← Quay lại trang sách

Chương 3 Biến cố ở eo biển Manche

Không bao lâu sau, chiếc tàu khách Oudenbourg của Bỉ từ Ostende vượt sóng tới Ramsgate. Lúc tới giữa eo biển Dover, viên chỉ huy đang phiên trực để ý thấy “có chuyện gì dưới nước” cách tàu nửa dặm về phía nam hải trình thường lệ. Anh ta không rõ có phải có ai sắp chết đuối ở đó hay không nên ra lệnh cho tàu đổi hướng tới vùng nước có xoáy động mạnh. Hai trăm hành khách ở hướng gió bên hông tàu được dịp chứng kiến một cảnh tượng kỳ lạ: rải rác trên mặt biển bắn lên những cột nước thẳng đứng, trong đó chốc chốc lại thấy cái gì giống như một thân thể màu đen bị ném tung lên; cả một vùng rộng khoảng ba trăm thước quanh chỗ này cứ sôi sục hỗn loạn và từ dưới đáy biển vẳng lên những tiếng lốp bốp, lùng bùng rất lớn. Cứ như dưới biển đang có một núi lửa nhỏ đang phun trào. Khi tàu Oudenbourg từ từ đến gần vị trí ấy thì một con sóng vĩ đại dựng lên ngay trước mũi tàu chừng năm thước và một âm thanh khủng khiếp chấn động như tiếng nổ. Cả con tàu bị tống lên khỏi mặt biển và để ập xuống boong là một cơn mưa nóng như nước sôi cùng với một thân thể đen đúa đang quằn quại, gào thét -một sa giông đã bị cháy bỏng và đầy thương tích. Thuyền trưởng ra lệnh cho tàu chạy lui để tránh đâm đầu vào ngay giữa địa ngục sôi sục ấy; nhưng vùng nước quanh tàu đã bắt đầu bùng nổ, ném tung lên mặt sóng những mảnh xác sa giông tan nát. Tàu Oudenbourg cuối cùng cũng thoát được và quay lại mở hết tốc lực chạy thẳng theo hướng bắc. Ngay lúc đó mặt biển rung rền một tiếng nổ kinh hoàng cách đuôi tàu chừng sáu trăm thước và một cột sóng và hơi nước khổng lồ bắn vọt lên, cao phải đến cả trăm thước. Tàu Oudenbourg vừa chạy thẳng tới Harwich vừa đánh điện đi khắp nơi cảnh báo: “Chú ý, chú ý, chú ý! Nhiều vụ nổ lớn dưới đáy biển. Rất nguy hiểm trên tuyến Ostende-Ramsgate. Không rõ nguyên nhân. Mọi tàu bè nên tránh xa!”. Suốt thời gian đó vùng biển ấy cứ bùng nổ và sôi sục, chẳng khác gì đang có tập trận hải quân; nhưng chẳng thấy gì được trong màn sóng và hơi nước phun trào. Từ cả hai bờ Dover của Anh và Calais của Pháp, các khu trục hạm và ngư lôi hạm phóng hết tốc lực ra khơi và nhiều phi đội không quân cùng bay tới vị trí có bất ổn; nhưng lúc tới nơi họ chỉ thấy một mặt biển vàng đục màu bùn nổi đầy xác cá và xác sa giông tan nát.

Lúc đầu mọi người cho rằng đã có nổ mìn gì đó ở eo biển Manche; nhưng một khi cả bờ Dover bên Anh và bờ Calais bên Pháp đều bị phong tỏa bởi hàng rào binh lính dày đặc và Thủ tướng Anh, lần thứ tư trong lịch sử thế giới, phải bỏ dở ngày nghỉ cuối tuần trong đêm thứ Bảy để hấp tấp trở về London, thì mọi người bắt đầu nghi ngờ rằng chuyện này ắt phải là một biến cố tầm vóc quốc tế cực kỳ nghiêm trọng. Báo chí đăng đầy những tin đồn bất an nhất, nhưng kỳ cục thay, lần này tất cả còn cách biệt quá xa so với sự thực; thậm chí không một ai biết rằng châu Âu, cùng với phần còn lại của thế giới, trong mấy ngày trời đã đứng bên bờ vực đại chiến. Phải đến vài năm sau, khi Sir Thomas Mulberry, một thành viên Nội các lúc đó, bị mất ghế sau cuộc tổng tuyển cử và xuất bản cuốn hồi ký chính trị của ông ta thì ai đọc nó mới biết được thực tế đã xảy ra chuyện gì; nhưng tới lúc đó thì chẳng ma nào còn quan tâm nữa.

