← Quay lại trang sách

Những ngày xưa cũ Kẻ xâm lấn

12.43 Nhằm chống lại kẻ xâm lấn (theo nguyên tắc, kẻ bị coi là xâm lấn khi chiếm đất đai và tài sản trên đất của người khác khi tìm thấy)…

Charles Arnold-Baker

Điều lệ Ban quản trị hội đồng địa phương

In lần thứ bảy.

❀❀❀

I

Xét về tầm quy mô, hội đồng khu Pagford là một thế lực đáng kể. Mỗi tháng hội đồng họp một lần tại hội trường ngôi nhà thờ xinh đẹp xây kiểu Victoria, và mọi nỗ lực nhằm cắt giảm ngân sách, hạ bớt vây cánh hay sáp nhập hội đồng vào bất kỳ nhất thể nào đều vấp phải sự phản kháng mãnh liệt và dai dẳng suốt nhiều thập kỷ qua. So với các hội đồng khu dưới sự quản lý chung của hội đồng hạt Yarvil, hội đồng Pagford tự hào là thế lực bất trị nhất, mạnh tiếng nhất và độc lập nhất.

Trước buổi tối Chủ Nhật định mệnh đó, hội đồng vẫn gồm mười sáu thành viên cả nam lẫn nữ. Có vẻ các cử tri trong thị trấn đều cho rằng ngồi vào ghế hội đồng nghĩa là đủ năng lực làm việc, nên lúc trước mười sáu thành viên đó nhận ghế mà không có ai tranh giành.

Nhưng lối kết nạp kiểu chỉ định êm thắm này đang bị đe dọa. Nguồn cơn gây nên niềm oán giận của Pagford trong hơn sáu mươi năm qua đã tới giai đoạn chín muồi, các phe cánh bắt đầu tập hợp quanh hai nhà lãnh đạo có sức hút nhất.

Muốn tường tận đầu đuôi của mâu thuẫn này, trước hết phải hiểu nỗi căm ghét và nghi ngờ sâu sắc của dân Pagford đối với thành phố Yarvil nằm phía bắc thị trấn.

Các cửa hiệu, doanh nghiệp, nhà máy và bệnh viện Trung tâm Tây Nam cung cấp vô số việc làm cho dân Pagford. Cánh thanh niên trong thị trấn nhỏ này thường cứ tối thứ Bảy là đổ về Yarvil xem phim hay vào các câu lạc bộ. Thành phố có một thánh đường lớn, nhiều công viên và hai khu mua sắm khổng lồ, toàn những nơi rất thích hợp với những người đã ngán vẻ quyến rũ kiêu kỳ của Pagford. Thế nhưng dân Pagford chính gốc chỉ coi Yarvil là kẻ láng giềng chẳng đặng đừng. Ngọn đồi cao trên đỉnh có tu viện Pargetter như một thứ biểu tượng cho sự ghẻ lạnh đó, nó chắn Yarvil khỏi tầm mắt của dân Pagford và làm người dân thị trấn sống trong cái ảo tưởng dễ chịu rằng thành phố ấy ở xa họ hơn khoảng cách thực rất nhiều.

II

Đồi Pargetter cũng tình cờ che khuất một nơi nữa, nhưng thái độ của dân Pagford với nơi này khác hẳn: họ coi nó như một phần thị trấn. Đó là Dinh thự Sweetlove, tòa nhà tinh tế xây kiểu nữ hoàng Anne sơn màu vàng nâu tọa lạc giữa khu đất trồng cây và trang trại rộng hàng mấy héc-ta. Dinh thự thuộc địa phận Pagford Parish, ở khoảng giữa thị trấn và Yarvil.

Suốt gần hai trăm năm qua, ngôi nhà được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong dòng dõi quý tộc nhà Sweetloves, nhưng đến đầu thập kỷ hai mươi, dòng họ này không còn hậu duệ nào nữa. Ngày nay, những chứng tích còn lại của mối liên hệ lâu dài giữa nhà Sweetloves và Pagford chỉ là tấm bia lớn nhất trong sân nhà thờ Thánh Michael và các Thánh, vài dấu gia huy kèm chữ cái đầu tiên viết tắt họ tên rải rác đây đó trong sổ sách và các tòa nhà địa phương như dấu chân và phân hóa thạch của một sinh vật đã tuyệt chủng.

