← Quay lại trang sách

Ngày trừng phạt 6h48

Lặng lẽ, chiếc sà lan lướt đi bên dưới chiếc xe buýt số 22.

Leyli, trán áp vào cửa kính, ngồi ở hàng ghế thứ hai đằng sau tài xế, ngắm nghía những kim tự tháp khổng lồ bằng cát trắng được chiếc tàu đáy bằng chở đi xa dần, tưởng như người ta đang đánh cắp cát của chính mẹ con chị, tưởng như sau khi đã lấy đi của mẹ con chị tất cả những thứ khác, người ta lấy luôn cả bãi biển, từng hạt cát một.

Xe buýt số 22 vượt qua con kênh Arles-Bouc và tiếp tục ngược lên đại lộ Maurice-Thorez. Ý nghĩ của Leyli vẫn nhùng nhằng theo nhịp tiến của chiếc sà lan. Chị vẫn luôn hình dung con kênh này như một vết sẹo bị rách toạc, và thành phố Port-de-Bouc giống như một mẩu đất chậm rãi trôi dạt về phía biển, và ngày nay nó bị chia cắt khỏi phần còn lại của lục địa bởi một eo biển rộng chừng hai chục mét. Trong tương lai là cả một đại dương.

Thật ngốc quá, Leyli tự trấn an trong khi xe rẽ vào đường tránh, bốn làn đường của quốc lộ 568 và dòng xe cộ nườm nượp không dứt tách Port-de-Bouc khỏi phần còn lại của thế giới nhiều hơn rất nhiều so với con kênh hiền lành dưới bóng cây nơi vài chiếc sà lan biếng nhác đang lượn lờ. Còn chưa đến 7 giờ sáng. Ngày đã thức dậy nhưng mới chỉ mở hé một bên mắt mờ mịt. Qua cửa kính xe buýt, ánh đèn nhợt nhạt của xe cộ trên đường xuyên qua hình ảnh phản chiếu khuôn mặt chị. Ít nhất là lần này, Leyli tự thấy mình xinh đẹp. Chị đã cố gắng. Chị đã thức dậy từ hơn một tiếng trước để tết lên tóc mình từng hạt từng hạt ngọc trai nhiều màu, giống như mẹ chị, Marème, thường làm ở Ségou, bên dòng sông, trong những tháng hè khi mà mặt trời thiêu đốt mọi thứ, tuy nhiên cũng là những tháng mà Leyli được tách khỏi ánh nắng mặt trời.

Chị muốn mình trông quyến rũ. Đó là điều quan trọng. Patrice, đúng hơn là anh Pellegrin, nhân viên phụ trách hồ sơ của chị ở Văn phòng nhà đất FOS-IMMO, không vô cảm với những màu sắc của chị. Với nụ cười của chị. Với niềm vui sống của chị. Với gốc gác người Fula của chị. Với gia đình lại tạp của chị.

Chiếc xe buýt số 22 chạy dọc theo đại lộ Groupe-Manouchian, đi qua trước thành Agache.

Gia đình chị. Leyli nhấc cặp kính râm lên rồi khẽ trải những bức ảnh trên đầu gối. Để khiến Patrice Pellegrin xúc động, những bức ảnh này là một vũ khí cũng quan trọng không kém gì vẻ quyến rũ của chị. Chị đã chọn lựa chúng một cách cẩn thận, những bức ảnh chụp Tidiane, Alpha, Bamby, cũng như những bức ảnh chụp căn hộ của chị. Patrice đã kết hôn chưa? Anh ta có con không? Anh ta có dễ bị tác động không? Và nếu có, thì anh ta có tầm ảnh hưởng không?

Chị đang gần đến đích. Xe buýt số 22 đi qua trung tâm thương mại, luồn lách giữa một siêu thị Carrefour rộng lớn, một nhà hàng Quick, một quán Starbucks. Chỉ trong vòng vài tháng, từ buổi hẹn trước của chị tại Văn phòng nhà đất, cả chục biển hiệu mới đã mọc lên. Chừng ấy những khối lập phương bằng tôn giống hệt nhau, tuy nhiên lại có thể nhận ra ngay từ cái nhìn đầu tiên, cặp sừng màu trắng của một tiệm Buffalo Grill, bông hoa màu cam của một cửa hàng Jardiland, mái hình chóp của khách sạn Red Corner. Trên mặt tiền bằng sắt và kính của một tổ hợp chiếu phim, vóc dáng khổng lồ của Johnny Depp trong vai diễn Jack Sparrow đang nhìn chị chằm chằm; trong một lát hình ảnh phản chiếu khiến chị có cảm giác Johnny cũng có mái tóc tết đầy những hạt ngọc trai như chị.

Mọi thứ ở đây đều giống nhau, mọi thứ đều giống với nơi khác.

Xe xuôi xuống phía kênh Caronte, giữa hai vùng biển, biển Địa Trung Hải và đầm nước mặn Berre, rồi rẽ vào phố Urdy-Milou, nơi có trụ sở của FOS-IMMO tại địa phương. Leyli quan sát hình ảnh phản chiếu của mình lần cuối. Ánh sáng ban ngày yếu ớt xóa dần bóng chị trong tấm gương bằng kính. Chị phải thuyết phục Patrice Pellegrin rằng chị không giống như tất cả những địa điểm vô hồn này, những nơi chốn giống như bất cứ nơi nào mà lại chẳng phải nơi nào, chính chị, cũng như chúng, là người ở đây lại cũng là người ở nơi khác.

Chị phải thuyết phục Patrice rằng chị là duy nhất, chỉ đơn giản thế thôi. Tuy nhiên, càng nghĩ nhiều về chuyện này, chị càng không còn chắc chắn rằng anh chàng nhân viên ở FOS-IMMO kia tên là Patrice.

6h49

Bamby đứng trước mặt François.

Hiệu ứng phản chiếu của những tấm gương trong căn phòng Shéhérazade tại khách sạn Red Corner làm tăng số góc nhìn lên gấp bội, như thể có cả chục chiếc camera đang ghi hình cô và chiếu lên những bức tường, lên trần nhà, từ phía sau lưng, từ phía trước mặt, từ dưới lên trên.

François chưa bao giờ gặp cô gái nào xinh đẹp đến thế.

Ít ra là từ hai chục năm nay. Từ khi ông không còn đi khắp thế giới và chỉ bằng vài đô lẻ tự tặng cho mình những ả điếm Thái Lan hoặc Nigeria có lẽ sẽ vào chung kết Hoa hậu Thế giới nếu sự ngẫu nhiên của cuộc đời khiến họ được sinh ra ở phía lề đường bên kia. Từ khi ông ổn định cuộc sống cùng với Solène, Hugo và Mélanie, từ khi ông cho xây căn nhà ở Aubagne, từ khi ông thắt cà vạt mỗi sáng để đi kiểm tra các tài khoản của Vogelzug và chỉ đi công tác nước ngoài chưa đầy hai lần mỗi năm. Từ giờ trở đi, ông không bao giờ còn đi xa quá Maroc hay Tunisia nữa.

François thầm tính toán số tháng trong đầu, đã gần một năm nay ông không lừa dối Solène. Ông đã trở nên chung thủy mà gần như không ý thức được điều đó. Ở Vogelzug, giữa những pasionaria⦾ đấu tranh cho những người nhập cư trái phép, ông hiếm khi có cơ hội ngắm nhìn những cô nàng ăn mặc theo kiểu gái điếm, phô bày những đường cong và bộ ngực lấp ló.

Lại càng ít có cơ hội ôm họ trong vòng tay.

Cô gái đang uốn éo trước mặt ông tự xưng là Bamby. Một cái tên của người Fula. Cô hai mươi tư tuổi, sở hữu thân hình của một công chúa châu Phi và đang viết một luận án nhân chủng học về các luồng di trú. Cô đã liên hệ với ông một cách ngẫu nhiên, ông nằm trong mẫu điều tra gồm năm mươi người có chuyên môn về điều tiết người di cư, tạo nên tập đối tượng nghiên cứu của cô. Năm mươi giờ phỏng vấn được ghi lại bằng máy ghi âm… trong đó có cuộc phỏng vấn của ông, một giờ đồng hồ độc thoại ngoại trừ vài câu đưa đẩy, tại các phòng làm việc của Vogelzug.