Sự việc đại thể là như thế này: cả hai quốc gia đều khởi công xây dựng những pháo đài ngầm dưới nước cho lực lượng sa giông Newt của Anh và Triton của Pháp ở hai bên eo biển Manche để dự phòng, hễ có chiến tranh là sẽ phong tỏa hoàn toàn tuyến đường hàng hải này; đương nhiên bên nào cũng lên án đôi phương là khởi công trước nhưng thực tế là cả hai đều tiến hành xây dựng pháo đài cùng một lúc vì sợ nước láng giềng hữu nghị bên kia eo biển sẽ qua mặt. Tóm lại, dưới đáy eo biển này, đối diện nhau là hai pháo đài bê-tông đồ sộ trang bị đầy đại bác hạng nặng, ngư lôi lôi, bãi mìn dày đặc và nói chung là mọi khí tài hiện đại nhất mà sự tiến bộ của loài người đã sáng tạo được nhờ có kỹ thuật quân sự; bên phía Dover là một pháo đài kinh khủng dưới mặt biển với hai sư đoàn Newt Anh Quốc loại Heavy (đô con) cùng 30.000 sa giông công binh, bên phía Calais là ba sư đoàn Triton chiến đấu thượng hạng của Pháp.

Có vẻ như vào cái ngày nguy cấp ấy, một đội công binh Newt đã bắt gặp một đội Triton ở dưới đáy biển ngay chính giữa eo biển Manche và đã xảy ra chuyện hiểu lầm. Phía Paris một mực bảo rằng Triton của họ đang làm việc một cách hòa bình thì bị quân Newt của Anh tấn công vì muốn giành chỗ, rằng công binh Newt có vũ trang nghe đâu đã toan bắt cóc một số Triton Pháp và tất nhiên số này phải tự vệ. Ngay sau đó, các Newt quân sự của Anh bắt đầu tấn công về phía các Triton lao động của Pháp bằng lựu đạn và súng cối, cho nên Triton Pháp đành đáp trả tương ứng. Chẳng đặng đừng, Paris buộc phải yêu cầu chính phủ vương quốc Anh bồi thường toàn bộ thiệt hại, triệt thoái sa giông khỏi vùng đáy biển tranh chấp cũng như cam kết sẽ không lặp lại những biến cố tương tự trong tương lai.

Đáp lại, London gửi công hàm cho chính phủ cộng hòa Pháp, thông báo rằng lực lượng Triton quân sự hóa của Pháp đã xâm phạm phần nửa eo biển Manche thuộc lãnh thổ Anh và định đặt mìn ở đó. Công binh Newt đã xác định rõ là Triton Pháp đang ở trên khu vực chủ quyền Anh Quốc; liền sau đó Triton Pháp, với vũ khí hùng hậu, đã phản ứng bằng cách ném lựu đạn làm thiệt mạng vài công binh Newt. Thật đáng tiếc là London buộc phải yêu cầu chính phủ Cộng hòa Pháp bồi thường toàn bộ thiệt hại và cam kết không bao giờ để cho sa giông quân sự Pháp xâm nhập phần eo biển Manche của Anh Quốc nữa.

Sau đó Paris tuyên bố không thể tiếp tục chấp nhận việc quốc gia láng giềng xây dựng pháo đài ngầm dưới biển cận kề với vùng duyên hải Pháp. Liên quan đến những bất đồng dưới đáy eo biển Manche và tuân thủ Công ước London đã ký kết, Cộng hòa Pháp đề nghị đưa việc tranh chấp này ra Tòa án Quốc tế La Hay.

London tuyên bố không thể và không muốn phó thác vấn đề an ninh của vùng duyên hải quốc gia cho bên thứ ba quyết định. Là quốc gia bị tấn công, một lần nữa Anh Quốc quyết liệt đòi hỏi chính phủ Pháp xin lỗi, bồi thường mọi thiệt hại và phải có cam kết cho tương lai. Cùng lúc đó, hạm đội Địa Trung Hải của Anh đang đóng ở Malta phóng hết tốc lực về hướng tây; hạm đội Đại Tây Dương được lệnh tập trung về Portsmouth và Yarmouth.

Chính phủ Pháp bèn phát lệnh tổng động viên cả năm độ tuổi cho lực lượng hải quân.

Lúc này có vẻ như cả hai bên đều không nhượng bộ nữa; và rõ ràng mục đích cuối cùng là làm chủ toàn bộ eo biển Manche. Ngay lúc nguy cấp này, Sir Thomas Mulberry mới biết được một sự thật đáng kinh ngạc, thực tế không hề có sa giông lao động hay quân sự nào hoạt động trên phần eo biển của Anh (ít nhất là về mặt pháp lý), bởi London vẫn bị ràng buộc bởi lệnh cấm ban hành từ thời Sir Samuel Mandeville, không cho sử dụng bất kỳ sa giông nào làm việc trên các bờ biển hay dưới mặt nước thuộc Quần đảo Anh. Như vậy có nghĩa là London không thể chính thức xác nhận là Triton Pháp đã tấn công Newt Anh Quốc; toàn bộ vấn đề vì thế chỉ còn tập trung vào một điểm là sa giông Pháp, do cố tình hay nhầm lẫn, đã vượt qua vùng biển thuộc chủ quyền Anh Quốc. Paris hứa hẹn sẽ điều tra thêm, và bây giờ chính London lại đề nghị đưa vấn đề này ra Tòa án Quốc tế La Hay. Cuối cùng, Bộ Hải quân hai quốc gia cùng đạt được thỏa thuận là giữa các pháo đài ngầm dưới eo biển Manche sẽ thiết lập một vùng phi quân sự rộng năm kilômét, và bằng cách đó tình hữu nghị giữa Anh và Pháp đã được củng cố hơn bao giờ hết.