Sau khi người cuối cùng của dòng họ Sweetloves qua đời, dinh thự đổi chủ nhanh đến chóng mặt. Lúc nào dân Pagford cũng lo có nhà đầu tư nào đó mua hẳn rồi làm tổn hại tới cái biểu tượng thân yêu đó. Rồi vào quãng thập niên 50, Aubrey Fawley mua khu đất này. Chẳng bao lâu sau, ai cũng biết Fawley có tài sản riêng kếch xù nhờ mấy mối làm ăn bí ẩn trong thành phố. Ông đã có bốn đứa con và khi ấy chỉ mong ổn định lâu dài. Pagford hết sức hài lòng vì có tin đồn rằng thật ra Fawley là họ hàng xa được nhà Sweetloves cho thừa kế dinh cơ này. Như vậy rõ ràng một nửa của ông ta đã là người xứ này rồi, vậy tự nhiên ông ấy sẽ ngả về Pagford chứ không phải Yarvil. Những người cố cựu của Pagford tin rằng sự xuất hiện của Aubrey Fawley sẽ lại mở ra một thời kỳ may mắn mới. Ông sẽ là người đỡ đầu kỳ diệu cho thị trấn, như tổ tiên ông từng chiếu cố và phô nét quyến rũ trên những con đường rải sỏi nơi đây.

Howard Mollison hãy còn nhớ cảnh mẹ mình lao vào căn bếp tí xíu trong ngôi nhà trên đường Hope để thông báo rằng Aubrey được mời làm giám khảo chợ hoa địa phương. Đám đậu đũa bà trồng được giải rau củ ba năm liên tiếp, thế nên bà xiết bao mong muốn được nhận chiếc cúp chạm hoa hồng mạ bạc từ tay người đàn ông mà bà coi là biểu tượng của dấu xưa đẹp đẽ.

III

Thế nhưng một sự kiện đen tối đã xảy ra làm cho câu chuyện cổ tích thành ra không có hậu.

Trong khi dân Pagford còn đang ngây ngất vui mừng vì Dinh thự Sweetlove được trao vào bàn tay đáng tin cậy thì Yarvil miệt mài xây hàng loạt nhà cho thuê ở miệt phía nam thành phố. Pagford lo lắng nhận thấy rằng những khu phố mới sẽ chiếm vài khoảng đất nằm giữa thành phố và thị trấn.

Ai cũng biết sau chiến tranh, nhu cầu nhà ở giá rẻ tăng vọt. Thị trấn nhỏ bé này sau lúc xao lãng tạm thời vì sự xuất hiện của Aubrey Fawley bắt đầu xôn xao nghi ngờ ý định của Yarvil. Biên giới tự nhiên là con sông và ngọn đồi từng giữ cho Pagford tách biệt và độc lập, nay dường như không chặn nổi bước tiến của hàng loạt căn nhà gạch đỏ. Yarvil lấp đầy từng tấc đất trong phạm vi của mình và chỉ chịu ngừng lại trước lằn ranh phía bắc Pagford Parish.

Cả thị trấn thở phào, nhưng chẳng mấy chốc họ nhận ra đã vui mừng quá sớm. Khu Cantermill nhanh chóng bị cho là không đủ đáp ứng nhu cầu của cư dân, vì thế thành phố này tìm cách chiếm thêm nhiều đất đai nữa.

Rồi chính Aubrey Fawley (khi đó vẫn là một biểu tượng huyền thoại trong lòng dân địa phương) đưa ra quyết định dẫn tới nỗi oán giận âm ỉ suốt sáu mươi năm qua.

Xét thấy không dùng tới vài cánh đồng cằn cỗi nằm ngoài khu xây dựng mới, ông đã bán đất cho hội đồng thành phố Yarvil với giá hời rồi dùng tiền đó tu bổ ván sàn đã hỏng của Dinh thự Sweetlove.

Cơn thịnh nộ của dân Pagford thật vô bờ bến. Những cánh đồng đất của Sweetlove từng là một phần thành trì chống lại cuộc xâm lấn của thành phố; giờ đây ranh giới cổ xưa ấy của vùng này cũng đã bị đám dân Yarvil khố rách áo ôm vượt qua. Người ta tổ chức nhiều cuộc họp om sòm trong hội trường thị trấn, đổ hàng núi thư sôi sục tới tòa báo và hội đồng Yarvil, ra sức vận động những người có thế lực trong vụ này, nhưng tất cả đều không thể giúp lật ngược thế cờ.

Những khu nhà chính quyền xây cho thuê lại dấn thêm một bước theo kiểu khác. Sau khi xây xong khối nhà đầu tiên, hội đồng thành phố tạm dừng một thời gian ngắn, rồi nhận ra rằng có thể hạ giá thành xây dựng hơn nữa. Thế là khu nhà mới mọc lên, chỉ có điều gạch đỏ đã bị thay bằng bêtông cốt thép. Khu nhà thứ hai đó nay được dân địa phương gọi là khu Fields (Khu Đồng Cỏ), theo tên vùng đất cũ nơi nó được xây dựng. Xét về mặt thiết kế lẫn vật liệu xây dựng, nó thấp cấp hơn nhiều so với khu Cantermill Estate được xây ban đầu.

