← Quay lại trang sách

Chương 4

Soát vé xong được mười lăm phút, đoàn tàu đã lăn bánh rất đều, thế mà cô vẫn chưa tìm được ghế ngồi. Các băng ghế đều chật cứng khách du lịch, các lối đi đều đông kín, ngay cả các khoang kín giữa những toa khách cũng chật ních; từ trước đến giờ cô chưa từng thấy con tàu nào như thế này. Ban nãy lúc ở rào chắn, cô đứng quá xa đằng sau, quá chậm chạp và lóng ngóng với chiếc va li cồng kềnh, và lên tàu quá muộn. Vé của cô chỉ cho phép lên tàu, chứ không cho cô chỗ ngồi ưu tiên nào hết.

Vừa bủn rủn, vừa mệt mỏi, vừa kiệt quệ, cô nặng nề lê bước, đi hết lối đi từ toa này đến toa khác, đi ngược hướng đi của con tàu, chao đảo, đong đưa từ bên này sang bên kia, bị chiếc va li nặng trĩu ghì chân lại.

Tất cả đều đông kín người đang đứng và giờ đã là toa cuối cùng rồi. Đằng sau không còn toa nào nữa. Cô đã đi qua tất cả. Không ai nhường chỗ cho cô. Đây là tàu suốt, có khi đi xuyên hết bang vẫn không dừng, và bây giờ mà hành xử lịch thiệp thì sẽ phải trả giá rất đắt. Đây không phải xe điện hay xe buýt, chỉ đi một lúc là xong. Một khi tỏ vẻ ga lăng và đứng dậy, ta sẽ phải đứng suốt hàng trăm, hàng trăm dặm.

Cuối cùng cô cũng dừng lại và ở nguyên nơi vừa dừng chân, bởi cô không thể quay lại nơi ban đầu. Đi tiếp cũng chẳng ích gì. Cô có thể thấy đến tận cuối toa tàu và không còn toa nào nữa.

Cô đặt va li xuống, song song với lối đi, thử ngồi lên cái cạnh lật ngang của nó như cô thấy rất nhiều người khác đang làm. Nhưng cô thoáng lảo đảo mạnh, bởi vì phần trên của cô quá nặng, thiếu chút nữa thì ngã nhào lúc ngồi xuống. Thế rồi lúc ngồi xuống, cô ngả đầu vào thành ghế kế bên, và ngồi im như thế. Cô đã quá mệt mỏi, không còn muốn biết, quá mệt mỏi, không còn muốn quan tâm, thậm chí quá mệt mỏi, không thể nhắm mắt lại.

Điều gì khiến chúng ta dừng lại tại đúng thời điểm ấy, đúng nơi ấy? Điều gì đây, điều gì được nhỉ? Liệu có nguyên nhân gì không, hay chẳng có gì cả? Tại sao không dừng lại cách đó một mét, tại sao không dừng lại xa hơn một mét? Tại sao lại dừng đúng nơi này, mà không phải nơi khác?

Một số người nói: Đó chỉ là tình cờ, và nếu ta không dừng lại ở đó, ta sẽ dừng lại tại điểm dừng tiếp theo. Câu chuyện của ta khi ấy sẽ khác. Ta vừa đi vừa tự thêu dệt nên câu chuyện của riêng mình.

Nhưng một số người khác lại cho rằng: Ta không thể nào dừng lại ở bất kỳ chỗ nào khác ngoài chỗ này, ngay cả nếu ta muốn. Ý trời đã định sẵn, đã quyết là ta sẽ phải dừng lại ở đúng chỗ này chứ không phải chỗ nào khác. Câu chuyện của ta đang đợi sẵn ta ở đó, nó đã đợi ta ở đó cả trăm năm rồi, từ trước khi ta ra đời, và ta không thể thay đổi dù chỉ một dấu phẩy trong đó. Mọi việc ta làm đều là những việc ta bắt buộc phải làm. Ta là cành cây, và dòng nước ta trôi trên đó đã đưa đẩy ta đến đây. Ta là chiếc lá và làn gió nâng đỡ ta đã thổi ta tới đây. Đây là câu chuyện của ta và ta không thể trốn thoát khỏi nó, ta chỉ là nhạc sĩ, không phải quản lý sân khấu. Hoặc theo như cách nói của một số người là như vậy.

