← Quay lại trang sách

Chương 6 X Cảnh Báo

Có lẽ do ảnh hưởng từ cuốn sách mang tính tiên tri của Meynert mà giới văn nghệ sĩ tiên phong ở mọi kinh đô văn hóa đã tung ra hàng loạt khẩu hiệu như SAU CHÚNG TA LÀ SA GIÔNG! TƯƠNG LAI THUỘC VỀ SA GIÔNG! SA GIÔNG CHÍNH LÀ CÁCH MẠNG VĂN HÓA! Giới này hô hào: cho dù không có nền nghệ thuật riêng, ít ra sa giông cũng không bị áp đặt những lý tưởng ngu xuẩn, những truyền thống khô cằn và mọi thứ mô phạm, chán chường, huênh hoang được dạy dỗ trong các nhà trường nhân danh thi ca, âm nhạc, kiến trúc, triết học, và nói chung là văn hóa - thứ khái niệm già cỗi, hom hem và khiến chúng ta buồn nôn. Quả thật may mắn là sa giông không trở thành nạn nhân của thứ nghệ thuật lỗi thời mà con người nôn ọe ra: chúng ta sẽ tạo ra nghệ thuật mới cho họ. Chúng ta, thế hệ trẻ, sẽ mở đường cho chủ nghĩa sa giông Salamandrism trên toàn thế giới: Chúng ta muốn trở thành những sa giông đầu tiên, chúng ta là những sa giông của ngày mai!

Thế là ra đời trào lưu thơ trẻ “Sala-thi ca”, rồi khuynh hướng nhạc “Tri-tông” (hay “nhạc ba âm sắc”) xuất hiện, và trường phái mỹ thuật “Trùng dương họa” nảy sinh với cảm hứng bắt nguồn từ thế giới tạo hình của các loài sứa, hải quỳ và san hô. Chưa hết, giới văn nghệ sĩ bỗng dưng phát hiện ra nơi những công trình xây dựng dưới biển của sa giông cả một nguồn cảm hứng về cái đẹp và giá trị thẩm mỹ mới. Chúng tôi đã chán ngấy tự nhiên rồi, họ gào lên, hãy cho chúng tôi những bờ biển bằng bê-tông trơn láng thay vì những vách đá lởm chởm cũ mèm! Chủ nghĩa lãng mạn đã chết; những lục địa của tương lai phải được viền bằng những đường thẳng sắc nét, và được tái tạo theo những mặt cắt khối chóp nón và hình thoi; phải thay quan niệm địa chất đã cũ bằng quan niệm hình học. Tóm lại, một lần nữa đã xuất hiện một điều gì đó mới mẻ mang tính vị lai, những chân trời tư tưởng mới và một tuyên ngôn văn hóa mới. Sau đó, những ai không dám dấn bước theo con đường tương lai của chủ nghĩa Salamandrism lại thấy mình bỏ lơ cơ hội nên đã cay đắng mà trả thù bằng cách hô hào những lý tương nhân văn tinh túy, kêu gọi quay lại với con người và thiên nhiên, cùng nhiều khẩu hiệu phản động khác. Một buổi hòa nhạc “Tri-tông” ở Vienna bị thính giả la ó tới mức phải ngưng trình diễn, triển lãm tranh Salon des Independents ở Paris bị một thủ phạm vô danh rạch nát một bức tranh vẽ theo trường phái “Trùng dương họa” mang tựa đề Capriccio en Bleu (Phóng túng màu xanh); như vậy rõ ràng chủ nghĩa Salamandrism đã có bước khởi đầu thắng lợi, và đà tiến của nó là không thể cản được.

Tất nhiên, không hề thiếu những tiếng nói chống lại chứng “cuồng giông” này. Phản ứng sâu sắc nhất theo khuynh hướng đó là một tập sách nhỏ bằng tiếng Anh, xuất bản với tựa đề A Warning from X (cảnh báo của X). Tập sách này được lưu hành rộng rãi nhưng tông tích tác giả không bao giờ được tiết lộ; dựa theo một nghĩa của chữ X trong tiếng Anh, tức “X” là viết tắt của “Christ” tức Ki-tô, nhiều người cho rằng đây là tác phẩm của một chức sắc cao cấp trong Giáo hội.