Có vẻ như Bamby say mê với hành trình của ông, François còn thêm thắt vào đó, những niềm tin chắc chắn, những hành động, những tâm trạng của ông từ khi thời kỳ vô tư lự của những chuyến đi không hành lý nhường chỗ cho thời kỳ của kinh nghiệm, của sức mạnh tuổi tác, của thành công, của quyến rũ. Cô đã nhờ ông đọc lại bài viết của mình, qua email, trước khi họ gặp lại nhau mười lăm ngày sau đó, một buổi tối tranh luận lành mạnh, lần này thì không có máy ghi âm, nhưng cả hai lại tự cho phép mình ôm siết người kia hồi lâu trước khi chia tay. Hãy gọi cho tôi nếu cô muốn…

Cô nàng nghiên cứu sinh xinh đẹp đã gọi lại cho ông. Cô bận ngập đầu. Luận án, những giờ thực hành áp dụng kiến thức đã học ở trường đại học, không còn thời gian nào để có bạn trai nữa, không phải lúc này, thế nên chúng ta hãy tranh thủ thời gian thôi.

Thật trùng hợp: François cũng gần như có cùng một triết lý như thế.

Hãy tranh thủ thời gian thôi.

Hẹn gặp nhau ở đây, tại khách sạn Red Corner gần nhất.

Vừa vào đến phòng, François đã nằm dài ra giường, giả vờ một cơn mệt mỏi bất ngờ có thể quy cho ba ly vodka nhỏ xíu mà ông đã nốc cạn trong quầy bar bên dưới các căn phòng cho thuê nhằm mục đích giải trí này. Tranh thủ thời gian ư? Đã phải mất nhiều giờ đồng hồ, người đẹp mới để mình bị ông thuần hóa.

Bamby ngồi xổm bên cạnh ông, không giả vờ e thẹn mà thể hiện sự dịu dàng khó cưỡng. Cô chỉ dừng ở việc vuốt ve ông, tại vùng giữa gáy và cổ, nơi những sợi tóc giống như một lớp lông tơ. Cô mặc một chiếc váy dài bằng vải wax⦾ màu vàng rực, ôm sát người, dài đến tận mắt cá chân nhưng lại để lộ cả khoảng phía trên bộ ngực và đôi vai trần màu nâu. Một mặt dây chuyền nhỏ bằng bạc lẩn dưới lớp vải co giãn màu vàng.

— Đó là một con chim à?

— Một con cú. Ông muốn xem không?

Cô nghiên cứu sinh xinh đẹp chậm rãi để tuột xuống lớp vải đặc trưng châu Phi, giống như một cánh buồm hạ, nó chững lại một lát trên những đường cong cơ thể, rồi rơi xuống đến tận eo. Đột ngột.

Cô không mặc gì bên trong…

Bộ ngực cô lộ ra, lộng lẫy, gần như không thực; con chim cú nhỏ run rẩy trong thung lũng.

Chiếc váy dài màu nắng bồng bềnh trên thắt lưng cô, cù vào rốn, bám vào hông. Bamby nhỏm dậy, đưa ngón tay lướt dọc cổ François, vấp vào chiếc cúc đầu tiên trên áo sơ mi của ông, hạ xuống, hạ xuống đến tận khóa chiếc quần jean. Con nhóc này đã quyết định khiến ông phát điên rồi đây!

Có lẽ cô chỉ trẻ hơn con gái ông một chút. Chuyện này không làm ông thấy chướng. François tự biết mình vẫn còn quyến rũ, với mái tóc ngả hoa râm, với dáng vẻ khiến người khác cảm thấy an toàn. Ông cũng biết rõ sức quyến rũ của đồng tiền.

Liệu tiền có liên quan gì đến chuyện này không?

Bamby uốn éo trước mặt ông. Mỉm cười. Chơi đùa như một con bướm có cơ bay mất bất cứ lúc nào. François buộc mình đắm chìm vào những ý nghĩ, để trấn tĩnh lại, để không lao bổ vào cô nàng này, hòa theo nhịp điệu của cô. Liệu Bamby có nhận tiền không? Không, tất nhiên là không. Đơn giản nhất là gặp lại cô. Thỉnh thoảng. Đối xử với cô như với một công chúa. Một món quà. Một bữa ăn tại nhà hàng. Một khách sạn đẹp hơn cái khách sạn Red Corner ngoại ô này. Ông ngưỡng mộ những cô gái được ưu đãi cả sắc đẹp lẫn trí thông minh như cô. Ông đã nhận thấy rằng trái ngược với vẻ bề ngoài, điều đó khiến họ còn tử tế hơn những cô gái khác, bởi vì họ khiến người khác ghen tị nhiều đến nỗi cảm thấy mình buộc phải trở thành cô bạn gái tử tế không ai có thể chê trách, để khỏi đi đến kết cục là bị ném đá đến chết, buộc phải học cách khiêm tốn như một phương thức sinh tồn.

Những thiên thần, mà rất ít đàn ông có đặc quyền được chạm vào.

Ông ta có giọng nói dịu dàng, ông ta rất thích nói chuyện. Chủ yếu là ông ta thích nghe bản thân nói.

Vợ ông ta tên là Solène. Ông ta có một con gái một tuổi. Mélanie.

Một vết sẹo nhỏ hình dấu phẩy bên dưới núm vú trái.

Nỗi phấn khích của François càng tăng thêm khi Bamby xáp lại và lách ngón tay vào bên trong áo sơ mi của ông, cởi hai cái cúc, dừng lại nấn ná trên hai núm vú. Cô vuốt ve ông hồi lâu, và lần đầu tiên, cho phép ông đặt tay lên ngực mình, trong vài giây, trước khi phác một động tác lùi ra xa, như thể việc tiếp xúc vừa rồi khiến cô bị bỏng.

Hoặc như thể cô còn muốn tiếp tục chơi đùa, François muốn diễn giải theo cách này hơn. Bamby nhìn ông bằng ánh mắt thách thức, rồi quay người với một sự chậm rãi đầy tính toán.

— Em đi lấy cốc nước.

Đôi bàn tay François chợt cảm thấy bơ vơ, nhưng đến lượt đôi mắt ông ngây ngất. Kiên nhẫn nào, ông thầm ra lệnh, sẽ có đủ cho tất cả các giác quan. Thị giác là giác quan được ưu đãi đầu tiên. Vừa bước đi trong phòng, Bamby vừa thả cho chiếc váy vàng rực rơi xuống tận gót chân, bằng một động tác đầy nhục cảm.

Cô không mặc gì ở trong.

Cả bên trên lẫn bên dưới.

Cô đi ra xa, lướt qua ô cửa sổ lắp kính, tạo ra một dòng thác sắc màu trên da thịt. Một lát sau, Bamby quay trở lại, trên tay cầm cốc nước, tặng cho François một mặt tiền khỏa thân hoàn toàn khiến ông nghẹt thở.

— Ông có thích không? – Bamby thì thầm bằng giọng ngây thơ.

François nhỏm người ngồi tựa vào gối. Đó là bí quyết của ông đối với phụ nữ. Không bao giờ đóng vai kẻ chinh phục. Lại càng không khi mà ông chắc chắn là mình đã thắng.

Ông chăm chú nhìn cô bằng ánh mắt đầy ngưỡng mộ, giống như khi ta đón nhận một món quà mà ta xiết bao mơ ước, đến nỗi phải giả vờ là mình không xứng đáng được nhận.

— Người đẹp của tôi, cô nàng vô cùng xinh đẹp của tôi, con én nhỏ của tôi, em định làm gì với một lão già như tôi?

— Im nào, François.

Bamby tiến lại phía ông. Toàn bộ trang phục trên người cô chỉ còn lại tấm khăn voan choàng trên tóc. Khi họ gặp nhau lần đầu tiên, chiếc khăn này đã khiến François ngạc nhiên, nó hoàn toàn không ăn nhập với tính cách của cô nàng sinh viên phóng khoáng. Điều đó càng làm tăng thêm nét khó hiểu ở cô. Bamby đã dìm câu hỏi của ông trong một tiếng cười.

— Ông không thấy là như thế này em xinh hơn sao?

