← Quay lại trang sách

Chương 49 & 50

Hôm qua, anh William Hazzard [1] đã kết hôn với cô Patrice Hazzard, góa phụ của anh Hugh Hazzard quá cố, trong một buổi lễ giản dị tại Nhà thờ Tân giáo St. Bartholomew, tại thị trấn này, chủ trì bởi Mục sư Francis Allgood. Không có người tham dự. Sau khi kết hôn, vợ chồng nhà Hazzard lập tức đi hưởng tuần trăng mật tại dãy núi Rocky của Canada.” - Mọi tờ báo hàng ngày của Caulfield đều đưa tin như vậy.

Chú thích:

[1] William Hazzard: Tên đầy đủ của Bill.

Chương 50

Sau khi kết thúc việc đọc di chúc - hôm đó là thứ Hai, sau khi họ trở về, tức khoảng một tháng sau - Winthrop bảo hai người nán lại một lát sau khi mọi người đã ra khỏi phòng. Ông ta đóng cửa lại sau khi những người khác đã đi hết. Thế rồi ông ta tiến về chỗ bức tường, mở một cái két gắn trên đó và lấy ra một phong bì. Ông ta ngồi xuống bàn.

“Bill và Patrice,” ông ta nói, “đây là thứ dành riêng cho hai cháu.”

Họ nhìn nhau.

“Đây không phải là một phần trong khối tài sản, thế nên nó không liên quan đến bất cứ ai khác ngoài hai cháu. Tất nhiên đây là thư của mẹ các cháu. Nó được ghi lại khi bà ấy nằm hấp hối trên giường, chưa đầy một giờ trước khi bà ấy qua đời.”

“Nhưng bọn cháu đã...” Bill dợm nói.

Winthrop giơ tay lên để anh im lặng. “Có tất cả hai bức thư. Đây là bức thứ hai. Cả hai đều được đọc để bác viết trong cùng đêm hôm đó, hay nói đúng hơn là sáng sớm hôm đó. Bức này được viết sau bức kia. Bức đầu tiên bà ấy đã đích thân đưa lại cho cháu cũng vào đêm hôm ấy, như hai cháu đã biết. Bức còn lại thì bà ấy đưa cho bác. Bác được lệnh phải giữ nó cho đến hôm nay, như bác đã làm. Bà ấy bảo với bác rằng: đây là thư gửi cho cả hai cháu. Không được phép đưa cho một đứa mà không có đứa kia. Sau khi đã đưa, không được phép để cho một đứa tự mở mà không có đứa còn lại. Và cuối cùng, thư sẽ chỉ được đưa trong trường hợp hai cháu kết hôn. Nếu hai cháu bây giờ chưa kết hôn như bà ấy muốn - và hai cháu biết là bà ấy rất mong chuyện đó xảy ra - thì bác sẽ phải hủy nó, không cho ai mở ra cả. Nếu là hai người riêng lẻ thì chẳng ai trong hai cháu được đọc. Nhưng khi đã kết hôn, đây sẽ là món quà cuối cùng bà ấy gửi tặng hai cháu.

“Tuy nhiên, hai cháu không cần đọc nó nếu không muốn. Hai cháu có thể đem hủy nó mà không cần đọc. Bác đã hứa là sẽ không tiết lộ nội dung bên trong, cho dù lẽ dĩ nhiên bác biết nó là gì, bởi vì bác là người đã ở bên giường ghi lại những lời của bà ấy, làm nhân chứng và chứng thực chữ ký của bà ấy dưới danh nghĩa luật sư của bà ấy. Bởi vậy, hai cháu phải quyết định tự mình đọc hoặc không đọc nó. Và nếu hai cháu đọc nó thì sau khi đọc xong, hai cháu cũng phải tiêu hủy nó.”

Ông ta đợi một lát.

“Nào, hai cháu có muốn bác đưa nó lại cho hai cháu, hay muốn bác tiêu hủy nó?”

“Tất nhiên là bọn cháu muốn nhận nó,” Patrice thì thầm.

“Bọn cháu muốn nhận nó,” Bill lặp lại.