Trong chương đầu tiên, tác giả cố đưa ra những thống kê về sa giông, đồng thời lại cáo lỗi vì những số liệu không đáng tin cậy này: “Ngay lúc này tổng số sa giông ước tính là dao động trong khoảng từ gấp bảy đến gấp hai mươi lần tổng số con người trên thế giới, chúng ta cũng không biết chính xác số lượng công xưởng, giếng dầu, trang trại rong biển, cơ sơ nuôi cá chình, các cơ sơ vận hành dựa trên nguồn năng lượng nước và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác mà loài sa giông đang sở hữu dưới đáy biển; thậm chí còn không có số liệu ước lượng về khả năng sản xuất của nền công nghiệp sa giông chứ đừng nói đến khả năng vũ trang của chúng, chúng ta biết chắc là với nhu cầu tiêu thụ kim loại, phụ tùng cơ khí, chất nổ và nhiều loại hóa chất, chúng lệ thuộc vào con người; nhưng một mặt, quốc gia nào cũng giấu kín không cho biết họ đã bí mật cung cấp bao nhiêu vũ khí và các sản phẩm khác cho sa giông; mặt khác, chúng ta hầu như cũng không biết được ở dưới đáy biển sâu, chúng đang làm ra những thứ gì với các thành phẩm và nguyên liệu mà chúng mua của con người, có điều, chắc chắn là loài sa giông không muốn chúng ta biết những điều đó; trong những năm vừa qua việc rất nhiều thợ lặn bị chết đuối hay chết ngạt khi lặn xuống đáy biển không thể nào quy cho ngẫu nhiên được. Đây quả là một hiện tương đáng báo động xét cả từ góc nhìn công nghiệp lẫn quân sự”.

“Tuy nhiên, thật khó mà đoán được loài sa giông kia muốn hoặc có thể muốn chiếm hữu cái gì của con người” , X viết ở những đoạn kế tiếp, “chúng không thể sống trên đất liền khô ráo và chúng ta cũng không thể can thiệp vào những việc chúng làm dưới biển. Môi trường sống của hai giống loài là hoàn toàn và mãi mãi khác biệt. Đúng là chúng ta cần sa giông làm một số công việc nhất định, nhưng đổi lại chúng ta đáp ứng cho chúng phần lớn nguồn thực phẩm cùng nhiều loại nguyên liệu thô và hàng hóa mà không có con người thì sa giông không thể có được, chẳng hạn như các kim loại. Nhưng cho dù không hề có nguyên do thực tế nào khiến cho sa giông và con người thù địch nhau, tôi vẫn dám nói rằng có tồn tại những xung đột siêu hình: ác cảm tồn tại giữa những sinh vật trên bờ và những sinh vật dưới biển cả, giữa những sinh vật sống về đêm và sinh vật sống ban ngày, giữa những sinh vật sống trong đầm hồ tăm tối và sinh vật sống trên cạn khô ráo, sáng sủa. Ranh giới giữa trên bờ dưới nước bằng cách nào đó đã trở nên rõ nét hơn: đất của ta liền kề với biển của chúng, cả hai có thể vĩnh viễn sống ở hai thế giới tách biệt và chỉ trao đổi hàng hóa và dịch vụ mà thôi; nhưng cả hai đều khó mà rũ bỏ nổi cái cảm giác ngột ngạt rằng điều này không thể tồn tại mãi. Tại sao? Tôi không thể đưa ra lý do cụ thể nào; nhưng cảm giác đó là có thực; dường như đó là một thứ linh tính rằng sẽ có ngày chính biển cả kia sẽ quay ra chống lại đất liền để giải quyết vấn đề ai là bá chủ!”.