Trên mặt sàn, phía trước đôi mắt nhìn xuống của cô, sát vành tay ghế, là hai đôi giày dựng thẳng, đặt canh nhau. Phía bên trong, gần cửa sổ, là một đôi giày cao gót nhỏ nhắn, tươi tắn, gợi cảm, không có mặt sau, không có mặt bên, không có mũi giày, thật tình mà nói là gần như chẳng có gì ngoài cặp gót nhọn như dao găm và mấy cái quai buộc. Và ở phía bên ngoài, chỗ gần cô, là một đôi giày brogue [1] của nam, đem so với đôi giày kia thì trông thấp bè, kềnh càng và nặng nề hết sức. Đôi giày này được đặt gác lên nhau, do đôi chân mang chúng chập lại ở đoạn đầu gối.

Cô không nhìn thấy mặt của họ và cũng không muốn nhìn. Cô không muốn nhìn thấy khuôn mặt nào cả. Cô không muốn nhìn thấy gì cả.

Suốt một lúc chẳng có chuyện gì xảy ra. Thế rồi một chiếc giày cao gót kín đáo nhích về phía một chiếc giày brogue, nhẹ nhàng thúc vào nó, như thể đang tế nhị muốn nói điều gì. Chiếc giày brogue vẫn nằm đơ ở đó; nó không hiểu bức thông điệp. Nó đã cảm nhận được cú thúc, nhưng không hiểu cái ý ẩn. Một bàn tay to lớn hạ xuống, ngập ngừng gãi phần tất bên trên chiếc giày brogue, rồi lại rụt lên.

Như thể cảm thấy mất kiên nhẫn trước sự ngờ nghệch ấy, chiếc giày cao gót lại thúc thêm lần nữa. Chỉ có điều lần này nó đâm một cú ra trò, dùng lực rất mạnh, và nhắm vào phần mắt cá không được bảo vệ, bên trên chiếc giày brogue như lớp giáp.

Lần này thì đã hiệu nghiệm. Tờ báo kêu sột soạt đâu đó phía trên, như thể vừa bị hạ xuống để xem sao lại cứ thúc nhau khó chịu như thế.

Bên trên vọng lại một lời thì thầm, nói rất khẽ, ngoài cái tai người cần nghe ra thì không ai khác hiểu được nội dung.

Đáp lại nó là tiếng lầm bầm dò hỏi, nghe có vẻ nam tính.

Hai chiếc giày brogue đặt xuống ngang nhau trên mặt sàn khi cặp chân phía trên tách nhau ra. Thế rồi chúng hơi xoay về phía lối đi, như thể chủ nhân của chúng đã xoay thân trên lại để liếc nhìn về hướng đó.

Ngồi trên chiếc va li, cô mệt mỏi nhắm mắt, để tránh ánh nhìn đang chiếu lên người mình.

Khi cô mở mắt ra, đôi giày brogue đã bước ra ngoài khe ghế, và chủ nhân của chúng đang đứng thẳng người trên lối đi, ở phía bên kia. Con người này khá cao lớn, đến tận gần hai mét.

“Cô ngồi vào chỗ của tôi đây này,” anh ta mời. “Cứ tự nhiên, cứ ngồi chỗ tôi một lúc đi.”

Cô cố gắng tỏ vẻ lưỡng lự với nụ cười yếu ớt và cú lắc đầu do dự. Nhưng cái lưng ghế bọc nhưng trông hấp dẫn kinh khủng.

Cô gái trẻ vẫn đang ngồi trên ghế nài cùng anh ta. “Cô cứ tự nhiên, cứ ngồi đi,” cô thúc giục. “Anh ấy muốn cô ngồi mà. Chúng tôi muốn cô ngồi. Cô không thể cứ ngồi mãi ở cái chỗ kia được.”