Ông ta chìa nó cho họ theo chiều dọc. “Mời cháu đặt ngón tay lên trên mép của nó. Còn của cháu thì lên mép bên này.” Ông ta rút ngón tay của mình lại, và giờ chỉ có họ cầm lấy nó. “Bác hi vọng nó sẽ mang lại cho hai cháu niềm hạnh phúc mà bà ấy muốn hai cháu được hưởng. Bác biết đó là lý do bà ấy đã làm như vậy. Bà ấy bảo bác là lúc đưa thư thì hãy thay mặt bà ấy chúc phúc cho hai cháu. Và như bác đang làm đây. Thế là trách nhiệm của bác trong việc này đã chấm dứt.”

Họ đợi vài tiếng, cho đến khi chỉ còn một mình trong phòng đêm hôm đó. Thế rồi sau khi anh đã mặc áo choàng tắm, và thấy rằng cô đã khoác thêm một món đồ lụa gì đó lên bộ đồ ngủ, anh lôi nó ra khỏi túi áo khoác và nói:

“Nào. Mình đọc nhé? Em muốn đọc nó, đúng không?”

“Tất nhiên rồi. Đây là thư của mẹ. Chúng ta đều muốn đọc nó. Em đã đếm từng phút suốt cả tối nay rồi.”

“Anh biết em sẽ muốn vậy. Ra đây nào. Chúng ta cùng nhau đọc.”

Anh ngồi xuống ghế bành, chỉnh lại ngọn đèn sau một bên vai. Cô ngồi trên tay ghế cạnh anh, choàng một cánh tay quanh vai anh.

Dưới ngón tay anh, miếng sáp niêm phong vỡ vụn và phần nắp phong bì bật mở thẳng dậy.

Trong sự im lặng chăm chú, đầu sát bên nhau, họ đọc:

Các con yêu quý của mẹ!

Lúc bức thư này đến tay các con thì hẳn các con đã kết hôn rồi. Bởi lẽ nếu các con chưa kết hôn, nó sẽ không đến được tay các con; bác Winthrop sẽ giải thích hết cho các con nghe. Các con đang hạnh phúc. Mẹ hi vọng rằng mình đã cho các con cái niềm hạnh phúc ấy. Mẹ thậm chí còn muốn cho các con thêm một chút hạnh phúc nữa. Và mẹ tin cũng như cầu mong rằng với bao hạnh phúc chứa chan như thế, các con sẽ chừa lại phần mẹ một ít, cho dù mẹ đã mất và không còn ở đó với các con nữa. Mẹ không muốn các con phải phiền muộn mỗi lần nghĩ đến mẹ. Mẹ không thể chịu được cái cảnh các con nghĩ xấu về mẹ.

Tất nhiên, mẹ không làm chuyện ấy. Mẹ không phải là người tước đi sinh mạng gã trai trẻ kia. Có thể các con đã đoán được điều ấy rồi. Có thể cả hai con hiểu mẹ đủ rõ để biết rằng mẹ không thể nào làm được một chuyện động trời như thế.

Mẹ biết rằng hắn đang làm gì đó đe dọa đến hạnh phúc của Patrice, chỉ vậy thôi. Đó là lý do nhà mình đã thuê Carter theo dõi hắn. Nhưng mẹ chưa bao giờ đích thân gặp hắn, mẹ chưa bao giờ nhìn thấy hắn.

Đêm qua mẹ ở nhà một mình, (bởi vì lúc bác Winthrop viết bức thư này giúp mẹ, nó vẫn còn là đêm qua, mặc dù các con sẽ phải lâu nữa mới được đọc nó). Ngay cả cha, người không bao giờ đi đâu mà không có mẹ, đã phải tham dự một cuộc họp cấp bách tại nhà máy. Cuộc họp sẽ giúp giải quyết vụ đình công sớm hơn, và mẹ đã van nài bảo ông ấy đi, mặc dù ông ấy không muốn. Mẹ ở nhà một mình, chỉ có thím Josie, đứa bé và mẹ.

Carter gọi đến lúc 10 giờ 30 và bảo với mẹ là anh ta có tin xấu. Anh ta bảo vừa có một nghi lễ kết hôn được thực hiện để hai người bọn họ lấy nhau tại Hastings. Mẹ nhận cuộc gọi ở diện thoại dưới tầng. Cú sốc khiến mẹ bị lên cơn đau. Vì không muốn làm thím Josie hốt hoảng, mẹ thử leo lên cầu thang để vào phòng mà không cần người giúp. Khi lên đến đầu cầu thang, mẹ trở nên kiệt sức và chỉ còn biết nằm đó, không thể cử động hay gọi được ai.

