← Quay lại trang sách

Chương 12 Tập đoàn Salamander

Chủ tịch G.H. Bondy nhấn chuông và đứng lên.

- Thưa toàn thể quý vị, - ông bắt đầu, - tôi được vinh dự khai mạc đại hội bất thường của Tập đoàn Xuất khẩu Thái Bình Dương (Pacific Export Association, gọi tắt Tập đoàn PEA). Tôi xin chào mừng tất cả quý vị hiện diện ở đây và xin cám ơn sự ủng hộ nhiệt tình của quý vị.

- Thưa quý vị, - ông tiếp tục với giọng xúc động, - tôi đau lòng khi phải thông báo một tin buồn. Thuyền trưởng Jan van Toch không còn nữa. Người mà chúng ta có thể xem như nhà sáng lập, như cha đẻ của ý tưởng tuyệt vời là thiết lập quan hệ thương mại với hàng ngàn hòn đảo trên Thái Bình Dương xa xôi, vị thuyền trưởng hàng đầu kiêm đối tác nhiệt thành nhất của chúng ta, ông đã qua đời. Ông đã ra đi vào đầu năm nay vì một cơn đột quỵ trong lúc đang làm nhiệm vụ trên chiếc tàu Šárka của chúng ta, cách đảo Fanning không xa. (Dám cá là lúc đó cha nội này đang cãi cọ om sòm lắm, tội nghiệp hắn, một ý nghĩ thoáng qua tâm trí ông Bondy) . Đề nghị tất cả chúng ta hãy đứng dậy dành cho ông một phút mặc niệm.

Mọi đại biểu đều nhấc mông, kéo ghế sột soạt và đứng im lặng trang nghiêm, tất cả đều chung một ý nghĩ, mong cho đại hội này không kéo dài lê thê. (Tội nghiệp van Toch, không biết bây giờ anh bạn ra sao rồi, G.H. Bondy ngẫm nghĩ trong niềm xúc động chân thành. Tụi nó dám để xác cha nội đó trên tấm ván rồi đẩy ùm xuống biển lắm - nước bắn tung tóe phải biết! Ôi chà, hắn đúng là người tốt, và có đôi mắt xanh đến lạ…) . - Xin cám ơn quý vị, - ông nói thêm vài lời ngắn gọn, - đã tỏ lòng thương tiếc và tưởng nhớ Thuyền trưởng van Toch, người bạn thân của tôi. Bây giờ xin mời giám đốc của chúng ta, ông Volavka, trình bày với quý vị về viễn cảnh tài chính của Tập đoàn PEA trong năm tới. Các số liệu này vẫn chưa chính thức nhưng tôi hy vọng là quý vị sẽ không mong đợi chúng sẽ có nhiều thay đổi cho đến cuối năm nay. Bây giờ, xin mời.

- Kính chào quý vị, - ông Volavka chào xong là nói ào ào. - Tình hình thị trường ngọc trai rất đáng thất vọng. Đến cuối năm ngoái, sản lượng ngọc trai đã tăng gần hai mươi lần so với một năm thuận lợi như năm 1925, nhưng bây giờ giá ngọc đã tuột dốc thê thảm, chỉ còn sáu mươi lăm phần trăm. Do đó Hội đồng quản trị đã quyết định sẽ không đưa lượng ngọc trai thu hoạch được trong năm nay ra thị trường mà sẽ trữ hàng chờ đến khi nhu cầu tăng cao trở lại. Rủi thay, mùa thu vừa qua ngọc trai không còn là loại hàng hóa thời thượng nữa, lý do rõ ràng là vì chúng đã đồng loạt mất giá. Chi nhánh Amsterdam của chúng ta hiện còn tồn kho hơn hai trăm ngàn viên ngọc mà ở thời điểm này thì rõ ràng là không thể nào bán đi được.

- Trong khi đó, - ông Volavka cứ thao thao bất tuyệt, - sản lượng ngọc trai năm nay cũng sụt giảm đáng kể. Chúng ta phải từ bỏ khá nhiều khu vực trai ngọc vì thu không đủ bù chi. Những khu vực khai thác từ hai hay ba năm trước đây, giờ có vẻ sắp cạn kiệt. Vì thế Hội đồng quản trị quyết định chuyển hướng quan tâm sang các nguồn sản phẩm biển sâu khác như san hô, sò ốc và hải miên. Mặc dầu chúng ta đã cố gắng phục hồi được thị trường đồ nữ trang làm bằng san hô và các loại trang sức khác, nhưng với thị trường này thì hàng san hô của Ý lại thành công hơn hẳn hàng san hô Thái Bình Dương. Ngoài ra, Hội đồng quản trị cũng cân nhắc tới khả năng đánh bắt cá tăng cường ở những vùng biển sâu của Thái Bình Dương. Khó khăn chính yếu là làm sao chuyển cá từ những nơi này sang các thị trường Âu châu và Mỹ châu; các nghiên cứu cho tới nay vẫn chỉ đưa ra những kết quả không mấy khả quan.

- Mặt khác, - vị giám đốc này vẫn cứ nói, hơi cao giọng một chút, - doanh thu của chúng ta trong nhiều ngành hàng thứ yếu, chẳng hạn như xuất khẩu vải vóc, xoong chảo bằng sứ, máy phát thanh và găng tay sang các đảo Thái Bình Dương lại có phần tăng cao. Công việc kinh doanh này có khả năng phát triển và mở rộng thêm, mặc dù năm nay có dấu hiệu lỗ nhẹ. Lẽ đương nhiên, điều chắc chắn là Tập đoàn PEA sẽ không chia lãi cho các cổ đông vào cuối năm tài chính này, và Hội đồng quản trị muốn thông báo trước rằng trong giai đoạn này chúng tôi sẽ bãi bỏ hết mọi khoản hoa hồng và tiền thưởng…

Sau đó là một bầu không khí im lặng khó chịu kéo dài. (Lúc đó chắc trên đảo Fanning cũng nặng nề như thế này, G.H. Bondy nghĩ thầm. Hắn đã chết như một thủy thủ chân chính, van Toch. Một người tốt. Một thằng cha tốt như vậy mà chết thì thật là tiếc. Mà hắn đã già lắm đâu… chỉ hơn mình vài tuổi chứ mấy…) Tiến sĩ Hubka đứng lên phát biểu; và chúng tôi xin trích lại dưới đây biên bản đại hội bất thường của Tập đoàn Xuất khẩu Thái Bình Dương PEA:

TS. HUBKA hỏi liệu có khả năng phát mãi Tập đoàn PEA không.

G.H. BONDY trả lời là Hội đồng quản trị đã quyết định chờ nghe thêm góp ý về vấn đề này.

Ô. LOUIS BONENFANT có ý kiến là việc sản xuất ngọc trai cần phải được tiến hành dưới sự giám sát của một ban đại diện thường trực ngay tại chỗ, ban này phải kiểm tra xem việc thu hoạch ngọc trai ở các bãi khai thác có đạt năng suất và đúng mức chuyên nghiệp không.

