị sự của Kramer khuấy động dữ dội đến nỗi Đoàn Luật sư Quân đội muốn tử hình bọn thủ ác vì tội phản quốc, nhưng rồi cô ép Vassell, Coomer và Marshall bằng mưu mẹo gì đó khiến họ phải tự thú tất cả, để đổi lấy án tù chung thân. Tôi nghe cô được lên chức đại úy ngay trong ngày bọn họ bị chuyển tới Leavenworth. Nên tôi và cô cuối cùng cũng nhận mức lương bằng nhau. Chúng tôi gặp nhau ở điểm giữa. Nhưng rồi con đường của cả hai chẳng còn giao nhau lần nào nữa.

Tôi cũng chẳng bao giờ quay về Paris. Tôi muốn lắm chứ. Tôi định sẽ trèo xuống cây cầu Pont des Invalides, vào một đêm muộn, chỉ để hít thở khí trời. Nhưng vẫn chưa làm được. Tôi ở trong quân đội, và tôi luôn đi tới những nơi mà họ ra lệnh cho tôi phải đến.

HẾT