Và X tiếp tục: “Tôi phải thừa nhận là nỗi lo lắng này có phần phi lý, nhưng tôi sẽ hết sức an tâm nếu sa giông ra mặt chống lại loài người với những đòi hỏi cụ thể. Chí ít khi đó chúng ta cũng còn cơ hội đàm phán với chúng, hai bên có thể đạt được đủ loại nhương bộ, hợp đồng, thỏa hiệp; nhưng chúng cứ im lìm như thế này thì thật khủng khiếp. Tôi sợ hãi sự kiềm chế khó hiểu này. Thà là chúng đòi hỏi những lợi thế chính trị cho mình, chẳng hạn thế đi; thật tình mà nói thì pháp chế về sa giông ở mọi quốc gia đều đã khá lạc hậu, không còn xứng đáng với những sinh vật đã quá văn minh và quá đông đảo đến nhường này. Cần phải soạn thảo ra những quyền lợi và nghĩa vụ mới cho sa giông theo cách nào đó có lợi nhất cho chúng; cũng có thể cân nhắc trao quyền tự trị cho sa giông, ở một mức độ nào đó; cũng là lẽ công bằng nếu ta cải thiện điều kiện lao động cho chúng và tưởng thưởng xứng đáng cho công việc chúng làm. Có thể cải thiện thân phận của chúng bằng nhiều cách giá như chúng chịu đòi hỏi điều đó. Như thế thì chúng ta mới có cơ sở để nhân nhượng và ràng buộc chúng phải tuân theo các giao kết; như vậy thì ít nhất chúng ta sẽ có thêm thời gian, vài năm chẳng hạn. Thế nhưng sa giông không đòi hỏi bất cứ thứ gì; chúng chỉ không ngừng gia tăng năng suất và đặt nhiều hàng cung ứng hơn; bây giờ đã đến lúc chúng ta cần đặt ra câu hỏi là cả hai bên sẽ kết thúc việc này ở đâu. Chúng ta đã từng nói đến những hiểm họa da vàng, da đen hay da đỏ; nhưng màu da nào thì cũng là chuyện con người, mà với con người thì ít ra chúng ta còn hiểu được mỗi bên muốn gì. Nhưng cho dù hiện nay chúng ta không có chút ý niệm nào về việc loài người sẽ buộc phải tự vệ trước thứ gì và tự vệ như thế nào, thì ít nhất ta cũng biết trước một điều hiển nhiên: nếu một bên là sa giông, thì ở phía còn lại sẽ là toàn bộ nhân loại.

Loài người chống lại sa giông! Đã đến lúc phải nói như thế. Phải nói rõ ra là trên thực tế, tự trong bản năng con người vốn đã căm ghét sa giông, ghê tởm sa giông - và sợ chúng. Bao trùm toàn bộ nhân loại ngày nay là thứ gì đó giống như một nỗi kinh hoàng lạnh buốt bủa giăng, còn gì nữa đâu ngoài sự mê mải điên cuồng, sự thèm khát thú vui và khoái lạc khôn thỏa, sự phóng túng trụy lạc đang chi phối con người hôm nay? Kể từ thời Đế chế La Mã sụp đổ dưới bước tấn công của quân mọi rợ, đạo đức chưa bao giờ suy đồi như hôm nay. Đó không chỉ là kết quả của sự phồn thịnh vật chất chưa từng thấy mà còn hơn thế nữa, đó là nỗ lực đè nén, trong tuyệt vọng và trong đau đớn, nỗi sợ hãi trước viễn cảnh nhân loại diệt vong. Hãy cạn chén rượu cuối cùng trước khi tận số! Nhục nhã thay, điên rồ thay! Dường như Đức Chúa Trời với lòng nhân từ đáng kính của Ngài đã để mặc cho các quốc gia và giai cấp được hoan lạc tới kiệt quệ, để một khi đã bắt đầu thì chỉ còn cách lao theo con đường suy vong này. Chúng ta có đọc được những dòng chữ lửa Ngài đã viết trên tường trong cuộc đại yến của loài người? Hãy nhìn những dòng chữ sáng bằng ánh điện chói lọi suốt đêm thâu trên những bức tường ở các đô thị phóng đãng và đồi bại của chúng ta đi! Về phương diện này chúng ta đang gần giống loài sa giông rồi: chúng ta sống ban đêm nhiều hơn ban ngày”.

“Giá như loài sa giông không tầm thường khủng khiếp đến thế”, X thốt lên, có phần khó chịu, “vâng, đúng là chúng ít nhiều cũng được giáo dục tốt, nhưng chính điều đó lại hạn chế chúng nhiều hơn vì chúng chỉ học được từ nền văn minh loài người toàn những thứ tầm thường và thực dụng, những thứ máy móc lặp đi lặp lại. Chúng đứng bên cạnh con người chẳng khác gì tên phụ việc Wagner đứng cạnh Faust trong tác phẩm của Goethe; chúng học cùng những cuốn sách giống như Faust - con người, chỉ có khác là chúng tràn trề thỏa mãn và không hề bị giày vò bởi nỗi hồ nghi. Điều kinh hoàng là cái dạng tầm thường được khai hóa này, cái dạng không biết suy nghĩ nhưng tự mãn này, lại được nhân bội đại trà; hàng triệu và hàng tỷ cá nhân giống hệt nhau; hay đúng hơn, tôi đã lầm: điều kinh hoàng nhất là chúng đã hết sức thành công, chúng đã học cách sử dụng máy móc và những con số, và hóa ra chỉ cần như thế là đủ cho chúng thống trị thế giới này. Tất cả những gì thuộc nền văn minh loài người mà không có mục đích, những gì là lạc thú, hoang đường hay cổ xưa, chúng đều bỏ qua hết; như vậy chúng đã loại trừ tất cả những gì đã khiến con người thành con người, chúng chỉ tiếp nhận những gì thực tế, kỹ nghệ và tiện dụng, và cái bức hí họa thảm hại của nền văn minh nhân loại này lại làm được nhiều điều đáng kinh sợ; nó xây dựng những kỳ quan công nghệ, đổi mới hành tinh già nua của chúng ta và cuối cùng bắt đầu khiến chính con người phải say mê chúng. Từ Wagner tên gia nhân giúp việc, Faust đã học được bí quyết của sự thành công và sự tầm thường. Nhân loại hoặc là phải giao chiến với sa giông trong cuộc đấu tranh sinh tồn lịch sử, hoặc là sẽ trở thành như sa giông, vĩnh viễn mất nhân tính” . X kết thúc giọng điệu bi ai đó bằng câu: “Tôi thích nhìn thấy điều thứ nhất hơn”.