GIÁM ĐỐC VOLAVKA trả lời là điều này đã được cân nhắc nhưng cho rằng nếu triển khai thì sẽ tăng quản lý phí lên quá cao. Phải cần tới ít nhất là 300 nhân viên hưởng lương làm việc này; rồi sẽ nảy sinh vấn đề làm cách nào giám sát được chính số nhân viên này để đảm bảo họ sẽ chuyển giao toàn bộ số ngọc trai khai thác được về công ty.

M. H. BRINKELAER hỏi liệu có nên tin cậy vào đám sa giông hay không, chúng có giao hết số ngọc trai khai thác được cho công ty không hay là lại chuyển cho các bên khác không thuộc công ty.

G.H. BONDY lưu ý đây là lần đầu tiên hội nghị CÔNG KHAI nêu đích danh những con sa giông. Từ trước đến nay đã có quy định bắt buộc là không được nói ra bất kỳ thông tin nào về cách thu hoạch ngọc trai đang được tiến hành, ông nói rõ đó là lý do ông đã chọn cái tên kín đáo cho công ty là Pacific Export Association.

M.H. BRINKELAER hỏi là liệu ở hội nghị này mọi người có được phép bàn về những vấn đề có liên quan đến lợi ích của công ty hay không, chưa kể đây cũng là những việc mà mọi người lâu nay đều biết rồi.

G.H. BONDY trả lời là việc này không phải là không được phép, chỉ là chưa có tiền lệ. Ông hoan nghênh việc bây giờ đã có thể nói công khai hơn. Trả lời câu hỏi thứ nhất của ông Brinkelaer, ông có thể nói rằng theo như ông biết thì không có lý do gì để nghi ngờ lòng lương thiện tuyệt đối và khả năng lao động của đám sa giông đã tuyển dụng cho việc thu hoạch ngọc trai và san hô. Tuy nhiên chúng ta phải tính đến thực tế là những nguồn ngọc trai hiện có đã hoặc sẽ nhanh chóng cạn kiệt. Còn những nguồn chưa biết thì người cộng sự không thể nào quên của chúng ta, tức Thuyền trưởng van Toch, ông đã qua đời khi đang trên đường tìm kiếm những hòn đảo chưa khai thác. Hiện vẫn chưa tìm ra người nào ngang tầm về kinh nghiệm lẫn tính trung thực không gì lay chuyển được, cũng như tình yêu dành cho công việc này để thay thế ông ấy.

ĐẠI TÁ D. W. BRIGHT hoàn toàn ghi nhận công lao của Thuyền trưởng van Toch quá cố. Tuy nhiên, ông lưu ý, vị thuyền trưởng mà chúng ta ai cũng thương tiếc, lại nuông chiều đám sa giông quá mức. (Đồng ý) Đâu có cần thiết phải cung cấp cho đám sa giông những loại dao và công cụ tốt nhất như ông van Toch quá cố đã làm. Cũng đâu cần thiết phải cho chúng ăn quá tốn kém như thế. Đối với việc duy trì đám sa giông này, ta có thể giảm thiểu chi phí đáng kể và nhờ thế sẽ tăng thêm lợi nhuận cho cả công ty. (Vỗ tay nhiệt liệt) .

PHÓ CHỦ TỊCH J. GILBERT đồng ý với Đại tá Bright nhưng lưu ý rằng họ không thể làm được điều đó lúc Thuyền trường van Toch còn sống. Thuyền trưởng van Toch cứ khăng khăng nói là ông ta có trách nhiệm cá nhân với đám sa giông đó. Vì nhiều lý do khác nhau mà lâu nay không thể và cũng không nên làm trái ý muốn của ông già đó trong vấn đề này.

KURT VON FRISCH hỏi là có cách nào khác sử dụng đám sa giông để có thể sinh lợi hơn chuyện khai thác ngọc trai không. Cần phải quan tâm đến khả năng thiên phú của chúng, giống như loài hải ly, là biết xây dựng những đập chắn và công trình dưới nước. Biết đâu có thể sử dụng chúng để đào các hải cảng, xây cầu tàu và làm các công việc xây dựng khác dưới nước.

G.H. BONDY nói Hội đồng quản trị đang tích cực xem xét vấn đề này, một hướng khai thác hết sức có tiềm năng còn bỏ trống. Ông nói công ty hiện nay có hơn 6 triệu con sa giông; cứ cho là một cặp sa giông trong một năm có thể đẻ ra, chẳng hạn, 100 con nòng nọc thì vào thời điểm này năm sau công ty sẽ có thêm 3 triệu con sa giông nữa; trong mười năm tới thì số lượng sa giông sẽ tăng đến mức không biết cơ man nào mà kể. G.H. Bondy hỏi công ty định sẽ làm gì với số lượng sa giông quá sức đông đảo này trong khi ngay ở hiện tại, các trại nuôi sa giông đã quá dư thừa số lượng và, do thiếu nguồn thực phẩm từ thiên nhiên, đã phải cho sa giông ăn cả cùi dừa khô, khoai, bắp và những thứ tương tự.

K. VON FRISCH hỏi thịt sa giông có ăn được không.

J. GILBERT: Không, và bộ da của chúng cũng không dùng được vào việc gì cả.

Ô. BONENFANT hỏi Hội đồng quản trị hiện có những dự tính gì.

G.H. BONDY (đứng lên) : “Thưa quý vị, chúng tôi tổ chức đại hội bất thường này để công khai lưu ý quý vị về những viễn cảnh cực kỳ bất lợi của chúng ta, một tập đoàn mà - tôi mong quý vị cho phép tôi nhắc lại điều này - đã tự hào chia cổ tức từ 20 đến 23 phần trăm trong những năm qua, cũng như đã có nguồn quỹ dự phòng dồi dào cùng chi phí thấp. Chúng ta hiện nay đang đứng trước một bước ngoặt; phương cách kinh doanh đã chứng tỏ là thành công trong mấy năm qua thì bây giờ lại đang bế tắc; chúng ta không có lựa chọn nào khác là phải tìm phương cách mới”, (Vỗ tay nhiệt liệt) .

“Tôi thậm chí có thể nói rằng việc người bạn tuyệt vời của chúng ta, Thuyền trưởng J. van Toch, rời bỏ chúng ta ngay lúc này là một dấu hiệu định mệnh. Việc kinh doanh ngọc trai lãng mạn, tuyệt vời và - tôi xin nói thẳng luôn, có phần ngớ ngẩn của chúng ta khi luôn gắn liền với ông ấy. Tôi coi đây là chương kết của câu chuyện kinh doanh này; có thể nói nó có sức quyến rũ lạ lùng nhưng không còn phù hợp với bối cảnh hiện đại. Thưa quý vị, ngọc trai không thể nào là sản phẩm chủ lực của một tập đoàn lớn cả về quy mô lẫn tầm vóc được. Riêng với cá nhân tôi, vụ làm ăn ngọc trai này chỉ là một pertissement , một trò giải khuây”. (Hoang mang) . “Vâng, thưa quý vị; một pertissement nhưng mang lại lợi nhuận đáng kể cho quý vị và tôi. Hơn nữa, trong những ngày đầu công ty này mới thành lập, những con sa giông đó cũng có phần quyến rũ của cái mới mẻ, tôi có thể nói như vậy. Nhưng 300 triệu con sa giông thì không còn gì quyến rũ nữa. (Cười ầm lên) .