Tất nhiên rồi, cô nàng lẳng lơ tuyệt diệu này nói đúng. Tấm voan che khuất khuôn mặt hình trái xoan của cô, phủ bóng lên đôi gò má tròn trĩnh chẳng khác nào một cái khung giúp ta tập trung ánh mắt nhiều hơn vào phần kiệt tác của bức tranh, đôi mắt mảnh hẹp như hai chiếc lá ô-liu, hai chiếc thuyền lấp lánh ánh xà cừ trong màn đêm mascara, giữa hai hàng lông mi dày rợp, hai viên ngọc trai đen tỏa ra ánh nhìn mật ngọt.

Mùi thơm nồng của gia vị bao bọc căn phòng. Những chiếc loa được giấu kín liên tục phát ra những giai điệu phương Đông. François lo lắng, có lẽ ở đây có gắn camera chăng?

Bamby chậm rãi thực hiện những động tác lắc hông theo điệu nhạc, khiến François hình dung ra rằng ngay khi cô quyết định, sẽ đến lượt ông phải khiến cho cơ thể lõa lồ kia run rẩy. Rằng cô sẽ chỉ còn là một nhạc cụ trong tay ông, một nhạc cụ đặc biệt mà chỉ những nghệ sĩ kỳ tài hiếm hoi mới được phép chơi.

— Ông thích em bởi vì em xinh đẹp.

Bamby có chất giọng gần như trẻ con. Không phải chất giọng khàn khàn của những ca sĩ hát nhạc Phúc âm.

— Ngoài điều đó ra, tôi chưa biết gì về em cả.

— Vậy ông hãy nhắm mắt lại.

François vẫn mở to mắt.

Bamby chậm rãi cởi bỏ chiếc khăn ra khỏi mái tóc. Mái tóc dài, đen, được tết thành từng lọn.

— Em muốn ông nhắm mắt để yêu em.

Cô gái trẻ bước lên giường. Dứt khoát xóa bỏ mọi khoảng cách e thẹn, cô kẹp chặt thân trên François giữa hai đùi mình, ưỡn ngực lên ngang tầm mắt ông, rồi rướn chỗ kín của cô đến khi chỉ còn cách chòm râu lún phún của ông vài centimet. Từ khắp làn da Bamby tỏa ra mùi wusulan, thứ hương được phụ nữ Mali dùng để ướp lên quần áo và mái tóc của họ, cũng như thấm đẫm lên da thịt mình để mê hoặc tình nhân.

— Em muốn ông yêu em theo kiểu mò mẫm.

Được thôi, François chấp nhận trò chơi. Đây không phải là lần đầu tiên ông làm tình với đôi mắt bị bịt kín. Ông từng thường xuyên làm trò này, với Solène, thuở ban đầu. Rồi sau đó thì thôi. Chính vì chuyện này mà ông ở đây, chỉ vì chuyện này thôi. Ông nhắm mắt lại. Bamby quấn chiếc khăn quanh mắt ông, trong khi François, như một người mù, vụng về tìm cách chạm vào quầng vú cô bằng đầu lưỡi, nựng nịu chúng trong lòng bàn tay.

— Ngoan nào, ngài quản trị. – Bamby nói bằng chất giọng bé gái khó cưỡng.

Bàn tay mềm mại của cô nắm lấy cổ tay ông, giống như người ta kéo những ngón tay của một thằng bé ranh mãnh ra khỏi hộp kẹo.

Tách.

Lúc đầu, François không hiểu. Phản ứng đầu tiên của ông là phác một cử chỉ để kéo dải băng đang che kín mắt mình ra. Không thể được, vì một bên, rồi cả hai bên cổ tay ông đều bị xích chặt. Trong một tích tắc, ông nhận ra rằng sau khi thắt chiếc khăn quanh mắt ông, Bamby đã còng tay ông lại, giả vờ đang chơi một trò ranh mãnh. Ông suy ra rằng còng tay đã được chuẩn bị từ trước, được gắn vào thành giường, đằng sau chiếc gối.

Cô ả này đã lên kế hoạch mọi việc. Chết tiệt… Cô ta muốn gì ở ông?

— Ngoan nào, anh chàng thích phiêu lưu của em. – Bamby nói tiếp. – Trò chơi mới chỉ bắt đầu thôi.

Ông ta mơ ước được sống trong một ngôi nhà ở phía trên Marseille, tại Aubagne. Ông ta đã nhắm được một mảnh đất, ở dưới chân công viên Coueste.

Ông ta thích gọi các cô gái là con bướm của anh, con chim én của anh, con chuồn chuồn của anh.

Ông ta mê thích wusulan, ông ta không chịu chạm vào ta nếu thân thể ta không tỏa ngát mùi hương đó.

Ông ta rất đòi hỏi, thậm chí đôi khi còn bạo lực.

François vẫn nuôi hy vọng trong khi Bamby cởi nốt những chiếc cúc còn lại trên áo sơ mi của ông, khi cô lướt thân người cô sát qua người ông, khi cô để mùi hương của mình vấn vít trên cơ thể ông. Đây chỉ là một trò chơi. Chỉ càng thêm phấn khích mà thôi!

Cô nhóc này có thể muốn gì ở ông được chứ? Ông chẳng có gì phải tự trách mình cả. Ông không có quá 200 euro trên người. Tống tiền ông chăng? Cô ta cứ việc làm thế đi! Bây giờ, khi Mélanie và Hugo đã trưởng thành, chuyện này sẽ càng giúp ông có cớ để rời bỏ Solène. Ông gần như đã cảm thấy yên tâm, cảm thấy thích thú vì được phó mặc bản thân vào tay một cô gái xinh đẹp như thế. Ở tuổi bốn mươi chín, ông không bao giờ còn tự đặt mình vào cảnh hiểm nguy, ông vừa đạt đến điểm cân bằng khiến ông rất đỗi an tâm này… thì cảm thấy nhói đau ở cánh tay.

Một mũi tiêm! Vào tĩnh mạch. Ả khốn này vừa tiêm thứ gì đó vào máu ông!

François hoảng hốt, giằng mạnh đôi tay bị còng, lưỡng lự không biết có nên la hét hay không, mặc dù ông biết rằng mấy căn phòng chết tiệt này đều được nhồi lớp cách âm, tạo thành một nơi tách biệt để các cặp tình nhân có thể ở chung mà không phải so sánh cường độ khoái cảm của nhau. Và nghĩ kỹ lại, Bamby chẳng tiêm thứ gì vào người ông cả. Ông chỉ cảm thấy… máu mình bị hút ra. Cô ả này đã lấy máu ông!

— Sẽ không lâu đâu. – Giọng nói bình thản của Bamby thì thầm. – Chỉ một lát thôi.

François chờ đợi. Hồi lâu.

— Bamby?

Không còn ai đáp lời ông. Dường như ông chỉ nghe thấy tiếng khóc.

— Bamby?

Ông bắt đầu đánh mất khái niệm thời gian. Ông ở đây bao nhiêu phút rồi? Chỉ có một mình ông trong phòng này chăng? Lần này, ông phải gọi người giúp, cho dù người ta có thấy ông trong tình cảnh này thì cũng mặc kệ. Có xấu hổ thì cũng mặc kệ. Ông có phải đưa ra những lời giải thích thì cũng mặc kệ. Thế giới nhỏ bé yên bình của Solène có sụp đổ thì cũng mặc kệ. Mélanie có biết rằng ba mình ngủ với một đứa con gái bằng tuổi nó thì cũng mặc kệ. Nói cho cùng, ông chẳng biết gì về đứa con gái đó cả. Có lẽ cô ta đã thao túng ông ngay từ đầu, với câu chuyện nghiên cứu sinh tiến sĩ, mẫu điều tra và phỏng vấn của cô ta? Nghĩ cho cùng, cô ả này quá khiêu gợi để có thể học lên đến tiến sĩ…

Ông sắp sửa hét lên thì cảm thấy có ai đó bên cạnh mình.

Ông cố gắng tập trung, cố gắng nhận biết mùi hương wusulan của Bamby, nhưng những làn hương gia vị tỏa khắp căn phòng Shéhérazade chết tiệt này đã lấn át tất cả; ông cố gắng lắng nghe những tiếng chân, một hơi thở, tiếng một mặt dây chuyền cọ xát vào làn da trần, nhưng những âm thanh độc tấu không dứt của đàn oud không cho phép ông nghe thấy bất cứ tiếng động nào.

— Bamby?