“Thế đấy, X cảnh báo các người”, tác giả vô danh ấy viết tiếp, “vẫn còn khả năng loại bỏ cái hàng rào lạnh lẽo, nhớp nhúa đang bao vây tất cả chúng ta. Chúng ta phải tống khứ loài Salamander đi. Chúng đã quá đông; chúng có vũ khí, chúng ta hầu như không biết gì về sức mạnh vũ trang mà chúng có thể dùng để chống lại loài người; nhưng với chúng ta, mối nguy hiểm còn hơn cả số lượng và hỏa lực quân sự, chính là sự thành công của chúng, không, phải là vinh quang mới đúng, thứ vinh quang chúng có được nhờ bị khuyết đi nhân phẩm. Tôi không biết chúng ta nên sợ hãi điều gì hơn cả: chất văn minh loài người ở trong chúng, hay sự tàn nhẫn súc vật lạnh lùng, xảo quyệt của chúng; nhưng cả hai điều đó hợp lại sẽ tạo ra một thứ thảm họa khôn lường và khủng khiếp gần như là quỷ dữ. Nhân danh văn hóa, nhân danh Ki-tô giáo và loài người, chúng ta hãy giải thoát chính mình khỏi lũ sa giông”. Tới đây thì tín đồ vô danh ấy kêu gọi:

Lũ ngu xuẩn kia, đừng cho sa giông ăn nữa!

Không tuyển dụng chúng nữa, từ bỏ các dịch vụ của chúng, để mặc chúng muốn đi đâu thì đi, tự chúng phải kiếm ăn như mọi sinh vật dưới nước! Chính Tạo Hóa sẽ điều chỉnh số lượng dư thừa quá mức của chúng; nhưng với điều kiện con người, nền văn minh và lịch sử loài người, phải ngưng phục vụ loài sa giông!

Và hãy ngưng cung cấp vũ khí cho chúng, chấm dứt cung ứng các nguồn kim loại và chất nổ, không cho chúng có thêm máy móc và hàng hóa mà con người đã chế tạo! Chúng ta không gắn răng cho hổ dữ hay tiếp nọc cho rắn độc; chúng ta không châm lửa cho hỏa diệm sơn hay phá hủy đề điều trong mùa lũ lụt. Hãy ra lệnh nghiêm cấm cung ứng trên mọi đại dương, hãy đặt sa giông ra ngoài vòng pháp luật, và trục xuất chúng khỏi thê giới loài người.

⚝ ✽ ⚝

Hãy thành lập LIÊN HIỆP QUỐC chống lại sa giông!

Toàn bộ loài người hãy sẵn sàng vũ khí bảo vệ chính sự tồn tại của mình dưới sự dẫn dắt của tổ chức Liên Hiệp Quốc này; hãy để Quốc vương Thụy Điển, hay Giáo hoàng Roma, hay một liên minh các quốc gia triệu tập hội nghị quốc tế gồm tất cả các nước văn minh - và thành lập nên một Liên minh Thế giới, hay ít nhất là một Liên hiệp các quốc gia Ki-tô giáo để chống lại loài sa giông! Giờ đã đến lúc quyết định sinh tử; trước hiểm họa sa giông khủng khiếp, với trách nhiệm của loài người, chúng ta có thể đạt được điều mà một cuộc Đại Thế chiến với vô vàn nạn nhân không thể làm được: kiến tạo Hợp chúng Quốc Toàn Cầu. Cầu chúa ban ơn! Nếu đạt được điều đó thì sự xuất hiện của sa giông lại không phải là vô ích, mà chúng chính là công cụ của Ngài.