Cái lưng ghế bọc nhung trông hấp dẫn kinh khủng. Cô không thể nào rời mắt khỏi nó. Nhưng cô gần như quá mệt mỏi, không thể đứng dậy và chuyển lên ghế ngồi. Anh chàng kia phải thò tay xuống, nắm lấy tay cô, đỡ cô đứng dậy khỏi chiếc va li và dịch sang ghế.

Cô lại thoáng nhắm mắt trong giây lát, tận hưởng cảm giác hạnh phúc khôn tả khi được ngả lưng ra sau.

“Ổn rồi,” anh ta nói đầy nhiệt tình. “Tốt hơn rồi phải không?”

Và cô gái bên cạnh cô, người bạn cùng ghế mới của cô, nói, “Ôi, cô mệt rũ ra rồi. Tôi chưa từng thấy ai kiệt sức đến như vậy.”

Cô mỉm cười để cảm ơn, và vẫn cố thoái thác thêm một chút, mặc dù hành động ấy đã được thực hiện, nhưng cả hai người họ đều gạt phăng lời từ chối của cô.

Cô đưa mắt nhìn họ. Giờ thì dù vẫn không muốn nhìn mặt ai, nhưng ít nhất cô muốn được thấy khuôn mặt của họ, mặc dù chỉ vài giây trước, cô chẳng muốn nhìn thấy bất kỳ gương mặt nào, ở bất cứ đâu, thêm bất cứ lần nào nữa. Nhưng lòng hảo tâm chẳng khác nào một liêu thuốc bổ dành cho cô.

Cả hai người này đều còn trẻ. Ừ thì cô cũng trẻ luôn. Nhưng cả hai người trông thật hạnh phúc, tươi vui, chìm đắm trong phước lành của thế giới, đó là điểm khác biệt giữa họ và cô. Nó hiển hiện trên người bọn họ. Bên trong cả hai bọn họ là một thứ ánh sáng nhuộm vàng đang rực cháy, một thứ còn hơn cả tâm trạng vui vẻ, hơn cả may mắn thông thường, và thoạt đầu cô không thể nhận ra nó là gì. Thế rồi chỉ một thoáng sau, ánh mắt của họ, rồi mọi lần quay đầu của họ, và mọi động tác của họ đã để lộ tất cả: họ đang yêu nhau vô cùng sâu đậm. Nó tỏa ra ngời ngời trên người bọn họ, tựa như lửa lân quang.

Đó là tình yêu của tuổi trẻ. Tình yêu còn tươi mới, trinh nguyên. Cái tình yêu đầu đời luôn một lần ghé thăm tất cả, và sau đó không bao giờ quay trở lại nữa.

Nhưng, khi nói chuyện, tình yêu ấy lại được bộc lộ theo kiểu ngược đời, ít nhất là cô gái kia thể hiện như thế, còn chàng trai kia thì không; gần như mọi câu cô ta nói với anh ta đều là một lời xúc phạm thân thiện, một câu sỉ nhục nhẹ nhàng, một câu chê bai hòa nhã. Có vẻ cô gái ấy chẳng dành được cho anh ta dù chỉ một câu dịu dàng, hay thậm chí là cư xử lịch sự như người bình thường với nhau. Nhưng ánh mắt cô ta lại bộc lộ hết tâm can. Và anh ta hiểu. Bất chấp mọi lời xấc láo quá đà, anh ta vẫn dành tặng cô gái ấy một nụ cười đầy tôn thờ, đầy yêu thương, đầy thấu hiểu.

“Nào, anh đi đi,” cô gái nói, kèm theo một cú phẩy tay độc đoán. “Đừng có đứng đó như tên ngốc, hà hơi xuống gáy bọn em như thế.

Đi kiếm việc gì đó để làm đi.”

“À, thế thì anh xin phép,” anh ta nói, và giả vờ dựng cổ áo dậy, như thể cảm thấy rét. Anh ta vu vơ nhìn dọc hai bên lối đi. “Chắc anh sẽ ra ngoài toa và hút một điếu xì gà.”