François không cảm thấy gì nữa ngoài cú nhói đau ở cổ tay, chỉ như một vết xước, còn không đau bằng khi ông tự cắt vào da mình lúc cạo râu. Ông chỉ hiểu ra khi cảm thấy thứ chất lỏng ấm nóng chảy dọc cánh tay phải của mình.

Với sự chính xác của một tay thợ cạo, người ta đã cắt mạch máu ở cổ tay ông.

8h10

Trong hành lang dài, mấy chiếc ghế tựa kê trước mỗi cánh cửa gợi cho Leyli nhớ đến những buổi chờ đợi dài dằng dặc vào những lần gặp mặt giữa phụ huynh và giáo viên ở trường phổ thông, sau đó là ở trường trung học. Chị thường là người đến cuối cùng, nhận cuộc hẹn muộn nhất, ngồi chờ một mình, hơn một tiếng đồng hồ, trước khi bị tống khứ sau hai phút gặp gỡ bởi một giáo viên tiếng Anh hoặc giáo viên Toán cũng đang sốt ruột muốn về nhà. Bamby rồi đến Alpha, chuyện đó vẫn lặp lại. Cô độc trong hành lang, giống như sáng nay.

Phải nửa tiếng nữa văn phòng của FOS-IMMO mới mở cửa, nhưng người ta đã để cho chị vào mà không vặn hỏi gì. Trước 9 giờ và sau 18 giờ, trong các văn phòng bằng kính của các khu phố thương mại, đám phụ nữ da đen là những bóng ma có thể hoán đổi được. Leyli nhất quyết phải là người đến đầu tiên. Chưa đến 8h10, ngồi trên một trong số những chiếc ghế ngoài hành lang, chị nhìn thấy Patrice Pellegrin xuất hiện đằng sau cánh cửa thang máy.

— Chị Maal?

Nhân viên tư vấn của FOS-IMMO tiến bước trong hành lang dẫn đến văn phòng làm việc của mình, đầy ngạc nhiên, như thể anh ta mới đi vào đây lần đầu tiên.

— Chị Maal à? Nhưng phải ba mươi phút nữa tôi mới mở cửa!

Ánh mắt của Leyli khiến anh ta hiểu rằng không sao cả, rằng chị có vô khối thời gian, rằng anh ta không phải xin lỗi.

Tuy nhiên, Patrice Pellegrin vẫn ấp úng.

— Ơ, thôi được rồi, tôi xin lỗi, tôi sẽ quay lại ngay, tôi đi lấy cốc cà phê đã.

Leyli tặng cho anh ta nụ cười tươi tắn nhất của chị.

— Anh mang cho tôi mấy chiếc bánh sừng bò được không?

Mười phút sau Pellegrin quay lại, mang theo một chiếc khay trên đó chất chồng hai cốc cà phê espresso, một túi bánh ngọt, hai chai nước quả và một chiếc giỏ đầy: nào bơ, nào mứt, nào bánh mì mới làm.

— Đằng nào chị cũng đã đến đây rồi, hãy vào đi. Chị sẽ ăn sáng cùng với tôi.

Rõ ràng là nụ cười của Leyli, những sắc màu ấm nóng của chiếc áo dài châu Phi và những lọn tóc tết gắn ngọc trai đã có tác dụng. Chị không dám thổ lộ với Patrice rằng mình có thể uống hàng lít trà nhưng không bao giờ uống cà phê, ngạo mạn là thứ vũ khí mà ta cần sử dụng một cách dè sẻn.

Chị vừa nhúng chiếc bánh sừng bò vào thứ chất lỏng màu đen vừa hy vọng rằng ruột bánh sẽ hút hết cả cốc cà phê. Qua ô kính rộng của văn phòng, họ có thể nhìn ra toàn cảnh khu Port-de-Bouc, những tòa nhà chồng chất trên bán đảo, những trung tâm thương mại kết nối chúng với lục địa, những con đê vươn dài như những xúc tu bập bềnh trên mặt biển. Đèn đường vụt tắt, đèn giao thông nhấp nháy, cửa sổ các căn hộ sáng lên.

— Tôi rất thích dậy sớm hơn mọi người. – Leyli thì thầm. – Khi đến Pháp,lúc đầu tôi làm công việc dọn dẹp trên đỉnh tháp CMA CGM trong khu Euroméditerranée, đêm nào cũng vậy. Tôi rất thích công việc đó. Tôi có cảm giác mình đang trông chừng cho thành phố, đang ngắm nó thức dậy, những ô cửa sổ đầu tiên sáng lên, những người đi bộ đầu tiên, những chiếc xe hơi đầu tiên, những khách qua đường đầu tiên, những chuyến xe buýt đầu tiên, từng ấy cuộc đời lại tiếp diễn còn tôi thì sắp đi ngủ, ngược chiều với cả thế giới.

Pellegrin mơ màng thêm một lúc nữa trước toàn cảnh thành phố.

— Còn tôi, tôi sống ở bên kia, về phía Martigues, một ngôi nhà sát đất. Tầm nhìn xa không quá hàng trắc bách diệp quanh nhà.

— Ít ra anh cũng có một khu vườn.

— Vâng… Và để tận hưởng nó, tôi đi khỏi nhà từ sớm, trước khi mọi nơi ở Marseille đều bị tắc nghẹt. Tôi đến sớm để nghiên cứu hồ sơ.

— Trừ phi có một người thuê nhà đến ngáng chân anh.

— Đồng hành với tôi thì đúng hơn!

Patrice Pellegrin là một anh chàng béo tròn trạc tuổi bốn mươi, có dáng dấp tự tin khiến người khác yên lòng của một gã đã có vợ, một gã mà cô gái nào đã tìm được rồi sẽ không sẵn sàng buông ra, sẽ nhanh chóng có với anh ta một hoặc hai đứa nhóc để chắc chắn là có thể giữ chặt anh ta mãi mãi. Một gã không nhất thiết là đang tán tỉnh một cô gái khi nói chuyện tử tế với cô nàng.

— Còn tôi, tôi sống ở dưới đó. – Leyli vừa nói vừa chỉ về phía tám tòa tháp màu trắng trong khu Les Aigues Douces xếp thẳng hàng trước biển Địa Trung Hải, chẳng khác nào những quân cờ domino bằng đường.

— Tôi biết. – Anh chàng nhân viên tư vấn trả lời.

Họ tiếp tục trò chuyện vài phút nữa cho đến khi ăn xong bữa sáng, trước khi Pellegrin ngồi vào sau bàn làm việc. Anh lấy ra một tập hồ sơ và mời Leyli ngồi xuống phía bên kia. Một chiếc bàn làm việc xấu xí bằng gỗ thông sáng màu có đánh véc-ni ngăn cách họ. Giờ ra chơi đã hết.

— Thế nào, chị Maal, tôi có thể làm gì cho chị?

Cả Leyli cũng đã chuẩn bị hồ sơ của mình. Chị dàn ra trước mặt anh chàng nhân viên của FOS-IMMO một loạt những bức ảnh chụp căn hộ của mình, vừa dàn vừa bình luận.

— Tôi không có gì để thông tin thêm với anh, anh Pellegrin ạ, anh cũng biết rõ như tôi rằng tất cả các căn hộ F1 đều giống nhau cho dù chúng nằm ở tòa nhà số mấy: hai mươi lăm mét vuông, một phòng khách kiêm phòng bếp, một phòng ngủ. Anh bảo bốn chúng tôi sống thế nào trong đó được đây?

Chị giơ ra trước mũi Pellegrin bức ảnh chụp chiếc ghế sofa được biến thành giường ngủ mỗi tối, bức ảnh chụp phòng của mấy đứa trẻ nơi Bamby, Alpha và Tidiane cùng ngủ. Những đồ đạc vương vãi hoặc xếp chồng lên nhau, nào quần áo, sách vở và đồ chơi. Leyli đã bỏ ra nhiều giờ đồng hồ để sắp xếp những bức ảnh trông như ngẫu hứng này, sao cho có đủ độ bừa bãi để Patrice Pellegrin nhận thức được tính cấp bách của tình trạng và chỉ vừa vặn để chứng tỏ với anh rằng chị là một người mẹ tốt, ngăn nắp, với những chồng sách vở được phân loại, những chồng quần áo được gấp gọn, bên trong nhà sạch sẽ không che vào đâu được. Chỉ có một mối lo duy nhất, Patrice ạ, đó là cảnh chung đụng.

