← Quay lại trang sách

Phần một

6.11 Ghế khuyết ngoài dự kiến xuất hiện tính từ khi:

(a) ủy viên hội đồng không thể tuyên bố nhậm chức trong thời hạn hợp lý, hoặc

(b) hội đồng nhận được đơn từ chức của ủy viên; hoặc

(c) ủy viên hội đồng qua đời

Charles Arnold Baker

Điều lệ Ban quản trị hội đồng địa phương

In lần thứ Bảy

❀❀❀

CHỦ NHẬT

Barry Fairbrother thật ra không muốn ra ngoài ăn tối chút nào. Cơn nhức đầu bám riết ông suốt kỳ nghỉ cuối tuần, đã thế, ông còn phải đua với hạn nộp bài cho tòa soạn.

Nhưng vợ ông suốt bữa trưa đã không thèm nói năng gì, hẳn tấm thiệp mừng kỷ niệm ngày cưới thôi thì không đủ bù đắp chuyện im ỉm khóa cửa làm việc suốt sáng. Đã thế bài ông đang viết lại về Krystal, Mary chẳng ưa gì con bé dù đã khéo giấu.

- Mary này, ta ra ngoài ăn tối nhé. - Ông vờ hào hứng để xua tan không khí lạnh lẽo. - Thế mà đã mười chín năm rồi đấy, các con! Mười chín năm đấy nhé, mẹ các con bây giờ vẫn tươi tắn như hoa!

Thấy vợ đã dịu đi và chịu mỉm cười, ông liền gọi điện thoại cho câu lạc bộ golf đặt bàn vì chỗ này gần và thể nào họ cũng được dành chỗ. Ông gắng tạo cho vợ những niềm vui nho nhỏ như thế vì dần nhận ra suốt hai mươi năm qua ông đã khiến bà thất vọng trong biết bao nhiêu chuyện lớn khác. Tất nhiên không lần nào là do ông cố ý cả. Đơn giản là họ bất đồng về chuyện nên dành thời gian cho những ưu tiên nào trong đời.

Bốn đứa con cũng đã khá lớn nên không cần thuê người trông trẻ. Khi ông chào tạm biệt, bọn chúng vẫn đang dán mắt vào tivi, chỉ có đứa bé nhất ngoái đầu giơ tay vẫy chào lại.

Cơn nhức đầu vẫn dội từng cơn thùm thụp khi Barry de xe rồi lái xuyên qua thị trấn Pagford nhỏ bé xinh đẹp, hai vợ chồng đã dọn về đây ngay sau đám cưới. Họ xuôi xuống Church Row, con phố dốc thoải, hai bên sừng sững những dinh thự xa hoa kiểu Victoria đắt đỏ bậc nhất khu này, vòng qua góc đường có ngôi nhà thờ xây theo kiến trúc Gôtíc phục hưng, ông từng vào xem hai cô con gái sinh đôi diễn vở Joseph và chiếc áo choàng muôn màu kỳ diệu trong đó. Họ tiếp tục băng ngang quảng trường, từ đó thấy rõ được bộ khung đổ nát của tòa tu viện cũ vạch bóng đen sẫm trên nền trời tím than, che khuất cả đường chân trời.

Vừa đánh tay lái rẽ theo các khúc cua quen thuộc, Barry vừa nghĩ đến mấy lỗi sai không tránh khỏi lúc vội vội vàng vàng viết cho xong rồi email bài báo cho tờ Yarvil và District Gazette. Bình thường ông là người hoạt khẩu và cuốn hút, nhưng thể hiện thế mạnh đó trong bài viết thật chẳng dễ chút nào.

Cách quảng trường bốn phút chạy xe, câu lạc bộ golf chỉ quá khỏi mấy căn nhà gỗ cũ kỹ một chút, thị trấn chạy dài ra tới đó thì đuối dần rồi chấm dứt. Barry đậu xe ngoài nhà hàng Burdie của câu lạc bộ rồi nán lại giây lát cho vợ dặm lại son môi. Làn gió đêm mát mẻ ve vuốt mặt ông một cách dễ chịu. Ông nhìn đường golf nhòe dần trong bóng hoàng hôn, tự hỏi sao mình vẫn cứ giữ chân hội viên ở chỗ này làm gì. Ông vốn chơi golf dở tệ, cú swing chuệnh choạng còn điểm chấp thì cao. Khi chơi cũng chẳng bao giờ được yên vì điện thoại liên tục réo. Cơn đau đầu của ông trở nên nhức nhối hơn bao giờ hết.

Mary tắt đèn cạnh gương trên xe rồi sập cửa. Barry bấm nút khóa tự động trên chìa; đôi giày cao gót của bà vợ gõ lóc cóc trên mặt đường, hệ thống khóa xe kêu bíp, ông thấy buồn nôn và tự hỏi không biết cảm giác này có dịu bớt đi khi dùng bữa không.

Cơn đau xé chưa từng thấy chợt xoáy vào não ông như dùi. Ông thậm chí không cảm thấy đau khi đầu gối quỵ xuống đập vào mặt đường lạnh lẽo; sọ ông như ngập trong máu và lửa nóng rừng rực; cơn tra tấn thật quá sức, nhưng ông vẫn phải quằn quại chịu đựng cả phút trước khi rơi vào hư vô.

Mary rú lên. Vài người đàn ông ở trong bar chạy lại. Một người chạy vội vào tòa nhà thử tìm mấy vị bác sĩ đã nghỉ hưu của câu lạc bộ. Một cặp vợ chồng có biết nhà Barry nghe động vội bỏ món khai vị đang dùng dở trong nhà hàng chạy ra giúp một tay. Ông chồng rút di động gọi 999.

Xe cấp cứu nằm tận bên thành phố Yarvil, như vậy phải mất hai mươi lăm phút mới tới được. Đến khi ngọn đèn xanh chớp tắt hiện ra thì Barry đã nằm dài bất động trên đất, trên đống nôn mửa của chính mình; Mary phục bên cạnh, quần tất rách toạc chỗ đầu gối, vừa nắm chặt tay chồng vừa nức nở khóc gọi.

THỨ HAI I

- Bố gắng mà trấn tĩnh nhé - Miles Mollison nói trước, anh đang đứng trong gian bếp của một trong những dinh thự hoành tráng trên phố Church Row.

Miles đã định đợi đến sáu rưỡi sáng mới gọi. Đêm qua ngủ nghê thật chẳng ra làm sao, anh thức chong chong, thi thoảng mới chợp đi được một giấc ngắn mệt mỏi. Lúc bốn giờ, anh thấy vợ cũng đã tỉnh, hai người thì thầm nói chuyện với nhau trong bóng tối một lúc. Dù còn sốc và sợ hãi khi nhắc tới vụ tai nạn phải chứng kiến bất đắc dĩ ấy, Miles vẫn cứ ngứa ngáy sốt ruột muốn báo ngay tin này cho ông bố. Lúc đầu anh định ráng đợi đến bảy giờ, nhưng lại e có người hớt trước nên gọi luôn.

- Có chuyện gì? - Howard hỏi, giọng lão trầm vang, pha chút kim. Miles bật loa ngoài cho cô vợ Samantha cùng nghe. Chiếc áo ngủ màu hồng nhạt của cô dính mấy vệt nâu, cô đang tranh thủ bữa dậy sớm bôi một vốc đầy kem nhuộm rám nắng lên làn da đã bợt đi. Căn bếp nồng mùi café tan và dầu dừa tổng hợp.

- Fairbrother chết rồi. Gục ở câu lạc bộ golf tối qua. Lúc đó con với Sam đang ăn tối ở nhà hàng Birdie.

- Cái gì, Fairbrother chết rồi hả? - Lão Howard rống lên.

Rõ ràng là lão luôn mong làm một cú ngoạn mục lật nhào địa vị của Barry Fairbrother, nhưng không ngờ đến cái chết này.

- Gục ngay bãi xe - Miles lặp lại

- Trời đất. Tay ấy mới quá bốn chục tuổi, phải không? Quỷ thần ơi.

Miles và Samantha nghe tiếng lão Howard thở phì phò như ngựa trong ống nghe. Lão hay bị khó thở vào buổi sáng.

- Mà sao thế? Do tim à?

- Hình như não có vấn đề, mấy bác sĩ bảo thế. Tụi con đi cùng bà Mary tới bệnh viện, rồi...

Nhưng lão Howard không nghe tiếp. Miles và Samantha nghe tiếng lão văng vẳng từ ống nghe.

- Barry Fairbrother! Chết rồi! Thằng Miles gọi báo!