“Anh cứ hút hai điếu đi,” cô nàng nói tỉnh queo. “Xem em có thèm quan tâm không.”

Anh ta quay người và bắt đầu luồn lách qua lối đi chật ních người.

“Anh ấy thật tử tế,” cô gái mới đến nói với giọng khen ngợi, liếc nhìn theo anh ta.

“Ôi, anh ấy cũng tạm chấp nhận được,” người bạn đồng hành của cô nói. “Anh ấy cũng có một số điểm tốt.” Cô ta nhún vai. Nhưng ánh mắt lại làm lộ rõ cô ta chỉ nói như vậy thôi.

Cô ta liếc nhìn ra sau để đảm bảo anh chàng kia đã ra khỏi tầm tai. Thế rồi cô hơi rướn về phía cô gái nọ, hạ giọng xuống đầy bí mật. “Tôi nhận ra ngay,” cô ta nói. “Chính thế mà tôi bắt anh ấy đứng dậy. Ý tôi là về cô ấy.”

Cô gái ban nãy ngồi trên va li thoáng cụp mắt xuống, cảm thấy bối rối, không bằng lòng. Cô không đáp lời.

“Tôi cũng thế. Cô không phải là người duy nhất đâu,” cô nàng vội vã nói tiếp, giọng hơi mang chút tự mãn, như thể không thể đợi thêm nữa, chỉ muốn nhanh chóng khoe ra.

Cô gái nói, “Ồ.” Cô không biết phải nói gì nữa. Nghe câu đáp thật đều đều, hời hợt; như cái kiểu ta hay nói “Thật vậy à?” hay “ừ, biết rồi.” Cô cố rặn ra một nụ cười đồng cảm, nhưng cô làm không được tốt cho lắm. Có thể do đã lâu cô không tập mỉm cười.

“Bảy tháng,” cô gái kia nói thêm.

Cô có thể cảm thấy cô ta đang dán mắt vào người mình, như thể chờ đợi một câu đáp tương tự, kể cả chỉ để nói cho có.

“Tám,” cô nói, gần như không nghe thấy được. Cô không muốn nói, nhưng rồi cô vẫn cứ nói ra.

“Tuyệt vời,” người bạn đồng hành tặng cô câu khen ngợi đó vì đã cung cấp mẩu thông tin đối xứng kia. “Tuyệt diệu.” Cô ta cứ làm như thể cái chuyện này có một hệ thống cấp bậc nào đó, và mình đã tình cờ được tiếp chuyện với một người ở đẳng cấp quyền quý cao hơn: một nữ công tước hay một hầu tước phu nhân, một người chức trọng quyền cao hơn mình ba mươi ngày. Và xung quanh họ là những người phụ nữ thường dân, bị ngó lơ đầy khinh mạn.

Tuyệt vời, tuyệt diệu, cô thầm lặp lại trong lòng, và tim cô bật lên một tiếng khóc hoảng sợ, câm nín.

“Thế chồng cô thì sao?” cô gái kia gặng hỏi. “Cô đi gặp anh ta à?”

“Không,” cô nói, nhìn chăm chăm vào lớp nhung màu xanh lá của phần lưng ghế phía trước. “Không.”

“Ồ. Cô để anh ta ở lại New York ư?”

“Không,” cô nói. “Không.” Cô thấy câu chữ như được nối tiếp nhau viết lên phần lưng ghế, và ngay khi được đọc xong là lại biến mất. “Tôi đã để mất anh ấy.”

“Ôi, tôi xin l...” Người bạn đi tàu hoạt bát của cô trông như lần đầu tiên biết đến mùi buồn đau, không tính những nỗi buồn chỉ như lúc bị hỏng búp bê hay đánh mất tình yêu non trẻ thuở học trò. Nó như một trải nghiệm mới mẻ, lan tỏa trên gương mặt rạng ngời của cô ta. Và ngay cả lúc bấy giờ, nó vẫn chỉ là nỗi buồn của người khác, không phải nỗi buồn của cô ta. Đó là cái ấn tượng mà cô gái ấy mang lại. Cô ta chưa bao giờ tự mình mang nỗi đau buồn nào cả, bây giờ không buồn, và sẽ không bao giờ phải buồn. Cô ta là một trong những trường hợp hiếm hoi được sao may mắn chiếu mệnh, lấp lánh bay xuyên qua thung lũng thẳm đen của thế gian.