“Lúc nãy tôi đã nói về việc tìm đường hướng mới. Khi người bạn thân của tôi, Thuyền trưởng van Toch, còn sống thì không thể tiến hành việc kinh doanh này theo phương thức nào khác hơn cái mà tôi gọi là ‘phong cách Thuyền trưởng van Toch’”. (Tại sao?) . “Bởi vì, thưa quý vị, tôi quá sành điệu nên không muốn pha tạp nhiều phong cách lẫn lộn. Tôi có thể nói phong cách của Thuyền trưởng J. van Toch là phong cách của những tiểu thuyết phiêu lưu. Đó là phong cách của Jack London, Joseph Conrad và những người như họ. Hoài cổ, bí ẩn, thực dân, và đậm chất anh hùng. Tôi không phủ nhận là ông ấy đã khiến tôi say mê phong cách ấy; nhưng do ông ấy đã qua đời, chúng ta hoàn toàn không có quyền tiếp tục cuộc phiêu lưu và thiên anh hùng ca của tuổi niên thiếu ấy nữa. Trước mặt chúng ta không phải là một chương sách mới mà là một quan niệm mới, thưa quý vị, đó là một công việc đòi hỏi óc tưởng tượng mới mẻ và hoàn toàn khác lạ”. (Chuyện làm ăn mà ông nói cứ như tiểu thuyết!) . “Đúng, thưa quý vị, hoàn toàn đúng. Bản thân tôi xem kinh doanh như một nghệ thuật. Không có một chút chất nghệ thuật nhất định thì không thể nào nghĩ ra cái gì mới cả. Chúng ta cần phải là những thi sĩ nếu chúng ta muốn cho thế giới này tiếp tục xoay vần”. (Vỗ tay) .

G.H. BONDY cúi chào. “Thưa quý vị, tôi rất tiếc phải kết thúc câu chuyện cũ, có thể gọi là chuyện của thời đại van Toch; thời đại mà chúng ta đã vắt kiệt cái chất khờ dại ham phiêu lưu của chính mình. Giờ đã tới lúc chấm dứt câu chuyện cổ tích của ngọc trai và san hô. Chàng Sinbad đã chết, thưa quý vị. Vấn đề là: sẽ làm gì tiếp theo?”. (Đó là điều chúng tôi định hỏi đó!) . “Đây, thưa quý vị: xin vui lòng lấy bút ra mà ghi chép. Sáu triệu. Xong chưa? Hãy nhân cho 50 đi. Như vậy là 300 triệu, đúng không? Nhân cho 50 lần nữa. Có phải là 15 tỉ không? Vậy thì thưa quý vị, xin vui lòng cho tôi biết, trong ba năm nữa, chúng ta sẽ làm gì với 15 tỉ con sa giông. Chúng ta sẽ sử dụng chúng ra sao đây, chúng ta lấy gì mà cho chúng ăn, và các chuyện tương tự”. (Cho chúng chết quách đi!) . “Được, nhưng quý vị không thấy như vậy là uổng phí sao? Quý vị không thấy là mỗi con sa giông tương ứng với một giá trị kinh tế, với một giá trị sức lao động đang chờ được khai thác sao? Thưa quý vị, với 6 triệu con sa giông chúng ta vẫn có thể xoay xở tàm tạm. Với 300 triệu thì sẽ khó khăn hơn nhiều. Nhưng với 15 tỉ con thì xin thưa quý vị, chúng sẽ chôn vùi chúng ta. Lũ sa giông sẽ ăn sạch công ty này. Vậy đó”. (Thế thì ông phải chịu trách nhiệm! Chính ông đã xướng ra toàn bộ chuyên làm ăn này!) .

G.H. BONDY ngẩng cao đầu. “Tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn, thưa quý vị. Bất kỳ ai muốn giải quyết ngay lập tức cổ phần của mình trong Pacific Export Association, tôi sẵn sàng mua lại hết…” (Bao nhiêu?) “Đúng mệnh giá”. (Phấn khởi! Chủ tịch tuyên bố tạm nghỉ mười phút) .

Sau giờ giải lao, H. BRINKELAER phát biểu, ông tỏ ý vui mừng với tốc độ sinh sản nhanh của sa giông, và tài sản của công ty cũng tăng nhanh theo tốc độ đó. Nhưng, thưa đại hội, nếu cứ nuôi những con vật này mà không có mục đích gì cụ thể thì đúng là phi lý; nếu công ty không tìm ra công việc thích hợp cho chúng thì, vì lợi ích của các cổ đông, tôi đề nghị đem bán những con sa giông như bán một lực lượng lao động cho bất kỳ ai đang cần tiến hành những công trình trên hay dưới mặt biển. (Vỗ tay.) Chi phí nuôi ăn một con sa giông chỉ có mấy xu một ngày; nếu một cặp sa giông mà bán được, ví dụ đi, 100 franc, và giả sử một con sa giông có sức làm việc không hơn một năm, thì đây rõ ràng là một khoản đầu tư dễ thu hồi vốn cho bất kỳ nhà đầu tư nào. (Nhiều dấu hiệu tán thành) .

J. GILBERT lưu ý rằng tuổi đời của một con sa giông không chỉ có một năm mà dài hơn nhiều; nhưng thực tế chúng sống lâu chừng nào thì chúng ta vẫn chưa có đủ kinh nghiệm để khẳng định.

H. BRINKELAER điều chỉnh lại đề xuất của ông; giá một cặp sa giông nên ấn định ở mức 300 franc, chưa tính phí vận chuyển.

S. WEISSBERGER hỏi thực tế thì lũ sa giông này làm được những công việc gì.

GIÁM ĐỐC VOLAVKA: “Với bản năng tự nhiên và khả năng học hỏi kỹ thuật phi thường, những con sa giông đặc biệt thích hợp với công việc xây dựng đê, đập, bờ kè, nạo vét hải cảng và kênh rạch, dọn sạch những vùng nước bị bùn cát bồi lắng, và khai thông các luồng lạch; chúng có thể gia cố và duy tu các bờ biển; mở rộng phần đất liền, và các việc tương tự. Toàn những công việc đòi hỏi sức lao động tập thể của hàng trăm, hàng ngàn nhân công; những công trình đại quy mô cỡ này thì ngay cả công nghệ hiện đại cũng không làm gì được nếu không có sẵn một lực lượng lao động giá cực rẻ”. (Hoàn toàn đúng! Đồng ý!) .