Miles cùng Samantha nhấp café, chờ lão Howard quay lại. Áo ngủ của Samantha trễ bung khi cô ngồi bên bàn bếp, để lộ đường cong của bộ ngực phì nhiêu đang tì lên cánh tay. Ở tư thế bị ép lại như vậy, đôi vú trông có vẻ phồng căng và mịn màng hơn khi đong đưa không áo ngực. Phần da phía trên vú trông như da thuộc hằn mấy đường nhăn li ti không mất đi ngay cả khi không tì ngực như thế nữa. Lúc trước cô đã tắm nắng quá nhiều.

- Sao? - Howard lại cầm máy lên. - Con nói vụ bệnh viện thế nào?

- Con với Sam đi theo xe cấp cứu - Miles đáp rõ ràng - Hộ tống bà Mary và cái xác.

Samantha để ý khi kể lại lần này, Miles nhấn mạnh vào khía cạnh có thể xem là “hút khách” hơn trong vụ tai nạn đó. Cô không trách anh. Chuyện vừa xảy ra đâu có dễ chịu gì, thế nên một khi đã gắng trải qua được thì họ có quyền kể cho người khác chứ. Chắc mình chẳng thể nào quên được cảnh tượng ấy, cô nghĩ, Mary thì kêu khóc, mắt Barry hãy còn mở he hé trên gương mặt bị chụp ống thở như đeo rọ mõm; cô và Miles gắng nhét vào đầu lời giải thích của nhân viên cấp cứu; lòng xe chật chội xóc nảy; những cửa sổ xe tối đen; nỗi kinh hoàng bao phủ.

- Trời đất ơi! - Hovvard lại rên lên lần thứ ba, mặc kệ bà Shirley đang khẽ hỏi gì đó phía sau, lão chỉ tập trung nghe Miles. - Ông ta cứ thế là gục xuống bãi xe mà chết hả?

- Vâng. - Miles đáp - Con vừa nhìn thấy ông ta là đã biết hết đường cứu rồi.

Anh nói dối, tránh nhìn vợ khi nói câu này. Cô hãy còn nhớ cảnh anh vòng cánh tay rộng ôm lấy đôi vai run rẩy của Mary an ủi: Ông ấy không sao đâu... ông ấy sẽ ổn thôi...

Nhưng dù sao đi nữa, Samantha nhân nhượng nghĩ, muốn tỏ ra công bằng với Miles, làm sao biết được chuyện gì xảy ra khi mà người ta chụp mặt nạ cho ông ấy, lại còn tiêm mấy mũi nữa? Khi đó dường như họ đang gắng cứu Barry, và chẳng ai biết chắc mọi chuyện là vô vọng trước khi cô bác sĩ trẻ bước lại chỗ bà Mary đang đợi trong bệnh viện. Lạ lùng là Samantha hãy còn nhớ rõ mồn một mọi thứ, gương mặt chết điếng, trôi sạch phấn son của Mary, vẻ điềm tĩnh pha chút thận trọng của cô bác sĩ trẻ tuổi đeo kính, tóc chải mượt, mặc chiếc áo choàng trắng... Cảnh giống như trong mấy phim truyền hình dài tập kinh điển, chỉ khác rằng đây là sự thật...

- Không có dấu hiệu gì cả. - Miles đang nói tiếp - Mới thứ Năm vừa rồi Gavin còn chơi bóng quần với ông ấy mà.

- Lúc đó ổng có vẻ vẫn bình thường hả?

- Vâng. Còn thắng cả Gavin.

- Trời đất ơi. Đúng là chuyện gì cũng có thể xảy ra. Chờ đã, mẹ con muốn nói vài câu này.

Nghe lách cách một lúc, rồi giọng dịu dàng của bà Shirley vang lên trong ống nghe.

- Thật khủng khiếp quá, Miles ạ. Con không sao chứ?

Samantha hớp một hớp to café, vụng về để café tràn qua khóe miệng xuống cằm bèn lấy luôn ống tay áo quệt miệng và ngực. Miles liền chuyển sang giọng anh thường dùng khi nói với mẹ: trầm hơn, kiểu không-có-gì-làm-con-cuống, đầy sức thuyết phục và lý lẽ. Đôi khi, nhất là lúc say, Samantha nhại kiểu Miles nói chuyện với mẹ “Mẹ đừng lo gì. Có con ở đây. Chàng lính nhỏ của mẹ đây.” “Con trai tuyệt vời của mẹ ơi, con mới to khỏe, dũng cảm thông minh làm sao chứ.” Sau này, có một hai lần Samantha còn diễn trò này trước người khác khiến Miles vừa bực vừa ngại, nhưng vẫn phải vờ cười phá lên. Lần trước họ đã cãi nhau một trận tơi bời trên đường lái xe về nhà cũng vì thế.

- Con đi cùng cô ấy suốt quãng đường đến bệnh viện à?- Bà Shirley hỏi.

Chẳng tự nguyện gì đâu - Samantha nghĩ, tới nửa đường thì hai đứa đều chịu hết nổi, chỉ mong mau cho thoát nợ.

- Ít nhất con cũng phải làm thế chứ mẹ. Chỉ tiếc là không giúp được nhiều hơn.

Samantha đứng dậy ra chỗ lò nướng bánh mì.

- Hẳn là Mary mang ơn con lắm - Shirley nói. Samantha mở túi bánh mì, lấy ra bốn lát nhét vào khe nướng. Giọng Miles đã trở nên tự nhiên hơn.

- Vâng, lúc các bác sĩ kể, ý con là khẳng định rằng ông ấy chết hẳn, Mary muốn gọi Colin và Tessa Wall lên. Sam gọi cho vợ chồng nhà ấy, chúng con đợi họ lên tới nơi rồi mới về.

- Ồ, may cho Mary là có tụi con ở đó - Shirley nói. - Bố muốn nói chuyện tiếp này Miles. Mẹ đưa máy cho bố nhé. Nói chuyện sau nhé.

- Nói chuyện sau nhé - Samantha lắc lắc đầu, dài giọng nhại từ chỗ đặt ấm nước. Sau một đêm mất ngủ, cặp mắt màu hạt dẻ của cô hằn tia đỏ, và trò giễu nhại càng khó chịu hơn. Trong lúc lật đật dỏng tai nghe Howard nói gì, cô vô ý làm rơi kem nhuộm rám da vào vành bếp.

- Hay là tối nay con với Sam ghé đây đi - Lão Howard lại oang oang - Khoan, chờ tí, mẹ con nhắc tối nay có hẹn chơi bài với nhà Bulgens. Vậy mai nhé. Đến ăn cơm. Khoảng bảy giờ.

- Con chưa biết nữa - Miles đáp, liếc mắc nhìn Samantha. - Để con hỏi xem Sam có bận gì không.

Nhưng cô không hề tỏ ý muốn đi hay không. Không khí trong bếp có vẻ nhẹ hẳn đi sau khi Miles gác máy.

- Bố mẹ bất ngờ lắm - Miles nói, như thể nãy giờ vợ anh chẳng nghe thấy gì.

Họ im lặng ăn bánh mì nướng, uống café mới pha. Trong khi ăn, tâm trạng Samantha có khá hơn. Cô nhớ lúc sáng sớm, khi giật mình thức dậy trong phòng ngủ tối đen, mình đã mừng và nhẹ nhõm thế nào khi cảm thấy Miles nằm cạnh, cao lớn, bụng to, người thoảng mùi cỏ vetiver và mùi mồ hôi đọng. Rồi cô tưởng tượng cảnh mình sẽ kể cho khách hàng trong tiệm nghe chuyện có người quỵ xuống chết ngay trước mặt thế nào, và mình đã tử tế đi theo đến bệnh viện ra sao. Cô nghĩ cách làm sao thêm mắm dặm muối cho chuyến đi đó và đoạn cao trào là lúc gặp bác sĩ. Vẻ trẻ trung của người phụ nữ điềm đạm đó dường như làm cho tin xấu càng khó chấp nhận hơn. Đáng ra họ phải giao nhiệm vụ báo tin cho bác sĩ nào đứng tuổi hơn chứ. Thế rồi, khi đã vui vẻ hơn lên, cô nhớ ra ngày mai mình có hẹn với đại diện bán hàng khu vực Champêtre, cô và tay này đã tán tỉnh nhau tí đỉnh khá vui trên điện thoại.

- Anh phải đi thôi - Miles nói, uống cạn cốc café, liếc mắt nhìn màu trời sáng rõ ngoài cửa sổ. Anh thở dài, vỗ vai vợ khi đem bỏ cốc đĩa bẩn vào máy rửa bát.

- Lạy chúa, thế nhưng vụ này cũng làm mọi chuyện đâm ra đúng kế hoạch, phải không?

Miles lắc lắc mái tóc xám cắt sát, bỏ ra khỏi bếp.

Đôi khi Samantha thấy Miles thật lố bịch, thậm chí là đần độn. Nhưng cũng có lúc cô thích vẻ phô trương của anh, nhất là trong mấy dịp long trọng. Dù sao thì sáng nay cũng nên ra vẻ trang nghiêm đạo mạo một chút. Cô ăn nốt bánh mì, dọn dẹp bữa sáng rồi tập trung nghĩ làm sao kể lại chuyện này cho hay ho với tay trợ lý.