Cô ta ngắt ngang cái câu cảm thông nói dở, cắn môi trên; chợt đưa tay ra và đặt lên trên tay người bạn đồng hành của mình một lúc, thế rồi lại rút nó về.

Sau đó, cả hai tế nhị không nói thêm gì về đề tài đó nữa. Cái đề tài rất cơ bản có tên sinh và tử, có thể mang lại cả niềm vui tột cùng lẫn đau thương tột cùng.

Người con gái rám nắng ấy có mái tóc vàng màu ngô. Cô ta buộc tóc tròn quanh đầu như một quầng hào quang bù xù. Cô ta có những đốm tàn nhang trông chẳng khác nào các đốm sơn vàng, do cây cọ của một người họa sĩ bất cẩn nào đó hất văng lên cặp má màu mơ, với một vệt thẫm vắt ngang sống chiếc mũi tí hon, đầy lanh lợi. Phần xinh đẹp nhất của cô ta chính là cái miệng. Và cho dù phần còn lại của gương mặt không thể bì được với vẻ đẹp vô song của nó, chỉ riêng cái miệng kia thôi cũng đã đủ để khiến cô ta trông rất đáng yêu, không cần gì khác điểm tô thêm, tự thân mình thu hút mọi sự chú ý. Chỉ một ngọn đèn duy nhất là đủ khiến một căn phòng tầm thường trở nên rực sáng, mà không nhất thiết phải có nguyên cả ngọn đèn chùm. Khi nó nhoẻn cười, mọi thứ khác cũng nhoẻn cười theo. Mũi cô ta nhăn lại và cặp lông mày cong lên, mắt cô ta nheo đi, và các lúm đồng tiền xuất hiện ở nơi mà mới một phút trước còn chưa có gì. Cô ta trông như thể rất hay mỉm cười. Cô ta trông như thể có rất nhiều điều để khiến mình mỉm cười.

Cô ta không ngừng xoa chiếc nhẫn cưới trên ngón tay thứ ba. Trông như đang vuốt ve nó, mơn trớn nó. Chắc hẳn đến bây giờ cô ta đã không còn ý thức được mình đang làm việc đó; nó hẳn đã trở thành một thói quen không thể lay chuyển. Nhưng ban đầu, mấy tháng trước, khi chiếc nhẫn lần đầu được đeo vào, lúc nó mới xuất hiện ở đó, cô ta hẳn đã hãnh diện đến mức cảm thấy cần liên tục trưng nó ra với toàn thế giới - như thế muốn nói, “Nhìn tôi này! Nhìn xem tôi có gì này!” Cô ta hẳn yêu quý nó đến mức không thể nào rời tay khỏi nó được lâu. Và bây giờ, mặc dù lòng hãnh diện và tình yêu vẫn hoàn toàn chưa hao mòn, hành động này đã trở thành một cái tật không cưỡng lại được. Bất kể tay cô ta có làm động tác gì, hay cử chỉ gì, hành động kia luôn xuất hiện, hiện lên rõ ràng hơn cả trong mắt người quan sát.

Chiếc nhẫn có đính một hàng kim cương và rồi ở mỗi đầu là một viên lam ngọc để đánh dấu điểm dừng. Để ý thấy người bạn đồng hành đang liếc nhìn nó, cô ta xoay thêm nó về phía cô gái kia một chút, để cô có thể quan sát rõ hơn, đưa ngón tay phẩy qua nó, như thể để gạt bỏ hạt bụi giả tưởng cuối cùng nào còn bám lại trên đó. Cô ta phẩy ngón để giả vờ như không quan tâm đến nó lắm. Cũng giống như thái độ của cô nàng đối với anh chàng kia chỉ để giả vờ cô ta không quan tâm chút gì đến anh ta cả. Một cú phẩy dối trá như cuội.