Patrice có vẻ lưu tâm thực sự.

Qua ô cửa kính, mặt trời đột nhiên bước qua cái vóc dáng đồ sộ bằng tôn lượn sóng của rạp phim và khiến căn phòng tràn ngập ánh nắng, chẳng khác nào một chiếc đồng hồ mặt trời thông báo rằng các phòng làm việc đã mở cửa. Gần như theo phản xạ, Leyli lấy từ trong túi xách ra một cặp kính đen. Cặp kính có hình chim cú, hai mắt kính tròn xoe được nối với nhau bằng một cái mỏ màu da cam, bên trên có gắn hai cái tai nhỏ nhọn hoắt màu hồng. Cặp kính khiến Patrice thích thú.

— Ánh mặt trời làm chị khó chịu sao?

Anh bước đến hạ rèm xuống, không yêu cầu giải thích thêm. Leyli đánh giá cao hành động này. Thông thường, mỗi khi đeo lên mắt một trong những cặp kính mà chị sưu tầm, có giá tối đa là 5 euro, khi ánh mặt trời chiếu rọi sỗ sàng, chị sẽ nhận thấy những phản ứng sượng sùng, những người hung hãn thì coi chị là một ả thích phô trương, những người trầm mặc thì nghĩ chị là một phụ nữ bất hạnh. Leyli không trách giận gì họ. Ai có thể ngờ được sự thật là gì cơ chứ?

Còn Pellegrin, dường như anh chỉ thấy đó là một hành động kỳ quặc đầy tính giải trí. Ngay khi văn phòng chìm trong ánh tranh tối tranh sáng, Leyli bỏ kính ra.

— Tôi hiểu, chị Maal ạ. Nhưng… – Đôi mắt anh lại nhìn vào chồng hồ sơ sặc sỡ chồng chất lên nhau cao ngất, chỉ toàn những hồ sơ đề nghị chỗ ở dành cho người thu nhập thấp. – Nhưng những gia đình đang chờ đợi như gia đình chị, thì chỗ tôi đây có đến vài trăm.

— Tôi đã tìm được việc làm. – Leyli nói.

Patrice Pellegrin có vẻ vui mừng thật lòng.

— Một hợp đồng không xác định thời hạn, tại khách sạn Ibis ở Port-de-Bouc. – Chị nói thêm. – Dọn dẹp các phòng ngủ và phòng ăn, đúng công việc tôi yêu thích! Tôi bắt đầu làm từ chiều nay. Nếu anh tìm được giúp tôi một căn hộ rộng hơn, tôi có thể trả tiền thuê nhà. Tôi có hợp đồng lao động ở đây, anh có muốn xem không?

Chị đưa ra một tờ giấy, Pellegrin ra ngoài vài giây để chụp một bản, rồi trả lại cho chị.

— Tôi không chắc như thế này đã là đủ, chị Maal ạ. Đây là một điểm cộng, nhưng… – Anh lại chăm chú nhìn vào chồng hồ sơ. – Tôi… tôi sẽ gửi email cho chị ngay khi nào có tin tức mới.

— Anh đã nói thế với tôi từ lần trước rồi. Và tôi vẫn đang chờ đây!

— Tôi biết… Ờ… lý tưởng nhất thì chị cần diện tích bao nhiêu?

— Ít nhất là năm mươi mét vuông…

Anh ghi hết lại vào một tờ giấy. Không hề nhíu mày.

— Ở Les Aigues Douces?

— Hoặc ở nơi khác, với tôi thế nào cũng được, miễn là rộng hơn.

Pellegrin tiếp tục ghi chép. Leyli không thể biết được liệu đề nghị của chị có bị anh chàng nhân viên tư vấn coi là phi lý hay không. Anh ta khiến chị nghĩ đến một ông bố đang nghiêm trang ghi lại danh sách những món quà Noel điên rồ mà đứa con đòi hỏi. Pellegrin cuối cùng cũng ngước mắt lên.

— Khu Les Aigues Douces không đến nỗi khó khăn quá chứ?

— Chúng tôi có bãi cát, chúng tôi có biển. Nó giúp chúng tôi chịu đựng được những thứ còn lại.

— Tôi hiểu.

Patrice có vẻ xúc động thật lòng. Anh vẫn ngần ngại nhìn vào chồng hồ sơ, chuyện đó đã trở thành một cái tật cố hữu. Có thể anh thường giở trò với mỗi người thuê nhà, và trong những kẹp hồ sơ chết tiệt kia chỉ đựng toàn giấy trắng.

Anh hiểu, anh hiểu. Chẳng khác nào một ông Malaussène⦾ bị thuyên chuyển sang quản lý nhà ở dành cho người thu nhập thấp. Leyli vặn vẹo những lọn tóc tết với ngọc trai bằng cách xoắn chúng quanh các ngón tay.

— Cảm ơn anh. Anh thật tốt bụng, Patrice ạ.

— Ờ… tôi tên là Patrick. Nhưng không sao đâu… Cả chị cũng vậy, Leyli ạ, chị cũng…

Leyli không để anh nói hết câu.

— Anh tốt bụng, nhưng nói chung, tôi thà gặp phải một gã khốn còn hơn! Tôi sẽ giở bài quyến rũ với gã, nhưng có lẽ gã sẽ dám lôi hồ sơ của tôi lên vị trí trên cùng, sẽ mắng mỏ các thư ký, sẽ đương đầu với cấp trên. Còn anh, anh lại quá trung thực. Nói cho cùng, thật tồi tệ vì tôi đã gặp phải anh.

Leyli vừa tuôn một tràng vừa nở nụ cười đầy quyến rũ. Patrick Pellegrin giữ nguyên chiếc bút lơ lửng trong không trung một lát, tự hỏi phải chăng chị đang nói đùa, rồi phá lên cười.

— Tôi sẽ cố gắng hết sức. Tôi hứa với chị như thế.

Ít ra Patrick cũng có vẻ không được chân thành bằng Patrice. Anh đứng dậy và Leyli hiểu rằng chị cũng phải làm như thế. Anh nhìn chằm chằm vào cặp kính hình con cú hất ngược lên trán người tìm thuê nhà trong một lát.

— Món đồ này thể hiện rất đúng con người chị, chị Maal ạ. Chị đến đây từ lúc còn chưa bình minh. Chị ghét ánh mặt trời. Chị là một loài chim đêm đúng không?

— Tôi đã từng như thế. Tôi đã như thế trong một thời gian dài.

Anh nhìn thấy một màn u sầu lướt qua trước mắt. Patrick Pellegrin liền kéo tấm rèm trong phòng làm việc lên, để tiếp đón, dưới ánh mặt trời Địa Trung Hải, hàng người đề nghị thuê nhà dài dằng dặc hằng ngày, còn Leyli hạ cặp kính hình con cú xuống mắt rồi bước ra ngoài.

Đúng lúc Patrick Pellegrin gấp tập hồ sơ Leyli Maal lại và chuẩn bị đặt nó lên chồng một trăm lẻ mấy hồ sơ khác sẽ được ủy ban hành chính xem xét trong ba ngày tới, với cùng lắm là chục căn hộ có thể cho thuê, thì cánh tay anh khựng lại.

Hồ sơ của Leyli Maal không có cơ may nào để được chấp thuận trước vài tháng nữa, kể cả với công việc mà chị mới tìm được! Tuy nhiên, Patrick vẫn thấy bất đắc dĩ nếu phải đặt nó vào cùng với các hồ sơ khác. Như thể việc đó sẽ khiến Leyli Maal bị liệt vào hàng vô danh cùng với vài trăm bà mẹ đơn thân gốc Phi khác đang vật lộn để nuôi sống gia đình mình, đang tìm một mái nhà, một công việc để có thể giật gấu vá vai lo cho những dịp cuối tháng.

Leyli Maal là người đặc biệt.

Patrick trầm tư hồi lâu, mắt nhìn xuống cốc cà phê mà anh đã uống cạn và cốc cà phê của Leyli, trong đó đang bập bềnh một miếng bánh màu xám bẩn thỉu, bao quanh là những vụn bánh mềm nhũn.

Leyli Maal là người không thể bị xếp loại.

Trước hết, Patrick tự hỏi, Leyli Maal có đẹp không?