II

- Barry Fairbrother chết rồi - Ruth Price hào hển thông báo.

Cô đi như chạy qua lối mòn lạnh lẽo trong vườn để kịp gặp chồng vài phút trước khi anh ta đi làm. Không kịp dừng lại để cởi áo choàng, cô mang nguyên khăn quàng găng tay lao vào nhà bếp, chỗ Simon và hai cậu con trai tuổi teen đang ăn sáng.

Ông chồng sững sờ, chậm rãi bỏ xuống miếng bánh mì nướng chưa kịp đưa tới miệng. Hai cậu con trai đã sẵn sàng trong bộ đồng phục đi học không mấy quan tâm, hết nhìn bố lại nhìn mẹ.

- Các bác sĩ nói có lẽ là chứng phình mạch - Ruth vừa nói vừa rút găng, tháo khăn và cởi nút áo khoác, hơi thở hãy còn hơi gấp gáp. Cô thuộc tạng người gầy gò xám xịt, cặp mắt ủ rũ hùm hụp, bộ đồng phục y tá màu xanh cứng nhắc khá hợp với cô. - Ông ta gục xuống câu lạc bộ golf, Sam và Miles Mollison đưa ông ấy vào viện, rồi sau Colin với Tessa Wall cũng vào...

Cô đi vội ra hiên treo đồ đạc lên rồi quay vào kịp đáp lời Simon vừa quát hỏi:

- Cái gì mà bình mạch?

- Phình, phình mạch. Nghĩa là động mạch chính trong não vỡ ra.

Cô lướt lại chỗ đặt ấm nước, bật lên, rồi vừa quét vụn bánh mì nướng rơi vãi quanh lò vừa nói không ngừng.

- Ông ấy xuất huyết não ghê lắm. Bà vợ ông ấy, tội ơi là tội, bà ấy suy sụp hẳn...

Đột nhiên bị xúc động, Ruth nhìn qua cửa sổ nhà bếp, bãi cỏ bị sương giá đóng cứng trắng xóa, bên kia thung lũng là tu viện ảm đạm in bộ khung trơ trụi lên nền trời xám ánh hồng, tầm nhìn bao quát khắp thị trấn chính là niềm tự hào lớn nhất của Nhà Trên Đồi. Thị trấn Pagford về đêm chỉ thấy vài đốm sáng lấp lánh trong thung lũng sâu đen kịt, giờ ló dạng trong ánh bình minh lạnh lẽo. Ruth ngó ra ngoài nhưng không thấy gì cả: cô còn mãi mường tượng cảnh ở bệnh viện, khi Mary ra khỏi phòng đặt xác Bary, mọi thiết bị hồi sinh gắn vào người ông đều bị tháo bỏ. Ruth Price thường cảm thấy thương cảm mạnh mẽ và chân thành nhất với những người mà cô nhận thấy giống mình. “Không, không, không”, Mary rên rỉ, kiểu phủ nhận đầy bản năng ấy dội đúng vào lòng Ruth, vì cô thoáng nhận ra chính mình trong hoàn cảnh hệt như thế...

Không chịu nổi ý nghĩ ấy, cô quay sang nhìn Simon. Mái tóc nâu sáng của anh ta vẫn còn khá dày, vóc dáng hầu như vẫn dẻo dai như thuở hai mươi, còn những nếp nhăn nơi khóe mắt chỉ khiến Simon trông hấp dẫn thêm. Nhưng khi trở lại nghề y tá sau một thời gian dài gián đoạn, Ruth đã chứng kiến cả triệu cách mà cơ thể con người đi dần tới ngưỡng hư hoại. Hồi trẻ, cô ít chú ý hơn, giờ mới cảm nhận rõ con người ta hãy còn sống tới giờ là chuyện kỳ diệu đến thế nào.

- Họ không làm gì cho ông ấy à? - Simon hỏi - Nút cái lỗ ấy lại không được sao?

Giọng anh ta có vẻ cáu kỉnh, như thể giới y khoa lại phạm lỗi cẩu thả trong nghề và từ chối chữa chạy một ca đơn giản rõ ràng như thế.

Andrew rùng mình trong cơn khoái trá cuồng nộ. Dạo này nó phát hiện ra cứ mỗi khi mẹ dùng thuật ngữ y học nào đó là ông bố liền dùng lời thô lỗ đập lại. Xuất huyết não ồ ạt. Nút cái lỗ. Mẹ nó không nhận ra ông bố có ý gì. Bà chưa khi nào nhận ra cả. Andrew nhai món ngũ cốc điểm tâm, chiêu nó xuống với lòng căm ghét sôi sục.

- Lúc ông ấy được đưa đến bệnh viện thì đã quá trễ rồi - Ruth đáp, nhúng mấy túi trà vào bình. - Ông ấy chết trên xe cứu thương, ngay trước khi đến được bệnh viện.

- Chết tiệt thật - Simon hầm hừ - Ông ta bao nhiêu tuổi rồi, bốn mươi hả?

Nhưng Ruth đã nhãng đi vì chuyện khác.

- Kìa Paul, tóc gáy con rối bù kia kìa. Con có chải đầu không đấy?

Cô rút trong túi xách ra cái lược, ấn vào tay cậu con nhỏ.

- Không có dấu hiệu gì trước đó à? - Simon hỏi trong khi Paul xọc cây lược vào mớ tóc dày.

- Vài ngày trước ông ấy bị đau đầu nặng lắm, dấu hiệu quá rõ còn gì.

- À - Simon vừa nói vừa nhai bánh mì - Thế mà ông ta cứ để kệ thế à?

- À, vâng, ông ấy không hề ngờ tới chuyện này.

Simon nuốt miếng bánh trong miệng xuống.

- Đấy, thấy chưa? - Simon vênh vang bảo - Phải biết tự coi sóc bản thân chứ.

Thông minh ghê nhỉ - Andrew điên giận nghĩ; nghe mới sâu sắc làm sao. Thế nghĩa là Barry Fairbrother bị vỡ tung não hoàn toàn do lỗi của ông ấy đấy. Đồ khốn kiếp tự mãn, Andrew quát thầm trong đầu.

Simon trỏ con dao vào cậu con lớn: “À, nhân thể nói luôn. Nó phải đi mà tìm việc đi. Cái thằng Mặt Pizza kia kìa.”

Ruth giật mình ngoảnh lại nhìn hai bố con. Mấy nốt mụn trên gò má đỏ tía của Andrew tím lại, lồ lộ bóng loáng khi nó chúi xuống bát bột ngũ cốc màu nâu nhạt của mình.

- Đúng thế - Simon nói - thằng nhãi lười biếng này phải học cách cày tiền đi là vừa. Nếu nó muốn hút thuốc thì cứ tự lấy lương mà mua. Không có tiền tiêu vặt gì nữa sất.

- Andrevw - Ruth rền rĩ - chẳng lẽ con..?

- Đúng thế đấy. Tôi bắt gặp nó hút trong kho củi - Giọng Simon đầy vẻ ác ý.

- Kìa Andrew!

- Đừng hòng xin tiền nữa. Mày thèm khói thì tự đi mà mua - Simon bảo.

- Nhưng mà anh, - Ruth thút thít nói - mình đã thỏa thuận là con nó đang sắp phải thi...

- Xem cái kiểu nó chơi bời như thế thì qua môn nào ăn may môn đấy thôi. Thế thì đi làm cho McDonald sớm đi, cho nó quen. - Simon vừa nói vừa đứng dậy xô ghế ra, khoái trá trước ánh nhìn của Andrew, mặt lộ vẻ độc địa - Vì chẳng ai nuôi mày thi lại đâu con ạ. Đậu hoặc chấm hết.

- Nói gì thế anh Simon - Ruth khẽ trách.

- Sao hả?

Simon sầm sầm xông về phía bà vợ. Ruth co rúm người dựa vào bồn rửa. Chiếc lược nhựa màu hồng tuột khỏi tay thằng Paul.

- Tôi không muốn dung dưỡng cái thói đó của thằng đần này! Cái thói láo lếu của nó, ai cho nó thở khói phì phì trong kho củi của tôi!

Khi nói tới “của tôi” Simon đập tay vào ngực đánh thịch khiến Ruth phải nhăn mặt.

- Tôi mang tiền về nhà từ hồi mới là thằng nhãi con. Nếu nó muốn hút thì cứ việc tự kiếm mà trả, nghe chưa? Nghe rõ chưa?

Anh ta dí sát vào mặt Ruth.

- Vâng, Simon - Cô lí nhí đáp.