TS. Hubka phản đối vì những con sa giông được bán đi có thể sẽ đẻ con cho chủ nhân mới, như vậy công ty có khả năng sẽ mất độc quyền về những con vật này. Ông đề nghị chỉ CHO THUÊ lực lượng lao động sa giông đã qua huấn luyện và đạt tiêu chuẩn cho các nhà thầu thi công những công trình dưới mặt biển, với điều kiện là trứng hay nòng nọc mà chúng đẻ ra vẫn là tài sản của công ty PEA.

GIÁM ĐỐC VOLAVKA lưu ý là không thể nào giám sát hàng triệu hay thậm chí hàng tỉ con sa giông dưới nước, chứ đừng nói đến những con nòng nọc của chúng; nhiều con sa giông đã bị bắt trộm để bán cho các sở thú và gánh xiếc.

ĐẠI TÁ D. W. BRIGHT: Chỉ nên bán hoặc cho thuê những con đực mà thôi để chúng không thể sinh sản bên ngoài những trại nuôi và lò ấp trứng sa giông của công ty.

GIÁM ĐỐC VOLAVKA: Chúng ta không có tư cách để khẳng định các trại nuôi sa giông là tài sản độc quyền của công ty. Không thể nào sở hữu hoặc thuê nhượng quyền đáy biển. Về mặt pháp lý, ai có quyền sở hữu những con sa giông sống trong vùng biển thuộc chủ quyền của Nữ hoàng Hà Lan, chẳng hạn vậy, lại là một vấn đề không rõ ràng, có thể gây ra nhiều tranh chấp. (Hoang mang). Trong hầu hết các trường hợp, chúng ta thậm chí còn không bảo đảm được quyền khai thác, đánh bắt nữa kìa; thực tế là, thưa quý vị, các trại nuôi sa giông lâu nay chúng ta thiết lập trên các đảo ở Thái Bình Dương hoàn toàn không có tư cách pháp nhân. (Sự bất an tăng lên) .

Trả lời vấn đề do Đại tá Bright đặt ra, J. GILBERT nói rằng kinh nghiệm xưa nay cho thấy những con đực bị cách ly luôn nhanh chóng mất đi sự nhanh nhẹn và giá trị lao động; chúng đâm ra lười biếng, thờ ở và thường chết vì cô đơn. VON FRISCH hỏi liệu có thể thiến hay triệt sản những con sa giông trước khi đem bán được không.

J. GILBERT: Như vậy sẽ rất tốn kém; sau khi bán lũ sa giông đi thì hoàn toàn không có cách nào ngăn chặn để chúng không sinh đẻ thêm.

S. WEISSBERGER, với tư cách hội viên Hội Bảo vệ Động vật, yêu cầu việc bán sa giông trong tương lai cần phải tiến hành một cách nhân đạo và theo một phương thức không xúc phạm đến lòng thương cảm của con người.

J. GILBERT cám ơn ông này vì đã nêu ra vấn đề đó; được biết việc bắt và vận chuyển sa giông sẽ được đảm trách bởi những nhân viên có chuyên môn và sẽ được giám sát thích đáng. Tất nhiên không thể nào biết chắc là các nhà thầu mua sa giông sẽ đối xử với chúng ra sao.

S. WEISSBERGER nói ông hài lòng với sự bảo đảm của Phó chủ tịch Gilbert, (vỗ tay).

G.H. BONDY: “Thưa quý vị, chúng ta phải loại bỏ ngay cái ý tưởng là trong tương lai chúng ta vẫn sẽ độc quyền nắm trong tay những con sa giông. Rất tiếc, theo các quy định hiện hành, chúng ta còn không được cấp bằng sáng chế ra chúng nữa kia”. (Cười ầm). “Với lợi thế hàng đầu về sa giông, chúng ta có khả năng duy trì việc kinh doanh này và phải tự bảo vệ quyền lợi bằng nhiều phương cách, tất nhiên rồi, chính vì thế chúng ta bắt buộc phải đẩy mạnh việc kinh doanh theo hướng mới và theo một quy mô lớn hơn bao giờ hết”. (Đồng ý!). “Cho nên, thưa quý vị, có rất nhiều việc cần được thông qua sơ bộ. Hội đồng quản trị đề nghị lập ra một tập đoàn mới quản lý theo ngành dọc, đó là Tập đoàn Sa giông, tên quốc tế là Salamander Syndicate. Ngoài chúng ta ra, thành viên của Tập đoàn Salamander này sẽ gồm nhiều công ty và tập đoàn tài chính lớn mạnh; chẳng hạn như có một công ty sẽ chuyên sản xuất những công cụ kim loại đặc biệt, có bảo hộ quyền sáng chế, dành riêng cho loài sa giông…”. (Công ty MEAS của ông đấy à?) . “Vâng, đúng vậy, tôi đang nói đến MEAS. Ngoài ra còn có một tập đoàn hóa chất và thực phẩm độc quyền chuyên sản xuất loại thức ăn rẻ tiền, có bảo hộ quyền sáng chế, dành riêng cho sa giông; rồi có một tập đoàn vận tải với kinh nghiệm dồi dào sẽ đăng ký bảo hộ thiết kế cho những bồn nước hợp vệ sinh chuyên dùng cho việc chuyển vận sa giông; một nhóm công ty bảo hiểm sẽ lo việc bồi thường trong trường hợp những con sa giông bị chết hay thương tật trong quá trình vận chuyển hay ở nơi lao động; và còn nhiều đối tác khác trong các ngành công nghiệp, xuất khẩu và tài chính cũng quan tâm nhưng vì nhiều lý do quan trọng mà chúng tôi không tiện nêu tên ngay lúc này. Thưa quý vị, nếu thấy cần thiết thì tôi chỉ xin nói rằng tập đoàn này, ngay khi thành lập, sẽ có ngay trong tay số vốn là 400 triệu bảng Anh”. (Phấn khởi) . “Trong cặp hồ sơ của tôi đây, thưa quý vị, chứa đầy hợp đồng và tất cả chỉ cần có một chữ ký đồng ý là một trong những tổ chức kinh tế lớn nhất hiện nay sẽ được thành lập. Hội đồng quản trị chỉ yêu cầu quý vị ủy thác toàn quyền cho chúng tôi hoàn tất việc thành lập một doanh nghiệp khổng lồ mà nhiệm vụ của nó là nuôi và khai thác lũ súc vật này một cách tối ưu”. (Vỗ tay và có tiếng phản đối) .