Tầm mười phút sau, lúc anh ta quay lại, cả hai người bọn họ lại mê mẩn trò chuyện theo kiểu những người bạn mới. Anh ta lại gần chỗ họ, hành xử theo kiểu bí bí ẩn ẩn nhưng lại đầy lộ liễu. Anh ta cẩn thận nhìn sang hai bên, như thể mang theo thông tin tuyệt mật gì đó. Thế rồi anh ta lấy cạnh bàn tay che một bên miệng lại. Và cúi xuống thì thầm, “Pat [2], một cậu nhân viên vừa tiết lộ cho anh. Mấy phút nữa họ sẽ mở cửa toa nhà ăn. Đây là thông tin nội bộ đặc biệt, được báo sớm. Em biết với đám đông này thì chuyện gì sẽ xảy ra rồi đó. Anh nghĩ tốt nhất là chúng ta nên di chuyển lên phía cái toa đó nếu muốn có chỗ. Đợi người ta thông báo thì ở đây sẽ loạn lên ngay.”

Cô ta lẹ làng nhảy bật dậy.

Anh ta ngay lập tức đưa cả hai tay ghìm cô ta lại, trông nghiêm túc đến nực cười. “Suỵt! Đừng có để lộ! Em định làm gì đấy? Tỏ vẻ thờ ơ vào chứ. Hành xử như thể em chẳng định đi đâu cả, chỉ đứng dậy để duỗi chân thôi.”

Cô ta nín một tiếng cười tinh quái. “Một khi đã ra toa nhà ăn thì em không tài nào hành xử như thể mình chẳng định đi đâu cả được. Nhìn em là lộ hết mà. Nếu anh ghìm được em xuống vận tốc chạy nước rút hai mươi mét là may mắn lắm rồi.” Nhưng để chiều cái ý định thực hiện chiêu trò gian xảo của anh ta, cô ta nhấc chân lên đầy khoa trương và rón rén bước ra ngoài lối đi, như thể lượng tiếng ồn mình gây ra có liên quan đến việc họ đang định làm.

Khi đi ngang qua, cô ta kéo tay áo cô gái bên cạnh mình thúc giục. “Đi nào. Cô sẽ đi với chúng tôi, phải không?” cô ta thì thầm đầy bí ẩn.

“Thế mấy chỗ ngồi này thì sao? Chúng sẽ bị người khác chiếm mất mà, đúng không?”

“Nếu đặt hành lý lên trên thì sẽ không sao đâu. Đây, làm thế này này.” Cô ta nhấc va li của cô gái kia lên, nãy giờ vẫn được đặt ở lối đi, và hai người bọn họ đặt ngang nó lên trên ghế, chặn ngang toàn bộ.

Bị chiếc va li choán chỗ, cô gái đã đứng dậy, nhưng vẫn chần chừ, vẫn còn lưỡng lự chưa muốn đi với họ.

Cô vợ trẻ có vẻ hiểu được sự tình. Riêng khoản này cô ta rất nhạy bén. Cô ta bảo anh chồng đi trước, ra khỏi tầm tai, mở đường cho bọn họ. Thế rồi cô ta quay sang người bạn ngồi cùng ghế của mình, lịch sự trấn an. “Đừng lo về... bất cứ chuyện gì cả; anh ấy sẽ lo liệu mọi thứ.” Và rồi, để giảm thiểu sự xấu hổ của người kia, cô ta bí mật hứa với cô, “Tôi đảm bảo anh ấy sẽ lo liệu cho cô. Đằng nào thì họ tồn tại cũng chỉ để làm việc đó thôi mà.”

Cô gái kia cố ấp úng thốt ra một câu từ chối không thật tâm, nhưng chỉ càng chứng minh phỏng đoán vừa rồi là đúng, “Không, vấn đề không phải vậy... tôi không muốn...”