Bát ngũ cốc của Andrew dường như đã chảy thành nước. Nó mới tự thề với chính mình cách đây chưa đầy mười ngày, lẽ nào thời điểm đó lại tới sớm thế? Nhưng Simon đã bước khỏi nhà bếp ra phía hiên. Ruth, Andrew lẫn Paul vẫn bất động, như thể họ đã ngầm hứa không nhúc nhích khi ông bố đi khỏi.

- Cô có nhớ đổ xăng không đấy hả? - Simon gào lên, cứ mỗi lần cô lấy xe đi làm ca đêm là anh ta lại hỏi thế.

- Có đấy! - Ruth gọi với ra, cố gắng làm cho câu đáp có vẻ bình thường vui vẻ.

Cánh cửa trước kêu lách cách rồi dập đánh sầm.

Ruth lăng xăng với bình trà, chờ không khí căng thẳng trong phòng dịu bớt. Mãi tới lúc Andrew sắp đi đánh răng, cô mới bảo:

- Chỉ vì bố lo cho con đấy thôi, Andrew. Lo cho sức khỏe của con.

Khốn nạn, hắn ta như cứt thì có.

Andrew lôi cả đống ngôn từ thô tục đấu với ông bố Simon trong trận chiến tưởng tượng. Ít ra trong óc nó thì hai cha con có thể chơi một trận công bằng.

Rồi nó nói to đáp lời mẹ: “Vâng. Con biết.”

III

Nhà Trăng Khuyết là căn nhà có dáng như trăng lưỡi liềm xây theo kiểu bungalow thập niên 30, chỉ cách quảng trường chính của Pagford hai phút chạy xe. Tọa lạc ở số 36, căn nhà này có lịch sử lâu đời hơn mọi nhà khác trên cùng con phố. Shirley Mollison ngồi tựa vào đống gối nhấp tách trà chồng vừa pha cho. Bóng bà phản chiếu trong tấm gương gắn cửa tủ âm tường trông hơi mờ, có lẽ phần vì bà chưa đeo kính, phần vì luồng nắng dịu dàng lọc qua tấm rèm có trang trí hoa hồng đang tràn vào phòng. Trong thứ ánh sáng mơ hồ hư ảo ấy, gương mặt trắng hồng với lúm đồng tiền cùng mái tóc bạch kim cắt ngắn trông thật dịu dàng.

Phòng ngủ chỉ đủ kê một chiếc giường đơn cho Shirley và giường đôi cho Howard, hai chiếc giường chen chúc cạnh nhau trông như cặp song sinh khác trứng. Tấm đệm của Howard trống trơn, hãy còn hằn vết tấm thân đồ sộ của ông. Tiếng nước vòi sen lào xào vẳng ra tận chỗ Shirley đang ngồi đối diện cái bóng hồng hào tươi tỉnh của chính mình trong gương, tận hưởng cái tin hãy còn mới sủi tăm trong không khí như bọt champagne mới mở.

Barry Fairbrother đã chết. Tiêu biến. Chấm dứt. Chưa có sự kiện tầm cỡ quốc gia, trận chiến, đợt vỡ chứng khoán hay vụ tấn công khủng bố nào có thể làm dậy lên cảm giác vừa sợ, vừa khao khát, lại phát sốt lên vì tính toán trong Shirley như hiện giờ.

Bà ghét Barry Fairbrother. Shirley và chồng mình thường chung cảm giác yêu ghét với nhiều người, nhưng đối với trường hợp này thì khác. Đôi lúc Howard cũng phải thừa nhận lão thấy thú vị với người đàn ông thấp bé râu ria lúc nào cũng gay gắt chống đối mình qua tấm bàn dài đầy vết xước trong sảnh nhà thờ Paford; còn Shirley không phân biệt giữa việc chính trị và quan hệ cá nhân. Barry đối nghịch với Howard trên con đường chồng bà theo đuổi suốt đời, như vậy tay đó không đội trời chung với bà.

Sự ủng hộ chồng là lý do chính nhưng không phải là điều duy nhất khiến Shirley ghét cay ghét đắng Barry như vậy. Khuynh hướng đối nhân xử thế của bà lúc nào cũng chỉ được mài giũa theo một hướng duy nhất, như loại chó được huấn luyện phát hiện ma túy. Bà luôn cực nhạy với thói hợm mình, mà từ lâu đã ngửi thấy mùi ấy trong thái độ của Barry Fairbrother và đám cánh hẩu của ông ta trong hội đồng địa phương. Cánh của Fairbrother tự cho rằng tấm bằng đại học khiến họ cao hơn hẳn những người như bà và Howard, nên ý kiến của họ giá trị hơn. Đấy, giờ thì thói kiêu căng đó phải nhận một cú đích đáng nhé. Cái chết đột ngột của Fairbrother càng củng cố lòng tin lâu nay trong lòng Shirley, rằng dù ông ta lẫn đám phe cánh có nghĩ gì đi nữa, thì Barry vẫn dưới cơ chồng bà, một con người đầy phẩm chất tốt, và còn vượt qua được cơn nhồi máu cơ tim hồi bảy năm về trước.

(Chưa có giây phút nào Shirley tin rằng Howard sẽ chết, ngay cả lúc ông nằm trong phòng phẫu thuật. Đối với bà, sự tồn tại của Howard trên cõi đời này đã được định sẵn, như ánh mặt trời và không khí. Về sau, bà cũng nói hệt như thế khi bạn bè và hàng xóm trầm trồ việc ông thoát khỏi lưỡi hái tử thần một cách kỳ diệu, rằng may mà có phòng khám tim ở ngay Yarvil gần đó, và hẳn là bà đã lo lắng khủng khiếp đến thế nào.

- Tôi biết anh ấy sẽ qua khỏi mà - Shirley từng bình thản đoán chắc như thế - Lúc nào tôi cũng tin chắc như thế.

Và giờ ông ấy ở đây, vẫn khỏe mạnh như thường, còn Fairbrother thì trong nhà xác. Đã biết trước như vậy mà.)

Trong buổi sớm phấn khởi này, Shirley nhớ lại ngày sau khi cậu con trai Miles chào đời. Nhiều năm trước bà cũng ngồi trên giường, đúng như thế này, ánh nắng cũng tràn qua cửa sổ như vậy, bà cầm trên tay tách trà ai đó pha giúp, chờ người giúp việc đưa cậu con trai mới sinh bụ bẫm đến cho bú. Trong nhận thức của bà, chuyện sinh tử đều là dạng thức tồn tại ở mức cao và có ý nghĩa quan trọng. Tin Barry Fairbrother đột ngột qua đời rơi vào lòng bà như đứa trẻ sơ sinh bụ bẫm được mọi người quen biết hau háu vồ vập lấy; mà bà sẽ chính là nguồn tin, vì bà là người đầu tiên, hay ít ra là một trong số những người đầu tiên nhận được tin.

Khi Howard ở trong phòng, niềm phấn khích sôi sục trong lòng Shirley không hề lộ ra. Họ chỉ trao đổi vài câu thông thường về cái chết đột ngột ấy trước khi ông chồng đi tắm. Shirley thừa biết trong lòng Howard cũng đang phấn khích cực độ chẳng khác gì mình khi hai người đưa đẩy tới lui mấy lời bình luận; nhưng nếu nói toạc ra cảm giác ấy trong khi tin báo tử hãy còn nóng hổi thì chẳng khác nào cởi trần truồng ra mà nhảy nhót gào rú; mà Howard và Shirley lúc nào cũng quần áo chỉnh tề trong cái vỏ lịch thiệp vô hình họ chưa bao giờ tháo bỏ.

Shirley lại nảy ra một ý hay ho nữa. Bà đặt tách dĩa xuống bàn, chuồi mình khỏi giường, đeo kính, choàng áo bông rồi nhẹ nhàng bước xuống hành lang gõ cửa phòng tắm.

- Anh Howard này.

Bên trong vẳng ra tiếng ừ hử xen giữa tiếng nước lách rách không ngừng.

- Anh nghĩ em có nên đăng thông cáo trên website không? Về vụ Fairbrother ấy?

- Hay đấy - lão nói vọng qua cửa sau khi thoáng cân nhắc - Ý kiến tuyệt vời.

Bà hối hả tới phòng làm việc. Đó vốn là phòng ngủ bé nhất trong nhà dành cho cô con gái Patricia, nhưng Pat đã đi London từ lâu, trong nhà chẳng mấy khi nhắc nhỏm tới cô và căn phòng từ đó cũng bỏ trống.

Shirley hết sức tự hào về kỹ năng dùng internet của mình. Mười năm trước, bà có tham gia lớp học đêm ở Yarvil, khi đó bà thuộc loại lớn tuổi chậm hiểu nhất. Nhưng bà vẫn kiên trì theo lớp, quyết tâm trở thành quản trị viên của website mới toanh của hội đồng địa phương Pagford. Bà đăng nhập rồi mở trang chủ của hội đồng địa phương.