“Thưa quý vị, xin hãy nhận thức rõ những lợi thế mà sự hợp tác này sẽ mang lại. Tập đoàn Salamander không chỉ cung cấp sa giông mà còn cả những thiết bị và thực phẩm cho loài vật này như ngô, tinh bột, mỡ bò và đường cho hàng tỉ con sa giông mà chúng ta đảm trách; rồi còn các dịch vụ vận chuyển, bảo hiểm, kiểm tra thú y, vân vân; tất cả đều với giá thấp nhất để bảo đảm cho chúng ta nếu không thế độc quyền thì ít nhất trong tương lai cũng có lợi thế áp đảo so với bất kỳ đối thủ cạnh tranh nào muốn kinh doanh sa giông. Ai muốn thì cứ thử sức, thưa quý vị, họ sẽ không cạnh tranh lâu dài với chúng ta được đâu”. (Hoan hô!) . “Nhưng chưa hết. Tập đoàn Salamander sẽ cung cấp mọi vật liệu xây dựng cho các công trình dưới nước do lũ súc vật này thi công; vì lý do đó chúng ta còn có được sự hậu thuẫn của ngành công nghiệp nặng, các nhà máy xi-măng, các xí nghiệp khai thác gỗ và đá…”, (vẫn chưa biết chúng làm ăn thế nào mà!) . “Thưa quý vị, ngay lúc này đây, 12.000 con đang làm việc ở cảng Sài Gòn, chúng xây dựng các cầu tàu, vũng đậu và bờ kè mới”. (Chuyện này sao ông không nói trước!) . “Đúng vậy. Đây là thí nghiệm đại quy mô đầu tiên của chúng tôi. Thí nghiệm này đã hoàn toàn thành công rực rỡ, thưa quý vị. Đến hôm nay thì không còn nghi ngờ gì nữa về tương lai của lũ súc vật này”. (Vỗ tay nhiệt liệt) .

“Và không chỉ có thế, thưa quý vị. Phạm vi hoạt động của Tập đoàn Salamander sẽ còn rộng lớn hơn nữa. Tập đoàn Salamander sẽ tìm việc làm cho hàng triệu con sa giông trên khắp thế giới. Nó sẽ cung cấp các đồ án và kế hoạch để chinh phục đại dương. Nó sẽ quảng bá những ý tưởng về Utopia - xã hội lý tưởng và những giấc mơ vĩ đại. Nó sẽ triển khai nhiều dự án xây dựng những vùng duyên hải và những tuyến hàng hải mới, những đường đê nối liền các lục địa, những chuỗi đảo nhân tạo cho những chuyến bay vượt biển, những vùng đất mới được bồi đắp lên ngay giữa đại dương. Tương lai của loài người là ở đó. Thưa quý vị, biển bao phủ 4/5 bề mặt Trái Đất; chắc chắn như vậy là quá nhiều; phải điều chỉnh lại phân bố bề mặt Trái Đất, bản đồ các đại dương và các châu lục. Chúng ta sẽ cung cấp lực lượng lao công biển cả, thưa quý vị. Việc đó sẽ không còn làm theo phong cách Thuyền trưởng van Toch nữa, chúng ta sẽ thay những câu chuyện phiêu lưu về ngọc trai và kho báu bằng một bản anh hùng ca lao động. Chúng ta hoặc là dừng lại, hoặc là sáng tạo; nhưng nếu chúng ta không suy nghĩ ở tầm đại dương và lục địa thì chúng ta không thể nào phát triển tương xứng với tiềm năng của mình. Ở đây, cho tôi nhắc lại là lúc nãy đã có ai nói đến mức giá bán của một cặp sa giông. Tôi mong muốn chúng ta nên nghĩ ở tầm hàng tỉ con sa giông, nghĩ đến hàng triệu, hàng triệu đơn vị lao công, nghĩ đến việc làm thay đổi vỏ Trái Đất, nghĩ đến một Tân Sáng Thế Ký, và một kỷ nguyên địa chất mới. Chúng ta hôm nay đã có thể nói đến một lục địa Atlantis mới, đến việc mở rộng để các lục địa cũ vươn xa, vươn xa hơn ra đại dương, đến một Tân Thế Giới do con người tự mình tạo lập. Xin quý vị bỏ quá cho nếu những điều tôi nói nghe cứ như sắp có Thiên Đường hạ giới. Đúng vậy, chúng ta thực tế đang đi tới Thiên Đường. Chúng ta đang tiến vào đó rồi, thưa quý vị. Tất cả những gì cần làm là chúng ta phải hình dung ra tương lai của loài sa giông về phương diện kỹ thuật…”. (Và kinh tế nữa!) .

“Đúng. Đặc biệt là về phương diện kinh tế. Thưa quý vị, công ty của chúng ta quá nhỏ nên một mình nó không thể khai thác hết cả tỉ con sa giông; chúng ta không có đủ khả năng tài chính… và cả sức mạnh chính trị nữa. Nếu phải vẽ lại bản đồ các đại dương và châu lục thì các Đại Cường Quốc sẽ phải quan tâm đến công cuộc này, thưa quý vị. Nhưng việc đó sẽ bàn tính sau; chúng tôi chưa cần phải nêu tên những quan chức cấp cao hiện đã có quan điếm rất tích cực đối với việc thành lập Tập đoàn Salamander. Thưa quý vị, tôi khẩn thiết xin quý vị đừng lạc mất phương hướng trước viễn cảnh bao la của kế hoạch kinh doanh mà quý vị được triệu tập tới đây để biểu quyết”. (Một tràng pháo tay nhiệt liệt kéo dài. Tuyệt vời! Hoan hô!) .

Tuy nhiên, trước khi tiến hành biểu quyết việc thành lập Tập đoàn Salamander thì Pacific Export Association phải hứa năm nay sẽ chi trả mức cổ tức ít nhất là mười phần trăm từ các quỹ dự trữ. Kết quả biểu quyết sau đó là 87% chấp thuận và 13% phản đối. Như vậy đề xuất của Hội đồng quản trị được thông qua. Salamander Syndicate chính thức ra đời. Mọi người chúc mừng G.H. Bondy.

- Một bài diễn thuyết tuyệt hay, ông Bondy, - lão Sigi Weissberger khen. - Rất hay. Mà này, ông Bondy, làm sao ông nghĩ ra được ý tưởng đó?

- Làm sao à? - G.H. Bondy trả lời dè dặt. - Thực tình mà nói thì tất cả là nhờ anh chàng van Toch cả, thưa ông Weissberger. Anh ta đặt hết niềm tin vào lũ sa giông này… Anh chàng tội nghiệp ấy sẽ nói gì nếu như chúng ta để cho đám tapa-cưng của anh ta chết toi hết?

- Tapa-cưng là cái gì?

- Là cái đám sa giông ôn dịch đó mà. Bây giờ ít ra chúng cũng được đối xử đàng hoàng vì chúng còn có giá. Và cái đám súc vật ôn dịch này thì, thưa ông Weissberger, chúng chẳng thích hợp cho bất cứ thứ gì khác, ngoài cái Thiên Đường mà ta sẽ bắt chúng xây dựng.