Chính tại một trong những căn nhà bê tông khung thép đã bắt đầu rệu rã vào cuối thập niên 60 ấy, Barry Fairbrother ra đời.

IV

Dù hội đồng thành phố Yarvil từng ngon ngọt vuốt ve rằng họ sẽ gánh mọi chi phí duy tu bảo trì khu nhà mới, nhưng đúng như dự đoán của ban đầu của những người dân giận dữ, chẳng bao lâu Pagford cũng phải nhận hóa đơn. Tuy phần lớn dịch vụ cho khu Fields lẫn chi phí sửa sang bảo trì nhà cửa do hội đồng Yarvil thanh toán, nhưng những khoản khác lại bị thành phố ngạo mạn đẩy sang cho thị trấn, đúng theo cái kiểu trịch thượng vốn dĩ của nó như sửa sang lối đi bộ công cộng, hệ thống thắp sáng và ghế ngồi, cả ngân sách cho xe buýt và những khu vực công cộng.

Những cây cầu trên đường từ Pagford đến Yarvil phủ đầy hình vẽ; xe buýt ở khu Fields bị phá hoại; đám choai choai khu Fields vứt đầy vỏ chai bia trong khu vui chơi và ném vỡ đèn đường. Rồi những con đường đi bộ vốn rất được khách du ngoạn ưa thích trở thành nơi đám trẻ ở Fields tụ tập và “làm nhiều trò bậy bạ khác nữa”, theo lời mẹ của Howard Mollison cay đắng nói. Thế là hội đồng khu Pagford phải dọn dẹp, sửa chữa, thay thế những cái vỡ hỏng, mà phần ngân sách Yarvil rót xuống ngay từ đầu đã không đủ cho thời gian và chi phí bỏ ra.

Dân Pagford cay cú nhất là đám trẻ khu Fields giờ thuộc khu vực được đăng ký học tại trường tiểu học thuộc nhà thờ Thánh Thomas. Bọn chúng đã có quyền khoác lên người bộ đồng phục xanh trắng kiêu hãnh, chơi trong sân cạnh tảng đá móng do quý bà Charlotte Sweetlove đích thân đặt xuống và làm điếc tai cả phòng học nhỏ bé với cái giọng sệt Yarvil chói lói.

Dân Pagford nhanh chóng nhận thấy rằng những căn nhà trong khu Fields trở thành đích nhắm của các gia đình Yarvil sống nhờ trợ cấp có con trong độ tuổi đi học; và làn sóng dịch chuyển lớn từ Cantermill Estate không ngừng vượt qua ranh giới, cứ như dân Mexico đổ vào bang Texas. Ngôi trường Thánh Thomas xinh đẹp, thỏi nam châm cuốn hút những người Pagford làm việc tại Yarvil với những lớp học xinh xắn, bàn nắp xếp, tòa nhà bằng đá lâu đời và bãi cỏ xanh mướt mát, giờ đây đứng trước nguy cơ quá tải, lúc nhúc con cái của bọn trộm cắp, nghiện ngập và lắm khi cùng mẹ mà chẳng biết cha.

Viễn cảnh ác mộng đó hóa ra không bao giờ đến, vì trường Thánh Thomas hiển nhiên chất lượng cực tốt, nhưng bù lại học sinh phải bỏ tiền mua đồng phục hoặc điền vào hàng đống đơn để chứng tỏ đủ điều kiện được trợ cấp; phải mua thẻ xe buýt, phụ huynh lại còn phải dậy sớm để lo cho bọn trẻ đến trường đúng giờ. Vài gia đình trong khu Fields thấy mấy vụ đó thật phiền hà quá sức, nên gửi con vào trường tiểu học rộng rãi được xây sau này cho dân khu Cantermill, nơi cho phép mặc thường phục. Phần lớn trẻ khu Fields một khi đã vào trường Thánh Thomas thì hòa nhập khá nhanh với bạn bè Pagford, một số đứa thậm chí còn được khen là cực ngoan. Barry Fairbrother đã trải qua thời đi học ở trường này như thế, cậu là cây chọc cười thông minh và rất được yêu mến trong lớp, chỉ thảng hoặc nhận thấy nụ cười của các bậc phụ huynh Pagford trở nên cứng đơ khi cậu nói về nơi mình ở.

Dù vậy, thi thoảng trường Thánh Thomas cũng buộc phải nhận vài đứa trẻ bất trị khu Fields. Lúc đến tuổi đi học, Krystal Weedon sống cùng bà cố ở đường Hope, vì thế trường buộc phải nhận con bé dù năm lên tám nó trở về Fields sống cùng mẹ, rành là người ta chỉ mong con bé rút khỏi trường Thánh Thomas cho rảnh nợ.