Có, đó là điều không thể phản bác. Chị lanh lợi, sống động, ngẫu hứng đầy quyến rũ, nhưng Patrick nhận thấy đằng sau những ánh lấp lánh trong mắt chị là gánh nặng của những năm tháng rải đầy sự cố, bên trong chiếc váy dài bảy sắc cầu vồng của chị là một cơ thể mệt mỏi không còn phô bày ra trước bất cứ người đàn ông nào.

Anh đang tự huyễn hoặc mình chăng? Không thể nào đưa ra câu trả lời dứt khoát được, nhưng có một câu hỏi khác ám ảnh anh. Leyli Maal có thành thật không?

Qua cửa sổ, anh nhìn thấy chị đi vào nhà chờ xe buýt điểm Urdy-Milou, đứng đó, chờ đợi trong vài phút, rồi lên chuyến xe số 22, chật cứng chẳng khác nào một cái chuồng nhốt đầy gà. Anh đưa mắt nhìn theo chị cho đến khi chiếc xe buýt biến mất ở góc đại lộ Maritime, bối rối vì những cảm giác lẫn lộn của bản thân. Anh cảm thấy có sự đồng cảm bất ngờ đối với người phụ nữ giản dị và tự nhiên đó, thậm chí có lẽ anh sẽ dễ dàng đem lòng yêu chị, tuy nhiên, mặc dù không biết tại sao, anh tin chắc là Leyli đã không nói thật với anh.

Patrick ngắm nhìn những chiếc xe tải chạy dọc theo bờ kênh Caronte một lát, rồi đóng tập hồ sơ Maal lại. Sẽ có khoảng chín mươi chín bộ hồ sơ khác chất chồng lên nó trước khi hết ngày.

9h01

Thiếu tá Petar Velika quan sát từng chi tiết trong căn phòng Shénérazade với cảm giác sửng sốt pha lẫn kinh tởm. Người đàn ông trần truồng nằm dài trên giường, cứng đờ, lạnh lẽo, nhợt nhạt vì mất máu, như thể được tạc từ một tảng đá trắng tinh, nổi bật trên nền đỏ của ga trải giường, những tấm thảm họa tiết Ba Tư, những bức màn trướng nâu ánh vàng treo trên tường. Đôi mắt ông nấn ná hồi lâu trên hai cánh tay bị còng vào cột chống chiếc giường có tán che.

— Trời ơi…

Tuy nhiên, Petar Velika từng chứng kiến rất nhiều hiện trường vụ án khác, và thường là những vụ án mạng không hề có dàn cảnh. Sau khi trốn khỏi Nam Tư của Tito lúc mười lăm tuổi và để một nửa gia đình ở lại Bjelovar, ông đã vào trường cảnh sát khi mới hai mươi tuổi và chỉ mất vài tháng để tạo cho mình danh tiếng của một anh chàng rắn như thép, vững như đồng, trong như gương. Ba mươi năm sau, với phần lớn số năm dành để thu nhặt xác chết ở khắp hang cùng ngõ hẻm của thành phố Marseille, ông vẫn chưa quen được với chuyện này.

— Ông ta bị mất máu trong hơn một giờ đồng hồ. – Julo, đang đứng bên cạnh ông, nói thêm vào.

— Thế à?

— Căn cứ vào những vết đứt trên cổ tay ông ta, tôi cho rằng ông ta mất chừng năm mươi đến sáu mươi mililit máu mỗi phút. Nếu ta nhân lên với một tiếng đồng hồ thì sẽ có kết quả ngay thôi, ba nghìn sáu trăm mililit, tương đương gần một nửa tổng lượng máu trong cơ thể người, kể từ lúc đó các cơ quan nội tạng bắt đầu ngừng hoạt động, từng cơ quan một.

Velika chỉ còn lơ đễnh nghe những lời nói của viên cảnh sát phụ tá mà người ta cử đi bám đuôi ông. Một gã trai khá ổn chừng hai mươi ba tuổi, vừa mới tốt nghiệp trường cảnh sát. Ông tự hỏi điều gì đã thôi thúc một anh chàng xuất sắc như thế này xin được phân vào một phòng thảm hại như phòng do ông chỉ đạo. Julo Flores. Một trung úy cảnh sát tốt bụng, lịch sự, nhanh nhẹn, hiểu biết, gần như không gì có thể làm cho phật ý và thậm chí còn được trời phú cho chút khiếu hài hước. Toàn những thứ khiến ông khó chịu!

Vừa thỉnh thoảng gật đầu trước mặt viên phụ tá, thiếu tá Velika vừa quan sát hai cảnh sát khác đang bận rộn trong căn phòng Shéhérazade. Ảo giác về việc người ta vừa bị dịch chuyển ra ngoài dòng thời gian được tạo ra một cách hoàn hảo: một kiểu án mạng theo nghi lễ được thực hiện trong cung điện của một vị quốc vương Hồi giáo, hình phạt dành cho một tên hoạn quan dám chạm tay vào ái phi của quốc vương. Mùi hương thảo mộc xộc đầy lỗ mũi ông. Không người nào có phản xạ tắt thứ nhạc phương Đông đang phát ra từ những chiếc loa vô hình. Gót giày các cảnh sát nghiến lên những tấm thảm len, ánh đèn LumiLight lướt qua những chiếc bồn sứ và những lọ dầu argan. Căn phòng Ghénérazade không hề mạo danh cái tên của nó, người ta tưởng như mình đang ở giữa một khu chợ tại Bagdad. Ông nói với Mehdi và Ryan, hai người họ đang bận rộn lấy các dấu vân tay.

— Tôi mở cửa sổ được chứ?

— Vầng…

Velika kéo rèm và đẩy cánh cửa ra. Phép mầu đột ngột tan biến.

Cửa sổ mở ra một khoảng sân bằng bê tông, một khu để thùng rác, tiếng nhạc ngoại lai kia bị át đi bởi tiếng kêu của lũ mòng biển, tiếng những chiếc xe tải và xe buýt không ngừng lướt đi trên quốc lộ. Ông quay đầu và nhìn hồi lâu vào những biển hiệu bên cạnh trung tâm thương mại: nhà hàng Starbucks, siêu thị Carrefour, rạp chiếu phim. Những lọn tóc tết của Johnny Depp được trưng ra trên một áp phích dài năm mét rộng bốn mét. Phương Đông đã tan biến trong màn khí thoát ra từ những ống xả. Trước mặt ông không có tháp giáo đường nào, chỉ có những tòa tháp chung cư và những tháp xilô trên bến cảng. Cung điện của quốc vương Hồi giáo chỉ là một khối lập phương lợp tôn lượn sóng. Phép mầu của hiện đại.

— Thưa sếp. – Julo rụt rè lên tiếng đằng sau ông. – Đây là Serge Tisserant, quản lý khách sạn.

Trước mặt viên thiếu tá là một người đàn ông chừng bốn mươi tuổi, thắt cà vạt, có dáng dấp của một tay bán ghế sofa hoặc lò sưởi; kiểu như một tập catalog biết nói.

— Anh đến đúng lúc lắm. – Petar vừa nói vừa đưa mắt nhìn lướt quanh những bức màn trường màu tía. – Anh sẽ giải thích cho tôi biết nguyên tắc hoạt động của chuỗi khách sạn Red Corner này, hình như chúng mọc lên như nấm mấy năm vừa qua.

Viên thiếu tá vừa mỉm cười vừa quan sát Julo, anh đứng đằng sau hai người họ và ghi chép vào chiếc máy tính bảng hình chữ nhật không to hơn một cuốn sổ bỏ túi là mấy, siêu phẳng, một vật dụng mới lạ được coi là thứ thay thế cho những tập giấy mà ông đã quen vứt khắp nơi.

— Đây là một khái niệm kiểu mới về khách sạn. – Viên quản lý giải thích.

— Kể cho tôi nghe về thứ đó đi.