Nhưng người bạn mới kia đã coi việc cô chấp nhận là điều hiển nhiên rồi, và không phí thêm thời gian vào chuyện này nữa. “Nhanh lên nào, chúng ta sẽ để lạc anh ấy mất,” cô ta thúc giục. “Người ta đang lấp lối đi đằng sau anh ấy kìa.”

Cô ta đẩy cô tiến lên trước mình, nhẹ nhàng đặt bàn tay thân thiện lên hông cô.

“Bây giờ cô không thể lơ là bản thân được,” cô ta thì thầm. “Tôi biết mà. Họ cũng đã bảo với tôi như thế.”

Trong khi ấy, anh chồng đi trước đang dọn quang một con đường cho họ ở chính giữa lối đi đông kín, khiến mọi người phải nghiêng hẳn người vào chỗ mấy cái ghế để tránh lối. Ấy nhưng, không ai nhìn anh ta với vẻ giận dữ cả. Anh ta sở hữu thần thái ôn hòa nhưng vẫn cứng rắn.

“Có một anh chồng từng là thành viên đội bóng bầu dục kể cũng hữu ích,” cô dâu của anh ta bình phẩm đầy tự mãn. “Anh ấy có thể giải quyết mọi khó khăn. Cô hãy nhìn tấm lưng đồ sộ kia mà xem kìa.”

Khi họ ra đến chỗ anh ta, cô ta giận dỗi than phiền, “Anh không đợi em được à? Em có tận hai người cần cho ăn đây này.”

“Cả anh cũng thế,” anh ta buông một câu đáp chẳng mấy ga lăng. “Và cả hai người đó đều là anh.”

Nhờ tài nhìn xa trông rộng của anh ta, họ thuộc số những người đầu tiên được vào toa nhà ăn, nơi chỉ mấy giây sau khi cửa được mở là đã ken đặc người. Họ kiếm được một bàn cho ba người, nằm chéo với một bên cửa sổ. Những người không may mắn phải xếp hàng đợi ở lối đi bên ngoài, cánh cửa khi ấy đã lạnh lùng đóng sập trước mặt họ.

“Giới thiệu qua nhé, kẻo chúng ta ngồi vào bàn rồi mà vẫn chưa biết tên nhau,” cô vợ trẻ vui vẻ mở khăn ăn ra. “Anh ấy là Hugh Hazzard, còn tôi là Patrice Hazzard.” Mấy lúm đồng tiền của cô ta lại xuất hiện với vẻ chế nhạo. “Cái tên buồn cười nhỉ?”

“Em lễ phép chút đi,” người chồng trẻ làu bàu, trán vẫn không ngẩng lên khỏi tờ thực đơn. “Anh mới chỉ đang ướm thử em chứ vẫn chưa quyết định liệu có nên để cho em giữ nó hay không.”

“Giờ nó là của em rồi,” anh ta nhận được câu đáp với tính lô-gích đậm chất đàn bà. “Em vẫn chưa quyết định liệu mình có nên giữ nó hay không.”

“Tên cô là gì?” cô ta hỏi vị khách của mình.

“Georgesson,” cô gái nói. “Helen Georgesson.”

Cô mỉm cười lưỡng lự với hai người bọn họ. Tặng cho anh ta mép ngoài nụ cười, và tặng cho cô vợ phần trung tâm của nụ cười. Không phải là nụ cười tươi tắn cho lắm, nhưng nó vẫn có hồn và lòng biết ơn, dù chỉ là chút ít.

“Hai người tử tế với tôi quá,” cô nói.

Cô nhìn xuống tờ thực đơn đang mở giữa hai tay, để họ không phát hiện ra chút cảm xúc khiến môi cô thoáng run rẩy.

“Được... như cô hẳn phải vui lắm,” cô buồn bã lẩm bẩm.

Chú thích:

[1] Giày brogue: Kiểu giày đế thấp truyền thống có nguồn gốc từ Scotland và Ireland.

[2] Pat: Cách gọi thân mật của Patrice.