Tập sách nhỏ thống thiết này khiến công chúng bàn tán xôn xao. Các quý bà đứng tuổi đặc biệt đồng tình với chuyện đạo đức suy đổi chưa từng thấy. Trái lại, trang kinh tế của các nhật báo lại chỉ ra là không thể nào có chuyện hạn chế cung ứng cho sa giông mà không gây ra suy thoái nghiêm trọng về sản lượng cũng như không tránh được sự sụt giảm nghiêm trọng trong nhiều ngành sản xuất của loài người. Không chỉ vậy, hầu như toàn bộ ngành nông nghiệp đều phụ thuộc vào nhu cầu khổng lồ các loại ngô, khoai và các nông sản dùng để sản xuất thực phẩm cho sa giông; nếu sa giông giảm số lượng thì các cây lương thực này sẽ mất giá trên thị trường và đẩy nông dân đến bờ vực phá sản. Các tổ chức nghiệp đoàn nghi ngờ tác giả X kia là một kẻ chống lại xu hướng phát triển và tuyên bố sẽ không chấp nhận việc ngừng xuất khẩu hàng hóa cho sa giông; người lao động vừa mới thoát được nạn thất nghiệp và mới nhận được mức thưởng công xứng đáng thì ông X lại muốn tước đoạt miếng ăn trong miệng họ; giai cấp công nhân đứng về phía sa giông và bác bỏ mọi mưu toan hạ thấp mức sống, khiến họ phải đói nghèo và vô phương tự vệ dưới ách chủ nghĩa tư bản. Về việc thiết lập Liên Hiệp Quốc chống sa giông, mọi đảng phái chính trị có trách nhiệm đều phản đối, cho rằng không cần thiết vì thực tế đã có Hội Quốc Liên rồi, lại còn có công ước London nữa để ràng buộc các quốc gia hàng hải không được trang bị vũ khí hạng nặng cho sa giông ở đất nước mình. Tất nhiên, đâu có dễ mà mong đợi một quốc gia phải giải trừ quân bị, trừ phi quốc gia đó biết chắc chắn là không có cường quốc hàng hải nào đang lén lút trang bị vũ khí cho sa giông của riêng mình và vì vậy nước nào cũng cần phải tăng cường sức mạnh quân sự cho mình nhằm đe dọa nước láng giềng. Tường tự, không thể buộc một quốc gia hay một lục địa cho sa giông của mình di cư sang lãnh thổ khác, vì như vậy sẽ tạo ra tác động ngoài ý muốn là vừa phát triển các thị trường công-nông nghiệp vừa gia tăng sức mạnh quốc phòng cho các quốc gia và lục địa khác, và khắp nơi xôn xao những bất bình tương tự, điều mà bất cứ ai có lý trí cũng phải công nhận là rất hữu lý.

Bất kể những phản ứng đó, tập sách A Warning from X đã có tác động sâu rộng, ở hầu hết các quốc gia đã xuất hiện các phong trào chống sa giông; nhiều tổ chức, hội đoàn, câu lạc bộ phản kháng Salamander, diệt Triton, trừ khử Newt, bảo vệ nhân loại hay đủ thứ tương tự được thành lập. Các sa giông đại biểu bị sỉ nhục ở Geneva khi họ tham dự phiên họp thứ 1.213 của ủy ban Nghiên cứu vấn đề Sa giông. Các hàng rào gỗ bao bọc các bờ biển bị vẽ đầy những câu khẩu hiệu đe dọa như GIẾT SẠCH SA GIÔNG! SALAMANDER CÚT ĐI! và tương tự. Rất nhiều lao công Newt bị ném đá tới chết; không một công dân Triton nào dám thò đầu lên khỏi mặt nước giữa ban ngày. Thế nhưng về phía họ, vẫn không hề thấy bất kỳ một dấu hiệu nào gọi là phản kháng hay có ý trả đũa. Họ hoàn toàn trở nên vô hình, ít nhất là vào ban ngày; và nhiều người ghé mắt nhìn qua khe hở hàng rào chỉ thấy những đợt sóng dửng dưng vô tận. “Nhìn mà coi”, con người hằn học thốt lên, “cái bọn súc sinh ấy không chịu chường mặt ra nữa!”, và giữa lúc im lìm căng thẳng đó, bất thình lình thế giới rung rền vì

Louisiana Động Đất!