— À thì, đó là một thương hiệu nhượng quyền thương mại đang phát triển gần như khắp nơi trên thế giới. Ở tầng trệt có một quầy bar, và trên các tầng có các phòng nghỉ. Nguyên tắc, có thể nói như thế, là tự phục vụ. Khách hàng chỉ cần một thẻ tín dụng là có thể mở cửa phòng mình, cũng dễ dàng như việc trả phí đường cao tốc. Khách hàng được tính hóa đơn theo mười lăm phút một, rồi theo nửa giờ, rồi theo giờ. Thẻ tín dụng sẽ được ghi nợ khi ông rời khách sạn, giống như trong một bãi đỗ xe. Trong những phút tiếp theo, một nữ nhân viên quét dọn sẽ đến dọn sạch mọi thứ, và thế là căn phòng lại trống. Không cần đặt phòng, không cần tên, không có dịch vụ phòng. Một khách sạn truyền thống, ông thấy đấy thưa thiếu tá, nhưng tiện lợi hơn.

Petar lại đưa mắt nấn ná nhìn hồi lâu vào khung cảnh bài trí theo phong cách phương Đông của căn phòng.

— Hừm… Cách bài trí phòng trong khách sạn của ông, dù sao cũng không giống với cách bài trí của các phòng Formula 1⦾ nhỉ?

Khuôn mặt Tisserant biểu lộ lòng tự hào nghề nghiệp được kiềm chế ở mức hoàn hảo.

— Đây là một nét độc đáo khác của Red Corner! Các phòng được bài trí theo chủ đề. Ông đã có thời gian đi một vòng chưa? Chúng tôi có phòng Louxor, phòng Taj Mahal, phòng Montmartre, phòng Quán trọ lữ hành, phòng Điện hạ…

Viên quản lý dường như đang trong đà đọc thuộc lòng toàn bộ tờ gấp quảng cáo khách sạn. Petar cắt lời anh ta, hẳn là Julo đã tải toàn bộ các tài liệu liên quan xuống rồi.

— Các phòng được cá nhân hóa sao? Các phòng đều giống nhau ở tất cả các khách sạn Red Corner trên thế giới, đúng không?

Ngài Catalog lại tiếp tục vênh váo.

— Chính xác là giống hệt nhau! Chuyến đi giống nhau, cảnh lạ nước lạ cái giống nhau, cho dù ông đang ở nơi nào trên hành tinh này.

Câu chuyện có vẻ khiến Julo thích thú, Petar nhận thấy điều đó. Thậm chí khiến anh bị thu hút. Nói cho cùng, có lẽ đây chính là thiết kế lý tưởng dành cho những thanh niên mơ mộng chỉ nhận được đồng lương chết đói chăng? Còn ông, kiểu bài trí tạm bợ bằng giấy bồi này khiến ông choáng váng. Nếu đã thế, tại sao không làm luôn một phòng Vukovar⦾ đi? Trong phòng, hai viên cảnh sát vẫn tiếp tục bận rộn. Ryan đang tìm cách cưa đứt chiếc còng tay để giải phóng cái xác.

— Trong các phòng có camera không?

— Ông đùa sao? – Viên quản lý thốt lên, không còn làm chủ được vai diễn của một thợ tiểu thủ công bị phật ý nữa. – Tất cả các phòng nghỉ của chúng tôi đều đảm bảo sự riêng tư tuyệt đối cho khách. Bảo mật, riêng tư, cách âm…

Ái chà, Petar nghĩ, khả năng tự xưng là chúng tôi của những nhân viên một hộp đêm sẽ thay thế họ sau chưa đầy sáu tháng.

— Thế còn ở bên ngoài?

— Chúng tôi có ba camera ở bãi đỗ xe và một camera trước cửa, ghi hình 24/24 giờ.

— OK, chúng tôi sẽ kiểm tra. Và phiền anh… – Ông nhìn thẳng vào mắt người đối thoại. – … hãy tắt giúp tôi điệu nhạc Nghìn lẻ một đêm ẽo ợt này đi!

— Tôi sẽ thử xem. – Tisserant ấp úng. – Ờ… Nhạc nền ở đây cũng được điều khiển tập trung.

— Vậy thì, hãy đề nghị Sydney, Honolulu hoặc Tokyo tắt âm thanh đi!

Cuối cùng, tiếng nhạc trong phòng cũng tắt, cái xác được đưa đi, mùi hương thảo dược đã bay hết và đa số cảnh sát cũng đã rút. Petar tựa người vào khung cửa sổ, nơi duy nhất có thể ngồi trong phòng ngoại trừ tấm đệm đã biến thành một mảng bọt biển đẫm máu. Viên thiếu tá nói với người phụ tá.

— Tôi nghe câu nói đây, Julo, tôi tin chắc là cậu đã tra cứu cả chục trang web, tấn công các mạng xã hội, và đã biết danh tính đầy đủ của anh chàng tội nghiệp này.

Trung úy Flores chỉ mỉm cười.

— Trúng phóc, thưa thiếu tá! Nạn nhân tên là François Valioni. Bốn mươi chín tuổi. Đã kết hôn. Hai con. Hugo và Mélanie. Ông ta sống ở Aubagne, đường Coueste.

Petar châm một điếu thuốc, ông nhả khói về phía trung tâm thương mại.

— Cậu nhanh thật đấy, Julo ạ. Vừa nhanh vừa chính xác. Rốt cuộc, tôi sẽ tin vào tác dụng của cái kho dữ liệu chết tiệt đó.

Viên trung úy đỏ mặt, ngần ngừ một giây.

— Ờ… nghĩa là thế này, thưa sếp, chủ yếu là tôi tìm thấy ví của nạn nhân trong túi áo vest của ông ta.

Petar phá lên cười.

— Tuyệt vời! Thôi được, tiếp tục đi, còn gì nữa không?

— Một chi tiết lạ lùng. Chính Ryan đã nhận ra nó, một vết tiêm ở cánh tay phải, nhưng không phải mũi tiêm vớ vẩn đâu. Người ta… người ta đã lấy máu của ông ta!

— Gì cơ?

— Khi máu vẫn còn trong người ông ta, đương nhiên. – Petar đánh giá cao chút hài hước tàn nhẫn của viên phụ tá. Tiếp xúc lâu với ông, anh chàng này bắt đầu tự buông thả dần dần. – Rất có khả năng kẻ sát nhân, trước khi cắt mạch máu cổ tay, đã lấy máu của ông ta bằng một bộ đồ nghề.

Julo trưng ra một kim tiêm, một ống nghiệm nhỏ và một tăm bông vấy máu, tất cả đựng trong một chiếc túi nilon trong suốt.

— Một bộ đồ nghề có giá chừng mười lăm euro, chúng tôi đã tìm thấy nó trong thùng rác. Thứ này cho biết nhóm máu của ông ta trong vòng chưa đầy sáu phút.

Petar ném mẩu thuốc vào khoảng không. Hẳn nó sẽ rơi xuống mui những chiếc xe đậu xung quanh mấy thùng chứa của khách sạn Red Corner.

— Chờ đã, Julo, nếu tôi tóm tắt lại, thì gã này, François Valioni, đã hoàn toàn tự nguyện vào phòng Shéhérazade, nhiều khả năng là cùng với kẻ sắp sát hại ông ta, rồi để cho kẻ đó còng tay ông ta vào giường, sau đó kẻ sát nhân lấy máu của ông ta, chờ xem kết quả, tiếp đó, cắt cổ tay ông ta rồi chuồn đi, để lại sau lưng một xác chết theo chuẩn đạo Hồi.

— Ta có thể tóm tắt như thế.

— Chết tiệt…

Petar dừng lại một lát để suy nghĩ, rồi nói tiếp bằng giọng mia mai:

— Có thể chúng ta đang dây với một kẻ tìm người hiến máu. Đó là một chuyện khẩn cấp, là vấn đề sống còn. Hắn xét nghiệm một người hiến máu tiềm năng, và bởi vì máu ông ta không tương thích, hắn nổi cáu và hạ sát ông ta. Valioni thuộc nhóm máu gì?

— O+. – Trung úy Flores trả lời. – Giống như hơn một phần ba dân Pháp. Hoặc đây là một phim Chạng vạng remake.

Petar đảo mắt ngạc nhiên.

— Một câu chuyện về ma cà rồng. – Julo giải thích.

— Thế à? Thế tại sao cậu không thể nói là Dracula như tất cả mọi người? Thôi được, chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc hỏi xem mấy chiếc camera bên ngoài đã nhìn thấy những gì. Người cùng François Valioni vào phòng này chắc chắn là một cô gái. Tôi thấy khó có khả năng người cha trung hậu đó lại phiêu lưu ở đây với một gã bạn trai.