- Tôi không hiểu ý ông lắm, - ông Weissberger nói. - Ông có thực sự nhìn thấy một con sa giông bao giờ chưa, ông Bondy? Tôi không biết trông chúng ra làm sao? Ông mô tả cho tôi biết được không?

- Xin chịu thôi, thưa ông Weissberger. Làm sao tôi biết được con sa giông nó như thế nào! Biết thì ích lợi gì chứ? Ông nghĩ tôi có thời giờ quan tâm xem cái thứ đó trông ra làm sao ư? Dàn xếp xong cái vụ Salamander Syndicate này là mừng lắm rồi.

(Phụ Lục)

VỀ ĐỜI SỐNG SINH DỤC CỦA LOÀI SA GIÔNG

Một trong những hoạt động ưa thích nhất của con người là tưởng tượng xem thế giới này sẽ ra sao trong tương lai xa xăm, kỳ tích công nghệ nào con người sẽ đạt đến, vấn đề xã hội nào sẽ được giải quyết, khoa học và tổ chức xã hội sẽ tiến bộ tới đâu, vân vân và vân vân. Song những điều giả tưởng ấy cũng không bỏ qua mối quan tâm rất mãnh liệt với vấn đề là, trong cái thế giới được cải thiện, phát triển, hay chí ít là có nền kỹ nghệ tiến bộ hơn ấy, điều gì sẽ xảy đến với những nền tảng lâu đời nhất nhưng vẫn mãi phổ quát như đời sống sinh dục, sinh sản, tình yêu, hôn nhân, gia đình, các địa vị phụ nữ, và tương tự. Về phương diện này, đề nghị độc giả tham khảo những tác phẩm liên quan của Paul Adam, H. G. Wells, Aldous Huxley và của nhiều tác giả khác.

Noi theo các ví dụ nêu trên, khi đã bắt đầu dự đoán về tương lai của thế giới này thì tác giả tự thấy có bổn phận phải đề cập tới vấn đề hành vi sinh dục của loài sa giông sẽ đi về đâu. Tác giả sẽ trình bày luôn ở đây để về sau không cần phải nhắc lại nữa. Nói một cách khái quát, đời sống sinh dục của loài Andrias Scheuchzeri tất nhiên không khác biệt với các loài lưỡng cư có đuôi khác; không hề có hành vi giao cấu theo nghĩa chính xác của từ đó; con cái đẻ trứng theo nhiều đợt; trứng đã thụ tinh sẽ phát triển trong nước thành nòng nọc, và cứ thế; những thông tin ấy độc giả có thể tìm đọc trong mọi cuốn sách khoa học tự nhiên. Do đó trong vấn đề này, chúng tôi ở đây chỉ xét đến một vài điểm dị biệt đã quan sát được ở loài Andrias Scheuchzeri .

Theo ghi nhận của H. Bolte, đầu tháng Tư là thời điểm con đực kết hợp với con cái; trong suốt mùa giao phối; một con đực thường chỉ cặp với đúng một con cái, và suốt nhiều ngày sẽ không rời con cái quá một mét. Trong thời gian này, con đực không hề ăn gì trong khi con cái lại biểu lộ đáng kể tính phàm ăn. Con đực sẽ đuổi theo con cái ở dưới nước và cố áp sát đầu nó vào đầu con cái. Nếu thành công, con đực sẽ tì miệng vào đầu mõm con cái một chút, có lẽ để ngăn không cho con cái thoát đi, và rồi con đực sẽ bất động. Chỉ chạm nhau bằng đầu như vậy, với hai thân hình tạo thành góc chừng 30 độ, cả hai con vật sẽ lơ lửng bất động trong nước bên nhau. Thỉnh thoảng con đực lại bất chợt quẫy mạnh tới mức thân hình nó va đập vào thân hình con cái; sau đó nó lại cứng đờ trờ lại, tứ chi giang rộng, chỉ chạm miệng vào đầu mõm của bạn tình đã chọn, còn con cái trong lúc đó vẫn thản nhiên ăn bất cứ thứ gì trôi dạt tới. Nụ hôn này, nếu như tôi có thể gọi như thế, kéo dài suốt nhiều ngày; có lúc con cái lao vọt đi tìm thức ăn, con đực liền đuổi theo, rõ ràng là rất bực dọc và thậm chí là tức giận. Sau cùng con cái không tỏ ra kháng cự thêm, không tìm cách chạy thoát con đực nữa, và cặp sa giông lơ lửng bất động trong nước như hai súc gỗ đen buộc vào nhau. Rồi thân hình con đực bắt đầu co giật và rung chuyển liên tục trong lúc nó tuôn một lượng lớn tinh dịch hơi lầy nhầy ra vùng nước biển chung quanh. Ngay sau đó, con đực bỏ mặc con cái và bò đi giữa những tảng đá trong tình trạng kiệt quệ hoàn toàn; trong giai đoạn này ta có thể cắt đứt cái đuôi hay một chi của con đực mà nó không hề có phản ứng tự vệ nào.

Trong lúc đó con cái vẫn giữ nguyên tư thế bất động, nó cứng đờ một hồi rồi bắt đầu uốn lưng thật mạnh và tống ra từ lỗ huyệt một loạt bọc trứng phù trong một lớp màng nhầy; trong quá trình này nó liên tục sử dụng hai chi sau để trợ lực như ta thường thấy ở loài cóc. Bọc nhầy này chứa từ 40 đến 50 trứng và bám lủng lẳng vào thân con cái. Sau đó con cái sẽ bơi đi, mang theo bọc trứng này đến một nơi an toàn và gắn bọc trứng vào các lớp rong, tảo biển hay thậm chí trên các tảng đá. Sau mười ngày, con cái đẻ lứa thứ hai từ 20 đến 30 trứng mà không hề có tiếp xúc nào với con đực; những trứng này rõ ràng đã được thụ tinh từ trong lỗ huyệt. Thông thường sau bảy hoặc tám ngày nữa, con cái lạt đẻ lứa thứ ba và lứa thứ tư, mỗi lứa từ 15 đến 20 trứng, hầu hết trứng đều được thụ tinh; và từ một đến ba tuần lễ sau số trứng này sẽ nở ra những con nòng nọc nhỏ có khe mang giống hình những ngón tay. Trong vòng một năm những con nòng nọc này sẽ phát triển thành những con sa giông trưởng thành và đến lượt chúng lại tiếp tục quá trình sinh sản.