Đoạn thông cáo ngắn gọn được viết dễ dàng như tự động tuôn ra từ các đầu ngón tay.

Ông Barry Fairbrother, ủy viên hội đồng

Chúng tôi vô cùng thương tiếc thông báo đến quý vị, ủy viên hội đồng Barry Fairbrother, đã qua đời. Xin được phân ưu cùng gia quyến trong khoảng thời gian đau buồn này.

Bà đọc kỹ lại lần nữa, bấm nút rồi xem lại đoạn thông cáo xuất hiện trên bảng tin.

Khi công nương Diana mất, nữ hoàng còn ra lệnh hạ cờ trên điện Buckingham mà. Nữ hoàng có vị trí rất đặc biệt trong tim Shirley. Khi ngắm nghía mẩu tin trên website, bà có cảm giác thỏa mãn và phấn chấn khi đã làm một điều đúng. Học theo người cao quý nhất...

Bà thoát mục tin tức trên trang hội đồng địa phương rồi vào website y khoa ưa thích, cẩn thận gõ từ “não” và “tử vong” vào khung tìm kiếm.

Kết quả tìm thấy dài dằng dặc. Shirley cuộn lướt qua các kết quả, cặp mắt ôn hòa của bà quét từ trên xuống dưới, tự hỏi trong mớ nguyên nhân tử vong với những từ thậm chí bà đọc không ra đó đâu là nguồn cơn đem lại nỗi vui sướng cho mình. Shirley làm tình nguyện viên trong bệnh viện; từ khi bắt đầu làm việc tại bệnh viện Trung tâm Tây Nam, bà dần dà cũng quan tâm ít nhiều tới các vấn đề y khoa, thi thoảng còn đoán bệnh cho bạn bè nữa.

Nhưng sáng này, bà không tập trung đọc những dòng mô tả và triệu chứng dài dặc ấy, vì bà còn mải nghĩ tới chuyện làm sao loan truyền rộng rãi cái tin này, bà đã kịp sắp xếp thầm trong óc danh sách số điện thoại cần gọi. Không biết khi nghe tin, Aubrey và Julia sẽ thấy thế nào và nói gì nhỉ; với lại không biết Howard có nhường bà báo tin này cho bà Maureen không hay tự mình hưởng cái thú đó.

Thật là đã.

IV

Andrew Price đóng cánh cửa trước của căn nhà nhỏ sơn trắng rồi theo chân cậu em đi xuôi xuống lối ngang vườn dốc đứng lạnh trắng sương giá, dẫn tới cánh cổng rào sắt mở ra con đường nhỏ. Không đứa nào liếc mắt nhìn quang cảnh trải rộng dưới chân: thị trấn Pagford tí hon lọt thỏm giữa ba ngọn đồi, trên đỉnh một ngọn nhấp nhô tàn tích của tu viện xây từ thế kỷ 12. Dòng sông mảnh uốn lượn quanh đồi cũng chảy qua thị trấn, vắt ngang nó là cây cầu đá bé tí như đồ chơi. Phong cảnh lờ đờ như tấm phông nền vẽ sau lưng hai anh em. Andrew ghét những lúc hiếm hoi nhà có khách, ông bố dẫn ra giới thiệu phong cảnh như kiểu chính ông thiết kế xây dựng tất cả những thứ ấy. Dạo này Andrew bỗng nhiên thích những con đường trải nhựa, cửa sổ vỡ và hình graffiti, nó mơ tới London và một cuộc sống cho ra sống.

Hai anh em đi xuống cuối đường rồi chậm bước chỗ khúc quanh ngoặt ra đường lớn. Andrew lại chỗ bờ rào thận trọng dò dẫm rồi rút ra một gói thuốc lá Benson & Hedges còn phân nửa và bao diêm hơi ẩm. Sau vài lần thất bại vì đầu diêm cứ vỡ vụn, cuối cùng nó cũng châm được thuốc. Kéo được hai ba hơi dài, tiếng động cơ xe buýt đã vang lên phá vỡ không khí tĩnh lặng. Andrew thận trọng dụi tắt điếu thuốc rồi bỏ phần thừa lại vào bao.

Thường khi đến đây, chiếc xe buýt đã đầy hai phần ba vì trước đó đã đi vòng qua các nhà và nông trại ở khu xa. Hai anh em ngồi xa nhau như thường lệ, mỗi đứa chiếm một chiếc ghế đôi, quay mặt nhìn ra cửa sổ khi chiếc xe lại rừm rừm khởi động chạy xuống thị trấn Pagford.

Ngay dưới chân đồi là căn nhà đứng giữa mảnh vườn hình cái nêm. Bốn đứa trẻ nhà Fairbrother thường đứng đợi xe ngoài cổng chính nhưng hôm nay chỗ đó vắng tanh. Màn cửa trong nhà nhất loạt buông xuống. Andrew không biết người ta có thường ngồi trong bóng tối khi có ai đó qua đời hay không.

Trước đó vài tuần, Andrew vừa chài được Niamh Fairbrother, một trong hai cô bé song sinh nhà Barry tại buổi khiêu vũ trong phòng diễn kịch của trường. Sau lần đó, cô nàng cứ lẵng nhẵng theo ám nó một thời gian. Bố mẹ Andrew không quen thân gì với nhà Fairbrother, Simon và Ruth hầu như không có bạn, nhưng họ có vẻ cũng hơi quý mến Barry, chủ chi nhánh bé tẹo của ngân hàng duy nhất ở Pagford. Cái tên Fairbrother khá nổi nhờ gắn với hội đồng địa phương, các buổi biểu diễn trong hội trường thị trấn và cuộc chạy bộ do nhà thờ phát động. Andrew chẳng quan tâm đến mấy hoạt động đó mà bố mẹ nó cũng chẳng buồn tham gia, chỉ trừ vài đợt tài trợ hiếm hoi hay xổ số.

Chiếc xe buýt rẽ trái xuống đường Church Row, ngang qua dãy dinh thự bề thế kiểu Victoria thấp dần theo con đường dốc, Andrew mơ màng tưởng tượng đến cảnh ông bố mình cũng gục xuống chết vì bị tay súng vô hình nào đó bắn hạ. Thế rồi nó sẽ vỗ về an ủi bà mẹ đang thổn thức trong khi gọi điện thoại cho bên dịch vụ lễ tang. Andrew sẽ vừa phì phèo thuốc lá vừa ra lệnh đặt mua loại quan tài rẻ tiền nhất.

Ba đứa nhà Jawandas, Jaswant, Sukhvinder và Rajpal lên xe ở đoạn cuối phố Church Row. Andrew đã cố tình chọn chỗ ngồi còn ghế trống phía trước, cầu mong Sukhvinder sẽ ngồi vào đó, tất nhiên không phải vì ưa gì con bé (Fats, bạn thân của Andrew gọi cô bé là RCV, nghĩa là râu chấm vú), mà vì nàng rất thường chọn ngồi cạnh Sukhvinder. Sáng nay hình như “sức mạnh tinh thần” của nó đặc biệt mạnh hay sao đó, mà Sukhvinder quả là ngồi đúng vào ghế ấy. Andrew sung sướng vờ liếc về phía tấm cửa sổ dày bụi và ôm cặp sát hơn vào lòng hòng che bớt “thằng nhỏ” đang bị kích thích bởi những cú rung mạnh của xe buýt.

Nỗi mong ngóng tăng theo mỗi cú xóc nảy, khi chiếc xe kềnh càng luồn lách qua những con đường hẹp, quặt qua khúc cua gắt vào quảng trường, hướng về phía góc phố đường nhà Nàng.

Andrew chưa bao giờ thích cô gái nào nhiều như vậy. Nàng là học sinh mới, dù chuyển trường ngay học kỳ xuân của năm thi GSCE (General Certificate of Secondary Education: Chứng chỉ giáo dục trung học tổng quát) cũng khá là lạ. Tên nàng là Gaia, thật phù hợp làm sao, vì Andrew chưa từng nghe nói tới cái tên này và đối với nó, bản thân nàng cũng là điều hoàn toàn mới mẻ. Một sáng nọ, nàng bước lên xe buýt như biểu tượng giản đơn về những đỉnh cao tuyệt vời mà tạo hóa có thể vươn tới được, rồi ngồi xuống cách nó hai ghế phía trước, còn Andrew chỉ biết chết sững trước vẻ hoàn hảo của bờ vai và mái tóc nàng.