Trong lúc mẹ nằm bất lực ở đó, mẹ nghe thấy tiếng cửa mở ra bên ngoài và nhận ra tiếng bước chân của Bill bên dưới. Mẹ cố thử thu hút sự chú ý của nó, nhưng giọng mẹ yếu quá, không thể làm nó nghe thấy được. Mẹ nghe thấy nó đi vào phòng đọc sách, ở trong đó mấy giây, rồi lại đi ra. Sau đó thì mẹ nhớ nghe thấy tiếng gì kêu tách giữa tay nó lúc nó đứng cạnh cửa. Và mẹ biết nó không bao giờ dùng bật lửa hút thuốc. Thế rồi nó rời nhà.

Một lúc sau, khi thím Josie ra và phát hiện mẹ đang nằm ở đó, rồi đưa mẹ về giường. Trong lúc bọn ta đợi bác sĩ đến, mẹ bảo thím ấy xuống phòng đọc sách xem khẩu súng dưới đó có còn đây không.

Thím ấy không hiểu tại sao mẹ lại muốn thím làm chuyện này, và mẹ không nói với thím. Nhưng lúc thím quay lại và bảo với mẹ rằng khẩu súng đã biến mất, mẹ rất sợ khi nghĩ đến, như thế tức là sao.

Khi ấy mẹ biết là mình sắp chết rồi. Lúc sắp chết người ta sẽ biết. Trong lúc nằm đó suốt mấy tiếng dài dằng dặc, mẹ có thời gian suy nghĩ. Mẹ có thể suy nghĩ hết sức minh bạch. Mẹ biết rằng có một khả năng Bill hoặc Patrice của mẹ sẽ cần được mẹ bảo vệ, sau khi mẹ không còn ở đó nữa. Nhưng mẹ biết mình sẽ vẫn phải bảo vệ các con hết mức có thể. Mẹ muốn các con được hạnh phúc. Quan trọng nhất, mẹ muốn cháu nội của mẹ được an toàn, được vào đời mà không bị sao cả. Mẹ biết mình có thể bảo vệ các con như thế nào.

Thế nên ngay khi được bác sĩ Parker cho phép, mẹ cho người gọi Ty Winthrop đến bên giường. Mẹ kín đáo đọc riêng cho bác ấy viết lời tuyên thệ mà các con hẳn giờ đã có.

Các con yêu dấu, mẹ hi vọng các con chưa phải dùng đến nó. Mẹ cầu mong là các con chưa phải dùng đến nó, và sẽ không bao giờ phải làm thế.

Nhưng đây là lời phủ nhận cái bản tuyên thệ kia. Đây là sự thật, chỉ dành cho riêng hai con. Vì đây là bản truyền đạt lại sự thật cho những người thân yêu của mẹ, mẹ không phải thề và chứng thực. Mẹ không cảm thấy tội lỗi. Đây là quà cưới mẹ dành cho các con. Để giúp hạnh phúc của các con thậm chí còn vẹn toàn hơn hiện tại.

Hãy đốt nó đi sau khi các con đã đọc nó. Đây là mong ước cuối cùng của một người đã ra đi. Mong Chúa ban phước lành cho cả hai con.

Người mẹ tận tụy của các con.

Que diêm kêu xoẹt một tiếng bé tí. Những sọc đen leo lên tờ giấy, sau đó chập vào nhau, trước khi ngọn lửa xuất hiện. Thế rồi một tiếng phụt câm nín vang lên, và bất chợt ánh sáng vàng bừng lên xung quanh nó.

Và trong lúc bức thư cháy trên cái ngọn sáng vàng kia, họ quay đầu và nhìn nhau. Nhìn nhau với nỗi kinh hoàng khác thường, mới lạ mà từ trước đến nay họ chưa bao giờ trải nghiệm. Như thể thế giới đã trôi tuột đi, và dưới chân chẳng còn lại gì để đặt chân nữa.

“Mẹ không làm chuyện ấy,” anh thì thầm, sợ hãi rụng rời.

“Không phải mẹ,” cô thì thầm, thất kinh hồn vía.