Trong khi đó, cô Blanche Kistemaeckers lại tiến hành quan sát hai con cái và một con đực Andrias Scheuchzeri trong điều kiện nuôi nhốt. Vào mùa sinh sản, con đực chỉ kết hợp với một con cái duy nhất và đuổi bắt theo kiểu khá hung bạo; khi con cái cố trốn tránh thì con đực dùng đuôi quất bạn tình nhiều cái rất mạnh. Con đực rất bất bình với việc con cái cố tìm kiếm thức ăn, và nó ra sức buộc con cái tránh xa bất cứ thứ gì ăn được; rõ ràng con đực chỉ muốn giữ con cái cho riêng nó và muốn bạn tình khiếp sợ nó hoàn toàn. Khi đã phóng ra tính dịch, nó lại xông tới con cái thứ hai và toan ăn thịt con này, nên buộc phải đưa con đực ra khỏi bể nước và nuôi cách ly ở nơi khác. Tuy vậy, con cái thứ hai này cũng đẻ được trứng đã thụ tinh, tổng cộng tới 63 trứng. Tuy nhiên, cô Kistemaeckers nhận thấy rằng miệng lỗ huyệt của cả ba con vật đều sưng phồng đáng kể. Do đó, cô Kistemaeckers viết rằng, sự thụ tinh cho trứng của loài Andrias Scheuchzeri dường như không xảy ra bằng cách giao cấu, hay thậm chí bằng tiếp xúc cơ thể, mà bằng điều kiện mà cô gọi là môi trường sinh dục. Thực tế đã cho thấy là không cần ngay cả sự kết hợp tạm thời thì hiện tượng trứng được thụ tinh vẫn xảy ra. Điều đó đã khiến nhà nghiên cứu trẻ tuổi tiến hành thí nghiệm thêm. Cô cách ly con đực khỏi hai con cái; khi đến thời điểm thích hợp, cô nặn lấy tinh dịch từ con đực và cho vào bể nước của hai con cái. Kết quả là hai con cái cũng đẻ ra trứng đã thụ tinh. Trong một thí nghiệm khác, cô Kistemaeckers lọc bỏ hết tinh trùng trong tinh dịch con đực (chỉ còn lại một chất lỏng trong có tính axít) và cho chất dịch này vào bể nước của hai con cái; kết quả là hai con cái cũng bắt đầu đẻ trứng, mỗi con khoảng 50 trứng, hầu hết đều là trứng đã thụ tinh và sẽ nở ra những con nòng nọc bình thường. Chính điều này đã đưa cô Klstemaeckers đến khái niệm quan trọng về môi trường sinh dục, đây rõ ràng là một tiến trình chuyển tiếp giữa sinh sản đơn tính và sinh sản hữu tính. Trứng được thụ tinh chỉ bằng cách thay đổi môi trường hóa học (do một chất có tính axít mà cho tới nay vẫn chưa thể tạo ra bằng các phương pháp nhân tạo), sự thay đổi này, bằng cách nào đó, có liên quan đến chức năng sinh dục của con đực mặc dù bản thân chức năng này thực tế là không cần thiết; việc con đực có kết hợp với con cái rõ ràng chỉ là dấu tích còn sót lại của một giai đoạn tiến hóa sơ khai hơn, khi loài Andrias còn sinh sản theo cùng phương cách như các loài kỳ giông khác.

Cô Kistemaeckers đã nhận định chí lý rằng hình thức kết hợp này thực tế chỉ là một kiểu ảo tưởng có tính di truyền về quan hệ cha con; trong khi thực tế thì con đực không phải là cha của những con nòng nọc mà chỉ là nguồn cung cấp một tác nhân hóa học hoàn toàn khách quan để tạo ra môi trường sinh dục và chính môi trường này mới là phương tiện thụ tinh đích thực cho trứng. Nếu chúng ta có trong bể nước một trăm cặp Andrias Scheuchzeri kết hợp nhau, thật khó mà không cho rằng một trăm hành vi kết hợp riêng lẻ đang xảy ra; nhưng thực tế chỉ có một hành vi duy nhất; và đó là tiến trình sinh dục hóa tập thể cho môi trường hiện có; hay nói chính xác hơn, đó là tiến trình axít hóa vùng nước mà số trứng đã đến kỳ hạn của loài Andrias sẽ tự động phản ứng bằng cách phát triển thành nòng nọc. Nếu có thể tạo ra được tác nhân axít hóa chưa biết tới này bằng phương pháp nhân tạo thì sẽ không cần đến những con đực nữa. Như vậy đời sống sinh dục của con Andrias đực thực sự chỉ là một Đại Ảo Tưởng; những cảm xúc dục tính mạnh mẽ, việc lựa chọn bạn tình và hành vi tình dục bạo ngược, sự chung thủy tạm thời; những biểu hiện khoái cảm thô thiển và vụng về, hết thảy đều là những hành vi gần như có tính tượng trưng, lỗi thời và không cần thiết; để phụ họa, hay có thể nói là tô điểm, cho vai trò khách quan của con đực là tạo ra môi trường sinh dục cho trứng thụ tinh. Sự dửng dưng lạ lùng của con cái khi chấp nhận những hành vi tỏ tình cá nhân, điên rồ và vô nghĩa của con đực là điều minh chứng rằng, theo bản năng, con cái cảm thấy hành vi đó chỉ là một nghi thức hay một bước dẫn nhập cho cuộc giao phối thật sự khi con cái kết hợp với môi trường thụ tinh mà thôi; chúng ta có thể nói rằng giữa con đực và con cái của loài Andrias thỉ con cái có ý thức rõ hơn về thực trạng này và có phản ứng một cách thực tế chứ không hề có chút ảo tưởng tình dục nào.

(Những thí nghiệm của cô Kistemaeckers được bổ sung bằng các nghiên cứu khá lý thú của ông Abbé Bontempelli uyên bác. Ông phơi khô tinh dịch của Andrias và nghiền thành bột rồi cho chất bột này vào bể nước của những con cái; sau đó những con cái cũng bắt đầu đẻ trứng đã thụ tinh. Kết quả tương tự cũng thu được khi ông phơi khô và nghiền thành bột cơ quan sinh dục đực của Andrias hoặc khi ông chiết xuất bằng chất cồn hoặc bằng cách đun sôi và đổ chất chiết xuất này vào bể nước của những con cái. Kết quả cũng không thay đổi khi ông lặp lại thí nghiệm này với chất chiết xuất từ tuyến yên hay thậm chí là với chất tiết ra từ biểu bì của con Andrias đực vào mùa động dục. Trong các trường hợp kể sau, những con cái không phản ứng ngay lập tức; phải mất một lúc lâu chúng mới ngừng kiếm thức ăn và đâm ra bất động, thậm chí cứng đờ trong nước, và vài giờ sau chúng bắt đầu tống ra trứng trong những bọc nhầy, mỗi trứng to bằng một hạt đậu ngự).