Tóc nàng màu nâu đồng, buông lơi từng lọn dài xuống xương vai; mũi nàng nho nhỏ, thẳng tắp hoàn hảo, hơi ngắn nên càng làm nổi bật vẻ quyến rũ của đôi môi căng mọng; hai mắt nàng nằm hơi xa nhau, rèm mi dày, tròng mắt rực rỡ những đốm màu nâu pha lục như vỏ táo. Andrew chưa khi nào thấy nàng trang điểm, làn da nàng hoàn hảo không tì vết. Gương mặt nàng là sự hòa quyện giữa những chi tiết cân đối tuyệt vời lẫn tỉ lệ bất thường, Andrew có thể ngắm nhìn gương mặt ấy hàng giờ mà tự hỏi cội nguồn vẻ quyến rũ ấy là từ đâu. Mới tuần trước đây thôi, nó dự liền hai tiết sinh học vì hôm ấy cách sắp xếp bàn ghế và chỗ ngồi ngẫu nhiên thế nào đó lại cho phép nó ngắm nàng liên tục. Thế rồi tối đó, khi đã vào giường, Andrew viết “vẻ đẹp là hình học” (Sau hơn nửa tiếng ngắm tường, rồi sau đó là một trận tự sướng ra trò). Nó xé tờ giấy ngay sau đó, rồi cứ mỗi lần nhớ tới lại thấy thật ngu ngốc, nhưng vẫn có chút gì đáng kể trong vụ đó. Vẻ lộng lẫy của nàng là tổng hòa những điều chỉnh li ti theo khuôn khổ, và kết quả tuyệt đến nín thở.

Nàng có thể lên xe bất kỳ lúc nào, mà nếu nàng chọn ngồi cạnh con bé Sukhvinder bè bè sưng sỉa như thường lệ, thì có khi ngửi thấy cả mùi khói thuốc trên người Andrew. Nó thích nhìn những vật vô tri biến đổi khi chạm vào nàng, như đệm ghế xe buýt hơi lún xuống khi nàng ngồi, hay nạm tóc màu vàng pha đồng uốn cong quanh thanh kẹp kim loại trên đỉnh đầu.

Tài xế hãm xe dần, Andrew ngoảnh mặt khỏi cửa lên xuống, vờ như đang mải nghĩ; như thế khi nàng lên, nó có thể ngoái nhìn quanh như thể chợt tỉnh vì thấy xe ngừng; nó sẽ chạm mắt nàng, có khi gật đầu nữa. Andrew ngóng tai chờ tiếng cửa mở, nhưng tiếng động cơ rì rì vẫn không hề bị ngắt quãng bởi tiếng cửa rít rồi sập mạnh quen thuộc.

Andrew liếc quanh nhưng chẳng thấy gì ngoài con phố Hope ngắn ngủi tồi tàn chạy giữa hai dãy nhà liên kế. Tài xế nghiêng người ra xem cô bé có đang đến không. Andrew muốn xin ông ta đợi thêm một lát, vì mới tuần trước thôi rõ ràng nàng lao ra từ một căn nhà nhỏ trong dãy phố ấy và chạy dọc vỉa hè (lúc đó nhìn nàng cũng chẳng sao vì ai trên xe cũng nhìn), và chỉ cảnh tượng ấy thôi cũng đủ ám ảnh đầu óc nó hàng giờ sau đó. Thế nhưng bác tài đã lại xoay vôlăng, chiếc xe buýt tiếp tục lên đường. Andrew quay lại nhìn chằm chằm vào khung cửa sổ lem nhem, cả tim lẫn chỗ nhạy cảm của cơ thể cùng nhức nhối.

V

Dãy nhà liên kế nhỏ hẹp trên đường Hope khi trước là chỗ ở dành cho dân lao động. Trong phòng tắm căn nhà số 10, Gavin Hughed đang chậm rãi cạo râu một cách cẩn thận quá mức. Râu gã rất nhạt lại thưa, thực ra một tuần chỉ cần cạo hai lần là đủ; nhưng căn buồng tắm lạnh lẽo, hơi nhếch nhác này là nơi trú ẩn duy nhất của gã. Nếu kề cà trong này được tới tận tám giờ thì mới có cớ hợp lý để nói mình phải rời nhà đi làm ngay lập tức. Gã vốn sợ phải nói chuyện với Kay.

Tối hôm trước, gã phải khởi động màn làm tình dài nhất và sáng tạo nhất từ khi hai người bắt đầu qua lại tới nay mới thoát được cuộc nói chuyện. Kay đáp ứng ngay lập tức và cuồng nhiệt đến phát sợ: cô tự vỗ nhè nhẹ khắp người; chìa cặp giò khỏe khoắn còn mang vớ lên cho gã; vặn vẹo như cô diễn viên nhào lộn người Slavơ, mà quả là cô ta cũng có làn da màu ôliu và mái tóc sẫm cực ngắn như cô. Quá trễ rồi. Gã nhận ra cô đang coi hành động đòi hỏi đơn thuần này là ngầm thừa nhận những điều gã nhất quyết tránh đề cập đến. Cô hôn gã nồng nhiệt. Những nụ hôn dấn sâu ướt át của cô thuở mới quen sao mà gợi tình, giờ chỉ nghe cờn cợn. Gã loay hoay một lúc lâu mới bùng nổ, nỗi sợ hãi điều mình đã bắt đầu cứ nhăm nhe đè dúi cơn lên đỉnh. Mà cả cái chuyện khốn khổ này cũng hại gã, vì cô nàng cứ tưởng do đối tác lão luyện lắm mới giữ được lâu thế.

Xong cuộc, cô cuộn mình nép vào người gã trong bóng tối, tay xốc xáo tóc người tình một lúc. Gã ngán ngẩm mở mắt nằm đó, kế hoạch mở dây hóa ra lại thành thắt dây chặt thêm. Cuối cùng cô nàng cũng thiếp đi, còn gã vẫn nằm thượt, một tay kẹt dưới người cô nàng, tấm khăn trải giường trên tấm nệm lò xo cũ lồi lõm cứ nhơm nhớp quấn vào đùi, và chỉ ước sao mình đủ khốn nạn để cứ thế chuồn thẳng rồi lặn mất tăm.

Phòng tắm nhà Kay có mùi bọt biển ẩm ướt mốc meo. Hàng nạm tóc còn kẹt bên thành bồn tắm nhỏ. Sơn tường đang lở dần.

- Đến lúc phải sửa sang lại rồi - Kay từng bảo thế.

Gavin cố tránh không buột miệng mà dính vào vụ này. “Không cam kết” là lá bùa và là tấm chắn tự vệ của gã trước cô; lúc nào gã cũng ghi nhớ và nhẩm đi nhẩm lại như lần tràng hạt. Gã không bao giờ nói “yêu”. Không bao giờ nói tới chuyện cưới xin. Không bao giờ đề nghị cô chuyển về sống ở Pagford. Ấy thế mà cuối cùng cô nàng vẫn ở đây và làm sao đó khiến gã lại thấy phải có trách nhiệm.

Gương mặt trong tấm gương mờ xỉn nhìn lại gã. Mắt quầng thâm, mái tóc vàng mỏng và khô. Bóng đèn trần trên đầu rọi rõ một bộ mặt yếu đuối, dâm dục và nghiệt ngã.

Ba mươi bốn rồi - Gã nghĩ - Đến bốn mươi hãy ra.

Gã lại cầm dao cạo râu lên tỉ mẩn xén hai cọng râu to tướng mọc hai bên trái cổ.

Có ai nện thùm thụp vào cửa nhà vệ sinh. Gavin giật mình trượt tay, máu từ chiếc cằm gầy gò của gã rơi xuống lốm đốm tấm áo sơ mi sạch trắng tinh.

- Gã bồ của mẹ - Một giọng con gái cáu kỉnh gào lên - cứ ngồi lì trong nhà tắm còn con thì trễ rồi đây này!

- Xong rồi đây! - Gã hét lại.

Vết cắt cũng khá đau nhưng có sao đâu chứ? Đây chính là cái cớ tuyệt vời của gã: Xem con gái em làm gì anh này. Anh phải về nhà thay áo trước khi đi làm. Thế rồi gần như nhẹ nhõm, gã mặc áo khoác, đeo cà vạt treo trên móc sau cửa rồi mở khóa.

Gaia xô gã ra rồi lao vào nhà tắm, sập cửa cài chốt. Chiếu nghỉ tí xíu chỗ đầu cầu thang đặc mùi cao su cháy khét lẹt. Gavin nhớ lại cảnh tối qua, tấm ván đầu giường cứ thúc vào tường, chiếc giường gỗ thông rẻ tiền cót ka cót két, tiếng Kay rên rỉ hổn hển. Có khi rất dễ quên bẵng mất là còn có cô con gái trong nhà.

Gã thong thả bước xuống cầu thang trơ trụi không thảm lót. Kay kinh hãi kêu rú lên khi thấy máu trên áo gã. Cô đang mặc cái áo choàng kiểu kimono màu tím rẻ tiền nom rất hợp, dù gã chẳng thích nó tí nào.

- Gaia nện cửa làm anh giật thót cả mình. Giờ phải về nhà thay áo đây.