“Thế tức là...?”

“Thế tức là...?”

Và mỗi cặp mắt đều trả lời, “Anh.” “Em.”

Dễ chịu biết bao những đêm hè ở Caulfield. Đêm thoảng hương hoa vòi voi, hoa nhài, và cỏ ba lá. Các vì sao ở đây vừa ấm vừa sà thấp xuống chỗ chúng ta. Làn gió mềm mại như nụ hôn của em bé. Tiếng thì thầm êm dịu của những thân cây sum sê cành lá, ánh đèn chiếu lên thảm cỏ, nét tĩnh tại của sự bình yên và an toàn tuyệt hảo.

Nhưng không phải với chúng tôi.

Ngôi nhà của chúng tôi ở Caulfield thật dễ chịu. Thảm cỏ xanh mướt lúc nào trông cũng như vừa được tưới nước; những cây cột chống hiên nhà rực trắng dưới ánh mặt trời; những thanh lan can cong cong chạy xuống từ trên nhà đối xứng đầy thanh tao; những mặt sàn cổ đắt tiền bóng loáng; sự mềm mại của tấm thảm; trong mọi căn phòng luôn có một chiếc ghế ưa thích đợi chờ như một người bạn lâu năm. Khách khứa đến thăm nhà sẽ nói, “Còn nơi nào hơn nơi này được nữa? Đây là một mái ấm theo đúng chuẩn.”

Nhưng không phải với chúng tôi.

Tôi yêu anh ấy vô cùng. Hơn hẳn hồi trước, không hề suy giảm.

Tôi yêu anh ấy đến cay đắng cả cõi lòng. Và anh ấy cũng yêu tôi. Ấy tôi biết, vào một ngày nào đó, có khi năm nay, có khi vào năm sau, nhưng chắc chắn sẽ đến, anh ấy sẽ bất chợt gói ghém đồ đạc và rời đi và bỏ rơi tôi. Mặc dù anh ấy sẽ vẫn yêu tôi, và sẽ không bao giờ ngừng yêu tôi, ngay cả sau khi đã đi mất.

Còn nếu anh ấy không đi thì tôi sẽ là người đi. Tôi sẽ xách va li lên và bước qua cánh cửa kia, không bao giờ quay lại. Tôi sẽ lại đằng sau con tim mình lại, và bỏ lại đằng sau đứa con của mình, bỏ lại đằng sau cuộc đời mình, nhưng tôi sẽ không bao giờ quay lại.

Điều ấy là chắc chắn, điều ấy dứt khoát sẽ xảy ra. Yếu tố duy nhất không chắc chắn là: người nào trong số chúng tôi sẽ quỵ ngã đầu tiên.

Chúng tôi đã cố chống lại nó. Theo mọi cách mà chúng tôi biết, theo mọi cách trên đời. Không ổn, không ổn chút nào hết. Không có lối thoát. Chúng tôi đã bị tóm gọn, chúng tôi đã bị mắc bẫy. Bởi nếu anh ấy vô tội, thì thủ phạm phải là tôi. Và nếu tôi vô tội, thủ phạm sẽ phải là anh ấy. Nhưng tôi biết mình vô tội - (Ấy nhưng có thể anh ấy cũng nghĩ như thế về bản thân.) Chúng tôi không thể mở đường thoát ra ngoài, không có lối thoát.

Nó ẩn trong tận nụ hôn chúng tôi trao nhau. Bằng cách nào đó, chúng tôi đã để nó kẹt ngay giữa đôi môi mình, lần nào cũng vậy. Nó ở khắp mọi nơi, nó tồn lại khắp mọi lúc, nó chính là chúng tôi.

Tôi không biết cái trò chơi này là gì. Tôi không chắc mình biết nó cần được chơi theo kiểu nào. Chưa một ai từng nói cho tôi biết cả. Tôi chỉ biết chúng tôi chắc chắn đã chơi sai cách, sai chỗ nào đó trong tiến trình chơi. Tôi không biết mức cược là như thế nào. Tôi chỉ biết trò chơi ấy không dành cho chúng tôi.

Chúng tôi đã thua. Tôi chỉ biết có vậy. Chúng tôi đã thua. Và bây giờ trò chơi đã chấm dứt.

HẾT