Julo Flores vẫn đứng trước mặt cấp trên. Anh lấy ra hai chiếc túi nhỏ trong suốt.

— Chúng tôi cũng tìm thấy thứ này trong túi áo Valioni.

Petar cúi người để xem xét kỹ những thứ đựng trong hai cái túi niêm phong. Trước tiên, ông phát hiện ra một chiếc vòng màu đỏ, bằng nhựa, có đục lỗ, kiểu vòng người ta thường đeo vào cổ tay trong các khách sạn all inclusive⦾, rồi nhìn lâu hơn vào chiếc túi thứ hai có chứa… sáu vỏ ốc. Sáu vỏ ốc gần như giống hệt nhau, hình bầu dục, màu trắng và có ánh xà cừ, dài chừng ba centimet, xẻ dọc ở giữa bởi một khe hẹp hình răng cưa.

— Tôi chưa bao giờ nhìn thấy loại giáp xác này trên các bãi biển ở đây! – Viên thiếu tá bình luận. – Bí ẩn số 2. Anh chàng François trung hậu của chúng ta có thể nhặt được những thứ này ở đâu nhỉ?

— Ông ta đi công tác, thưa sếp.

— Cậu tìm được cả nhật ký công việc của ông ta sao?

— Không, nhưng trong ví ông ta có những tấm danh thiếp. François Valioni đứng đầu bộ phận tài chính của một tổ chức hỗ trợ người nhập cư, Vogelzug.

Vẻ bất đắc chí của Petar Velika đột nhiên nhường chỗ cho thái độ quan tâm thực sự.

— Vogelzug, cậu chắc chứ?

— Tôi có thể cho ông xem thẻ nhân viên của ông ta, có ảnh ông ta trên tấm thẻ, và…

— Được rồi, được rồi… – Nỗi tò mò của Petar Velika bỗng biến thành thái độ hấp tấp đầy lo lắng. – Để tôi ở một mình vài phút, tôi phải tổng kết lại… Này, đi mua cho tôi một cốc cà phê ở quán Starbucks cạnh đây nhé.

Trung úy Julo Flores, lúc đầu thì ngạc nhiên, ngần ngại rồi hiểu ra rằng cấp trên của mình không nói đùa, anh rời khỏi căn phòng.

Ngay khi viên phụ tá đi đủ xa, Petar Velika kiểm tra để chắc chắn là chỉ còn mình ông, rồi lấy điện thoại ra.

Bàn tay ông khẽ run.

Vogelzug.

Không thể là trùng hợp ngẫu nhiên được.

Ông vẫn ngắm nghía các tòa nhà, bến cảng, khu công nghiệp, và ở phía bên kia, ngay gần đó, là bến du thuyền. Sự pha trộn giữa nghèo khổ thuần chất và những gì đồng tiền mang lại.

Rắc rối mới chỉ bắt đầu thôi.

10h01

— Chúng cháu có thể uống thêm coca không, ông nội?

Jourdain Blanc-Martin gật đầu. Ông sẽ không bắt lũ cháu phải nhịn uống coca hay bất cứ thứ gì khác, nhất là vào ngày sinh nhật của chúng. Ông đang đứng ngoài hiên, cách khu vui chơi của lũ trẻ một đoạn, tay cầm một cốc cà phê espresso.

Rốt cuộc, mọi chuyện đều diễn ra suôn sẻ.

Hơi khó khăn khi phải tự thú nhận điều này, nhưng ông thấy lo lắng về việc tổ chức sinh nhật cho Adam và Nathan, hai đứa con song sinh của Geoffrey con trai ông, người đang cô đơn vì vợ vừa đi Cuba hai tuần, còn nhiều hơn là về việc tổ chức hội nghị chuyên đề của Frontex ba ngày nữa sẽ diễn ra ở Cung hội nghị thành phố Marseille. Hơn một nghìn đại biểu tham dự. Bốn mươi ba nước thành viên. Các nguyên thủ quốc gia, những ông chủ doanh nghiệp… Cứ như thể toàn bộ những nỗ lực đã đổ ra xung quanh người nhập cư không còn thực sự khiến ông quan tâm. Hẳn là đã đến lúc dứt khoát trao quyền cho Geoffrey, anh cả trong số ba đứa con trai của ông, để ngồi trong một chiếc ghế vải gập và ngắm mặt trời lặn trên bến cảng Port-de-Bouc. Để nhấm nháp một cốc cà phê không phải do nữ thư ký mang đến. Để nghe tiếng cười của những đứa trẻ, không phải là qua hệ thống loa của bộ thoại rảnh tay trên một chiếc xe hơi.

Bữa tiệc sinh nhật này diễn ra vô cùng tốt đẹp, nhưng phải nói rằng ông đã trả cho nó một cái giá cao. Năm hoạt náo viên phục vụ mười bốn đứa nhóc. Chỉ toàn các bạn cùng lớp ở trường Montessori les Oliviers. Các bậc phụ huynh không phải dạng thiếu thốn, tuy nhiên đã bị ông làm cho kinh ngạc khi ông đón họ trước bể bơi được đặt trên tầng sáu trong biệt thự của mình, biệt thự Lavéra, từ đó có thể nhìn ra vịnh Fos, cảng Port-Saint-Louis-du-Rhône, ranh giới của vùng Camargue, đến tận các bãi biển tại mũi Carro. Hãy đến tay không, thiệp mời ghi rõ, không mang theo quà, chỉ cần mang quần áo bơi.

Những đài phun nước soda, những kim tự tháp bánh kẹo, cơn mưa giấy màu. Một bữa tiệc xa hoa dành cho lũ nhóc con.

Từ túi áo bên phải của Jourdain vang lên tiếng đàn violon chơi bài Adagio của Barber⦾: chuông điện thoại di động của ông. Ông không nghe máy. Không phải bây giờ. Ông ngạc nhiên trước tài khéo léo của các hoạt náo viên. Một người đóng vai Peter Pan, một cô gái khá nhỏ nhắn đóng vai tiên Tinkerbell, cô gái thứ ba đóng vai một người da đỏ, còn tất cả lũ trẻ được cải trang thành cướp biển. Ở giữa bể bơi, có buộc một hòn đảo lớn bơm hơi, được khoảng chục con cá sấu nhựa bảo vệ. Lũ trẻ chèo thuyền làm bằng những tấm đệm giữa lũ bò sát vô hại, để đến được hòn đảo và lấy những đồng tiền vàng bằng sô-cô-la rải đầy bề mặt đảo. Rõ ràng là chúng rất thích.

Jourdain bỏ lơ lũ thủy thủ nhóc con một lát, để ngắm nghía quang cảnh trải rộng đằng trước hàng hiên. Ở hướng chính Nam, sừng sững những tòa chung cư trong khu dân nghèo của Les Aigues Douces, khu phố nơi ông đã lớn lên. Bên dưới ông, cách hàng rào chừng vài trăm mét, dưới chân căn biệt thự của ông, cảng biển Renaissance trải dài. Tầm nhìn tuyệt đẹp trông ra Escaillon, du thuyền của ông, và Maribor, du thuyền nhỏ hơn và nữ tính hơn của con dâu ông.

Chỉ vài trăm mét, thế nhưng lại là hai thế giới, nơi mọi thứ đối lập nhau. Hai thế giới kín bưng. Ông đã mất năm mươi năm để chuyển từ thế giới này sang thế giới kia. Đó là niềm tự hào tột đỉnh của ông, vì đã gây dựng được cơ nghiệp cách tòa nhà nơi ông sinh ra chưa đầy một kilomet, đã leo lên tất cả các bậc thang mà không phải bỏ xứ mà đi, vì có thể từ trên cao nhìn xuống những tòa nhà từng đổ bóng đè bẹp tuổi thơ ông, giống như một tù nhân mua ngôi nhà ngay cạnh nhà tù nơi anh ta từng bị giam giữ để tận hưởng thấm thía hơn cảm giác tự do.

— Chúng cháu có thể uống thêm coca được không, ông nội?

— Cháu muốn uống bao nhiêu cũng được, cháu yêu ạ.

Nathan đã uống đến cốc thứ tư. Nó đã không còn giống với đứa em song sinh nữa. Mỗi năm nó tăng thêm một kilo. Đó là một cách tiện lợi để phân biệt chúng, mặc dù Geoffrey