- Ôi, nhưng em làm bữa sáng cho anh xong rồi này - cô vội vã nói.

Gã nhận ra cái mùi tưởng là cao su cháy hóa ra là mùi trứng bác. Trông đám trứng có vẻ nhợt nhạt lại quá chín.

- Thôi không kịp đâu Kay, anh phải về thay áo nữa, sáng sớm nay có...

Cô đã kịp múc mớ trứng ra đĩa.

- Năm phút thôi mà, anh ở thêm năm phút nữa hẳn là được...

Điện thoại trong túi áo khoác réo ầm ĩ, gã vừa rút ra vừa tự hỏi mình có đủ trơ tráo mà vờ rằng đó là tin nhắn gọi họp khẩn hay không.

- Lạy Chúa! - Gã kinh hãi thốt lên, lần này là hoàn toàn thành thực.

- Sao thế anh?

- Barry. Là Barry Fairbrother! Ông ấy... chó thật, ông ấy... chết rồi! Miles báo. Trời ơi! Trời mẹ ơi!

Cô đặt cái muỗng gỗ xuống.

- Barry Fairbrother là ai thế?

- Anh chơi bóng quần với ông ta. Ông ta mới có bốn bốn tuổi! Trời ơi!

Gã đọc tin nhắn lần nữa. Kay bối rối nhìn gã. Cô biết Miles là cộng sự của Gavin trong hãng luật, nhưng chưa bao giờ được giới thiệu với anh ta. Thế nên đối với cô Barry Fairbrother chỉ đơn thuần là một cái tên.

Trên cầu thang vang lên tiếng rầm rầm, Gaia vừa chạy vừa dậm thình thịch.

- Lại trứng - cô bé liếc về phía cửa bếp - sáng nào cũng như sáng nấy. Không. Và nhờ ơn chú - Cô ném cái nhìn độc địa vào gáy Gavin - mà có khi tôi trễ cái xe buýt chó chết đó rồi.

- Thôi đi, nếu con không tỉa tót tóc tai lâu thế thì làm gì tới nỗi - Kay quát với theo bóng con gái, cô bé không trả treo nữa mà lao qua hành lang, cặp sách đập bồm bộp vào tường rồi sập cửa ngoài đánh rầm.

- Kay, anh phải đi thôi - Gavin nói.

- Nhưng mà, anh xem này, em nấu xong hết rồi, anh chỉ việc ăn rồi...

- Anh phải thay áo chứ! Với cả, chết tiệt, khi trước anh từng giúp Barry lập di chúc, giờ phải trông coi xem thế nào. Thôi xin lỗi nhé, anh phải kiếu đây. Thật không tin nổi, - gã nói thêm, lại đọc tin nhắn của Miles lần nữa. - Thật không tin nổi. Mới hôm thứ Năm còn chơi bóng quần chung với ông ấy chứ đâu. Thật không... Chúa ơi.

Có một người vừa qua đời, giờ cô mà chèo kéo kiểu nào cũng thành ra không phải lẽ. Gã hôn vội đôi môi cứng đơ của cô rồi bỏ đi, băng qua hành lang hẹp tối om.

- Thế em có gặp anh...?

- Anh gọi em sau. - Gã hét với lại, vờ không nghe.

Gavin vội vã băng qua đường vào xe, hít sâu không khí khô lạnh, giữ chặt cái tin mới nhận như thể nó là lọ chất lỏng dễ bay hơi mà gã không dám lắc mạnh. Khi vặn chìa khởi động xe gã hình dung cảnh hai đứa con gái sinh đôi nhà Barry đang úp mặt xuống giường khóc lóc. Lần cuối cùng khi đến nhà Barry ăn tối, lúc đi ngang phòng ngủ, gã từng thấy hai đứa nằm bò ra như thế mà chơi trò Nintendo DS.

Khi trước vợ chồng nhà Fairbrother là cặp gắn bó nhất trong số những gia đình gã biết. Giờ thì không bao giờ còn cơ hội dùng cơm ở nhà họ nữa. Trước đây gã cũng từng trầm trồ bảo Barry đến là may mắn. Giờ thì hết rồi.

Có ai đang đi bộ dọc vỉa hè về phía gã. Gã hoảng lên, tưởng là Gaia quay lại chửi bới hay đòi đi nhờ bèn vội vàng de gấp và đâm luôn vào chiếc xe đậu sau, đúng ngay chiếc Vauxhall Corsa cũ của Kay. Người khách bộ hành đi ngang qua cửa sổ xe gã hóa ra là một bà cụ tiều tụy tập tễnh, chân đi dép nhung. Toát cả mồ hôi, Gavin đánh tay lái lách khỏi chỗ đỗ xe. Khi tăng tốc, gã liếc nhìn kính chiếu hậu và thấy Gaia đang quay vào nhà.

Khó khăn lắm gã mới thở được. Ngực gã thắt nghẽn. Mãi tới lúc này, gã mới nhận ra Barry Fairbrother là bạn thân nhất của mình.

VI

Chiếc xe buýt của trường đã tới Fields, khu nhà tạp nham nằm ở ngoại ô thành phố Yarvil. Mấy căn nhà xám xịt bẩn thỉu, vài căn bị phun sơn mấy chữ cái viết tắt tên riêng hay từ tục tĩu; đây đó vài ô cửa sổ đóng ván chặt, chảo vệ tinh và những bãi cỏ rậm rạp thiếu người chăm tỉa - đối với Andrew, mấy thứ đó cũng chẳng có gì đáng nhìn hơn tòa tu viện đổ nát trắng lóa vì sương giá ở Pagford. Andrew khi trước vừa tò mò vừa sợ khu này, nhưng rồi quen quá hóa nhàm.

Vỉa hè đầy bọn nhóc và đám choai choai đang đổ về trường, nhiều đứa phong phanh mỗi áo thun dù trời lạnh. Andrew nhận ra Krystal Weedon, đầu đề những trò bông đùa tục tĩu của cả bọn. Nó đang vừa khoác lác gì đó vừa cười ầm ĩ giữa một nhóm choai choai đủ loại. Tai Krystal bấm liền mấy lỗ, chiếc quần thể thao lưng trễ không đủ che dây quần lót. Andrew biết con bé từ hồi tiểu học, trong ký ức thời thiếu niên ngông cuồng, Krystal là một trong nhiều thứ để lại ấn tượng đậm nhất. Khi trước, lúc bị lôi tên ra chế nhạo, con bé không khóc như mấy cô bé năm tuổi khác mà vừa hò theo vừa cười ngặt nghẽo “Có lông! Krystal có lông!”. Rồi nó tuột luôn quần giữa lớp..; và cô Oates mặt đỏ tận mang tai chạy ngay tới điệu Krystal ra khỏi phòng.

Đến năm 12 tuổi, Krystal lột xác hoàn toàn thành nữ sinh phổng phao nhất khối, có lần ở cuối lớp, nơi mà tụi học sinh khi làm xong bài tập toán phải đem bài xuống đó rồi đổi lấy tờ bài tập kế tiếp, và Andrew (lúc nào cũng trong nhóm làm toán chậm nhất, như mọi khi) không rõ chuyện bắt đầu thế nào, nhưng khi bước đến chỗ mấy khay nhựa đựng bài tập xếp ngay ngắn trên nóc tủ lớp thì bắt gặp hai thằng mãnh Rob Calder với Mark Richards đang thay nhau sờ ngực con Krystal. Hầu hết bọn con trai trong lớp đang háo hức liếc nhìn, giấu mặt sau sách giáo khoa cho thầy khỏi phát hiện trong khi bọn con gái đỏ tía mặt mày vờ như không thấy. Andrew phát hiện ra hơn nửa đám con trai đều đã thử qua, rõ ràng là tới lượt nó. Andrew chần chừ... Chẳng phải sợ gì, nhưng nó cứ có cảm giác tội lỗi khi vấp phải cái nhìn câng câng thách thức của con nhỏ. Cuối cùng khi ông thầy Simmonds bất lực, chẳng hiểu chuyện gì xảy ra ngước lên bảo: “Em đứng đó lâu quá rồi Krystal, lấy tờ bài tập rồi ngồi xuống đi”, Andrew thực sự cảm thấy nhẹ cả người.

Từ lâu hai đứa không còn học chung lớp, nhưng do vẫn có vài môn đăng ký chung nên Andrew biết Krystal thỉnh thoảng mới tới lớp, còn thì thường xuyên cúp học và lúc nào cũng dính vào rắc rối. Con bé chẳng biết sợ là gì, cũng như bọn con trai chọn cách xăm mình, Krystal đến trường với đôi môi dập rách ngậm xì gà, hàng đống chuyện đụng độ với cảnh sát, ma túy và tình dục buông thả.