Đã trình bày vấn đề này thì hẳn cũng phải lưu ý đến một nghi thức kỳ lạ gọi là Salamander Dance tức điệu múa sa giông. (Ở đây chúng tôi không đề cập đến điệu múa đã thành thời thượng trong mấy năm qua, đặc biệt là trong giới thượng lưu, mà Giám mục Hiram đã tuyên bố là “điệu múa trụy lạc nhất mà ông từng nghe nói đến”). Thực tế vào những đêm trăng rằm (ngoại trừ mùa sinh sản), những con Andrias và chỉ có những con đực sẽ đi lên bờ; chúng ngồi thành vòng tròn và phần thân trên bắt đầu những động tác xoay người, uốn éo kỳ lạ. Trong những trường hợp khác, đây là động tác đặc trưng của những con sa giông khổng lồ; nhưng trong “điệu múa” nói trên cơ thể con vật lại buông thả theo những động tác này một cách man dại, cuồng nhiệt đến kiệt sức, giống như điệu múa của các thầy tu một giáo phái đạo Hồi. Một số học giả xem những động tác giậm chân và uốn éo điên loạn này nhữ biểu hiện sùng bái mặt trăng, tức là một hình thức nghi lễ có tính tôn giáo; mặt khác cũng có học giả xem điệu múa này thực chất chỉ mang tính gợi dục, và họ cũng lý giải rằng đó là một hành vi sinh dục đặc biệt như đã đề cập ở trên.

Chúng tôi đã nói rằng với loài Andrias Scheuchzeri , tác nhân thụ tinh đích thực là môi trường sinh dục - mối liên kết chung và vô tính giữa những cá thể đực và cái. Chúng tôi cũng đã nói rằng những con cái chấp nhận quan hệ sinh dục vô tính này một cách thực tế và bình thường hơn hẳn những con đực - có lẽ do sự phù phiếm và tham lam của bản năng, con đực luôn cố duy trì ít nhất cũng là một ảo tưởng về chiến thắng sinh dục, và vì thế chúng thể hiện mọi hành vi tấn công tình cảm và chiếm hữu bạn tình. Đây là một trong những ảo tưởng sinh dục lớn nhất, thú vị thay, lại được điều chỉnh bằng những nghi thức khoa trương của con đực mà thực tế chỉ là một khát vọng của bản năng để từng con củng cố cảm giác mình là Con Đực Chung. Điệu múa tập thể này được cho là có chức năng giúp con đực vượt qua cái ảo tưởng vô căn cứ có tính truyền thừa nơi từng cá thể đực; toàn bộ cái bầy đàn đang oằn oại, ngây ngất, điên cuồng nhảy múa này chỉ là một Con Đực Chung, một Hôn Phu Chung, một tác nhân Đại Giao Cấu, chúng đang tiến hành điệu múa phối ngẫu quen thuộc và tham dự một hôn lễ khổng lồ - và kỳ lạ thay, những con cái luôn luôn bị loại trừ khỏi nghi thức này, và trong lúc đó chúng thờ ở nhấm nháp những con cá, con mực vừa đớp được.

Tác giả lừng danh Charles J. Powell, người đã đặt tên cho nghi thức của loài sa giông này là “Vũ Điệu Nguyên Lý Đực” , đã viết: “Và trong những nghi thức tập thể của những con đực này, liệu rằng chúng ta có nhận ra được nguồn gốc của chủ nghĩa tập thể tuyệt vời mà loài sa giông đã biểu hiện? Đừng quên rằng chúng ta chỉ thấy tính chất xã hội động vật đích thực ở nơi mà sự sinh tồn và phát triển giống nòi không dựa vào hành vi kết đôi tính dục; như với các loài ong, kiến và mối. Tính chất xã hội của đàn ong có thể mô tả bằng cụm từ chung: Tôi, Mẹ Ong Chúa . Trong trường hợp sa giông, tình chất xã hội của chúng phải diễn đạt hoàn toàn khác: Tôi, Nguyên Lý Đực . Chỉ có toàn thể những con đực đồng loạt hành động và đến thời điểm ấn định hầu như tự chúng tiết ra cái môi trường sinh dục thụ tinh thì chúng mới hợp thành Con Đực Vĩ Đại xâm nhập vào lòng những con cái và ban phát cho sự sống sinh sôi. Quan hệ cha con của chúng là quan hệ tập thể; vì thế toàn bộ bản chất của chúng đều mang tính tập thể và tự biểu hiện qua hoạt động tập thể. Trong khi đó, những con cái lại sống tương đối phân tán và cô độc từ khi đẻ trứng xong cho đến mùa xuân năm sau. Chỉ có những con đực mới tạo thành cộng đồng. Chỉ có những con đực mới thực hiện những công việc tập thể. Không hề có loài động vật nào mà con cái lại đóng một vai trò hết sức hạ đẳng như loài loài Andrias; chúng bị loại trừ khỏi các hoạt động cộng đồng và cũng không tỏ ra có chút gì quan tâm dến việc đó. Những con cái chỉ trở nên quan trọng vào thời điểm Nguyên Lý Đực thẩm thấu môi trường chung quanh chúng bằng một chất axít hầu như không cảm nhận được nhưng lại có sức thâm nhập mạnh mẽ tới mức nó vẫn có tác dụng ngay cả khi bị pha loãng vô tận bằng muôn đợt sóng triều biển cả. Cứ như thể chính Đại Đương đã trở thành một con đực đang thụ tinh cho hàng triệu mầm sống trên bờ biển”.

Charles J. Powell còn viết: “Bất kể thói kiêu hãnh phù phiếm của giống đực, Thiên Nhiên đã ban vai trò ưu thế sống còn cho giống cái, trong hầu hết các chủng loài. Con đực chỉ có tồn tại để tự hưởng thụ và do đó, để sát hại; chúng là những cá thể tự phụ và huênh hoang, trong khi chính con cái mới là đại diện cho giống loài với tất cả sức mạnh và giá trị trường tồn. Với loài Andrias (và có một phần nào đó tương tự với loài người), mối quan hệ này khác biệt đáng kể; nhờ tạo ra tính chất cộng đồng và sự liên kết của giống đực, những con đực lại hiển nhiên giành được ưu thế sinh học và có sức chi phối đến sự phát triển giống loài ở mức độ vượt xa những con cái. Có lẽ chính vì xu hướng coi trọng giống đực này trong quá trình phát triển mà loài Andrias tỏ ra rất tinh nhanh trong các vấn đề kỹ thuật, một thiên khiếu giống đực tiêu biểu. Loài Andrias là những kỹ thuật viên bẩm sinh và có khuynh hướng làm việc tập thể; những đặc tính giống đực thứ yếu này - tức là khả năng kỹ thuật và ý thức tổ chức - lại đang phát triển ngay trước mắt chúng ta, một cách nhanh chóng và hiệu quả tới mức khiến chúng ta tưởng rằng đó là một kỳ tích thiên tạo nếu như chúng ta không ý thức được rằng cái ý chí sinh dục đó là một nguồn động lực mạnh mẽ dường nào. Andrias Scheuchzeri chính là một animal faber, một loài động vật biết kiến tạo, và ta có thể hình dung là sẽ có ngày tài năng kỹ thuật của chúng sẽ vượt qua cả con người; tất cả chỉ vì một kết quả thực tế tự nhiên mà chúng đã thiết lập nên một cộng đồng toàn giống đực”.