Tòa nhà ba tầng Winterdown Comprehensive nằm ngay trong thành phố Yarvil, trông nó kềnh càng xấu xí với mấy cánh cửa sổ màu lam lắp rải rác. Cửa xe mở ra, Andrew hòa vào đám đông mặc áo khoác blazer đen và đồ ấm bên ngoài tràn qua bãi đỗ xe đổ vào hai cổng trước của trường. Khi sắp chen vào đám đông đang ùn lại ngay cổng, nó thấy một chiếc Nissan Micra đang từ từ lại nên dừng bước chờ thằng bạn thân.

Thằng Stuart Wall có nhiều biệt danh nhất trường: Tubby, Tubs, Tubster, Flubber, Wally, Wallah, Fatboy, Fats. Tướng gầy ngẳng, đi đứng cứ nhún nha nhún nhảy, mặt mày tóp teo nhợt nhạt, tai to tướng, ngoại hình thế đã đủ quái, nhưng chính khiếu hài hước sắc sảo, vẻ phớt đời và cái vẻ tự tin cực kỳ mới là thứ khiến nó nổi bật. Nó nhún vai phớt lờ mọi lời trêu chọc vì là con của ông thầy hiệu phó vừa dốt vừa khó ưa; vì có bà mẹ mập tròn ăn mặc lôi thôi, khéo thế nào lại chính là giáo viên tư vấn định hướng của trường, chuyện này khiến nó bị trêu chọc suốt. Nó vừa xuất sắc vừa độc đáo, là biểu tượng trứ danh của cả trường. Ngay cả mấy đứa khu Fields cũng đều khoái nghe nó chọc cười, nhưng chẳng mấy khi dám cười nó vì nó trả đũa khá cay.

Sáng nay, vẻ phớt tỉnh của thằng Fats càng rõ, vì trước mặt cả đám bạn học đang chen nhau qua cổng không có ông bố bà mẹ nào đi kèm, nó phải chui khỏi chiếc Nissan với cả bố lẫn mẹ, dù bình thường hai người này đi xe riêng đến trường. Vừa nhìn Fats nhún nhảy tiến lại, Andrew vừa mường tượng tới cái dây quần lót của Krystal Weedon.

- Đi chứ mày, Arf? - Fats hỏi

- Chào, Fats.

Hai đứa chen vào đám đông, cặp sách đong đưa trên vai đập cả vào đầu bọn thấp hơn, vạch một khe nhỏ cho hai đứa luồn qua.

- Lão Tủ nhà tao khóc - Fats nói khi leo lên cầu thang đông nghẹt.

- Cái gì?

- Tối qua lão Barry Fairbrother chết rồi.

- Ờ, tao có nghe vụ này - Andrew đáp.

Fats liếc Andrew một cái vẻ chế nhạo, ra điều mày-thì-biết-gì-mà-ra-vẻ.

- Thì lúc đưa ổng vào viện mẹ tao đang trực đó mà - Andrew bực mình bảo - Mẹ tao làm trong bệnh viện, nhớ không?

- Ờ phải - Thằng Fats đáp, không tỏ vẻ nhạo báng nữa. - Mày biết đó, ổng với ông già nhà tao là bồ ruột mà. Ông già tao sắp thông báo vụ này. Chẳng có gì hay ho cả, Arf.

Tới đầu cầu thang, hai đứa tách ra vào hai lớp khác nhau. Lớp Andrew vào gần đông đủ, ngồi trên bàn đong đưa chân, hay dựa tủ kê cặp tường, túi xách vứt dưới chân. Sáng thứ hai lúc nào cũng thoải mái rôm rả hơn mấy bữa khác, vì hôm nay sinh hoạt đầu tuần, nghĩa là cả đám sẽ đi bộ ra phòng thể thao ngoài trời. Giáo viên đăng ký ngồi sau bàn, đánh dấu điểm danh. Cô không buồn đọc tên điểm danh cho tử tế, đây là một trong nhiều trò hòng lấy lòng học sinh nhưng cả bọn vì thế lại xem thường cô.

Krystal vào lớp đúng lúc chuông reng gọi đi tập hợp. Con bé đứng ở cửa gào lên: “Em tới rồi nha cô”, rồi lại chạy vọt ra. Cả lớp đổ ra theo, vừa đi vừa tiếp tục trò chuyện xôn xao. Andrew và Fats lại gặp nhau ở đầu cầu thang rồi mới hòa cùng đám bạn đi qua cửa sau, băng ngang khoảng sân xám rộng.

Phòng thể thao có mùi mồ hôi lẫn mùi giày, tiếng ồn ĩ của một nghìn hai trăm cô cậu choai choai vang dội những bức tường quét vôi trắng ảm đạm. Sàn phòng trải thảm cứng màu xám công nghiệp đầy đốm bẩn, trên vẽ vạch nhiều màu làm sân cầu lông, tennis, hockey và bóng bầu dục. Sàn này mà đi chân trần lên thì rát, nhưng êm mông hơn sàn gỗ khi phải ngồi sinh hoạt toàn trường. Andrew và Fats nhanh chân giành được chỗ ngồi quý giá trên dãy ghế dài có lưng tựa bằng nhựa kê phía sau phòng, tuổi thọ của chúng chắc cũng cỡ năm sáu năm rồi.

Cô hiệu trưởng Shawcross ngồi ngay cạnh bục gỗ trước phòng, hướng về phía học sinh. Bố của Fats, Colin Wall “Tủ” bước tới ngồi kế bên. Ông khá “dài đòn”, trán cao hói, dáng đi cực dễ bắt chước, vì hai cánh tay cứng đơ cứ giơ lên hạ xuống theo nhịp bước một cách cứng đơ quá lố. Ai cũng gọi ông 1à thầy Tủ vì ông lúc nào cũng chăm chắm giữ cho mấy hộc tủ gắn trên tường bên ngoài văn phòng mình được gọn gàng. Sổ sách ghi xong có khi bỏ vào đó, có khi chuyển thẳng cho phòng ban cụ thể. “Nhớ bỏ vào đúng hộc nhé Ailsa!” “Kevin, đừng để đồ cheo leo thế, rơi khỏi tủ bây giờ!” “Đừng có bỏ đi ngang thế chứ, em kia! Nhặt lên, bỏ nó vào đây, phải để nó trong tủ chứ!”

Các giáo viên khác đều gọi mấy dãy tủ đó là “chuồng bồ câu”, nghe đồn để không dính dáng gì đến thầy Tủ.

- Ngồi nhích qua, ngồi nhích qua - thầy Meacher dạy nghề mộc kêu Andrew và Fats, vì hai đứa bỏ một ghế trống cách Kevin Copper.

Thầy Tủ bước lên trước bục. Thường hễ cô hiệu trưởng lên thì học trò ổn định nhanh hơn. Lúc tiếng xì xào cuối cùng tắt hẳn, cánh cửa bên cánh phải mở ra, Gaia bước vào phòng.

Cô bé nhìn lướt qua phòng (Andrew tự cho phép mình nhìn cô, vì ai cũng đang nhìn mà: cô nàng đi trễ, lại đặc biệt, lại xinh đẹp, mà xét cho cùng thì chỉ mỗi thầy Tủ đang phát biểu chứ có gì quan trọng đâu), rồi bước nhanh nhưng không vội vã (cô nàng cũng được cái phớt tỉnh hệt như Fats) ngang qua đám bạn học. Andrew không dám ngoái cổ nhìn theo cô nàng, rồi bỗng đầu nó nổ bùng một cái: lúc nhích người theo Fats nó đã vô tình chừa một ghế trống ngay bên cạnh.

Andrew nghe tiếng chân nhẹ nhàng nhanh nhẹn tiến lại gần; nàng ngay đó rồi, ngồi sát bên nó. Ghế Andrew hơi xê dịch, cơ thể nàng cũng làm nó chộn rộn. Mũi nó bắt được mùi hương thoang thoảng. Suốt phần người bên trái Andrew nóng rực lên vì cảm thấy sự hiện diện của nàng, nó thầm mừng là gò má trái, phía nàng thấy, đỡ mụn đỏ hơn má phải. Chưa bao giờ Andrew gần nàng thế, nó cũng không biết có dám quay sang nhìn hay chào hỏi gì không; nhưng rốt cục nó thấy mình đơ ra lâu quá lỡ mất cơ hội rồi, giờ mà chào thì lại không tự nhiên.

Andrew vờ giơ tay gãi gãi màng tang, đảo mắt liếc vội xuống tay nàng đang đan nhau hờ hững trong lòng. Móng tay ngắn sạch sẽ, không sơn. Chỉ đeo một chiếc nhẫn bạc trơn đơn giản trên ngón tay.

Fats khẽ thúc khuỷu tay làm Andrew căng thẳng thêm.

- Sau cùng - thầy Tủ nói, Andrew nhận ra nó nghe thầy nói chữ này hai lần rồi, tiếng cọ quậy sột