Krystal ì ạch bò qua các cấp lớp như con dê chui vào bụng trăn, nghĩa là cực kỳ lồ lộ và hai bên đều không lấy gì làm thoải mái. Nói thế không có nghĩa rằng Krystal lúc nào cũng ngồi trên lớp, dù nó phải học phần lớn các môn trong lớp một kèm một với giáo viên chuyên biệt.

Xui xẻo là Krystal lại học chung với với Lexie, cháu gái lớn của Howard và Shirley. Krystal từng tát Lexie Mollison mạnh đến rớt hai cái răng. Dù rằng hai cái răng sữa đó vốn đã lung lay lắm rồi mà chưa rụng, nhưng đối với cha mẹ ông bà của Lexie, tình tiết đó cũng chẳng giảm nhẹ tội con bé được bao nhiêu.

Viễn cảnh con gái mình phải học chung với nguyên cái lớp ấy tới tận trường cấp ba Winterdown Comprehensive đã khiến Miles và Samantha Mollison quyết định chuyển hai cô con gái về trường tư thục nội trú Yarvil, mỗi tuần về nhà một lần. Và Howard nhanh chóng lấy việc cháu gái mình vì Krystal Weedon mà phải chuyển khỏi trường đúng tuyến làm ví dụ ưa thích về ảnh hưởng kinh tởm của khu dân cư mới đến đời sống người dân Pagford.

V

Những phản ứng giận dữ ban đầu của người dân Pagford nén lại thành mối bất bình kín đáo hơn nhưng không kém phần sôi sục. Người khu Fields đã làm ô nhiễm và phá hỏng cảnh quan yên bình xinh đẹp nơi đây, và cư dân địa phương quyết phải cắt cụm dân cư đó khỏi lãnh địa của mình. Nhưng mấy lần hội họp để định lại ranh giới không đi tới đâu, việc cải cách chính quyền địa phương cũng không đưa lại tác dụng gì: Khu Fields vẫn dính nhằng nhẵng vào Pagford. Những cư dân mới khác trong thị trấn nhanh chóng hiểu được rằng cứ phải tỏ ra căm ghét khu dân cư kia thì mới được lòng nhóm dân cố cựu vốn điều hành mọi thứ tại Pagford này.

Đằng đẵng hơn sáu mươi năm kể từ khi ông Aubrey Fawley trao cho Yarvil khoảng đất tai hại đó, sau hàng mấy thập kỷ kiên nhẫn bền bỉ, bàn mưu tính kế, kiến nghị này kia, sắp xếp thông tin lẫn vận động các ủy ban cấp dưới, cuối cùng nhóm phản đối dân khu Fields nhận thấy đã tới thời điểm bước ngoặt.

Cuộc suy thoái buộc chính quyền địa phương phải cắt giảm và tái cơ cấu cho hợp lý hơn. Mấy tay chóp bu trong hội đồng quận Yarvil đã đánh hơi thấy lợi thế trong cuộc bầu cử tới, vì dãy nhà còm cõi đó nhiều khả năng chỉ sống được lay lắt dưới chính sách thắt lưng buộc bụng của nhà nước, nên nếu “hốt” về thì đám dân bất mãn sẽ trở thành cử tri của họ.

Đại diện riêng của Pagford tại Yarvil là ông hội đồng quận Aubrey Fawley. Ông “Aubrey trẻ” này là con trai của cụ Aubrey bán khu Fields ngày xưa, ông thừa hưởng Dinh thự Sweetlove nhưng suốt tuần bận quản lý một ngân hàng thương mại ở tận London. Cái cách Aubrey sốt sắng với chuyện trong khu này có vẻ nhuốm màu ăn năn, như thể ông gắng bù đắp cho lỗi lầm ông bố lỡ gây ra cho thị trấn nhỏ bé này. Ông cùng vợ mình là bà Julia đứng ra tài trợ và tặng giải thưởng tại hội chợ nông nghiệp, tham gia vào tất cả các ủy ban này nọ trong vùng, và tiệc Giáng Sinh nhà ấy tổ chức hàng năm thì ai cũng mong được dự.

Howard rất lấy làm tự đắc lẫn khoái chí mỗi khi nghĩ Aubrey và lão đang sát cánh bên nhau trong công cuộc đẩy khu Fields về lại cho Yarvil, vì tuy cùng là dân kinh doanh thật, nhưng Howard phải nể vì Aubrey ở đẳng cấp khác hẳn. Cứ thử nghĩ mà xem, tối tối sau khi đóng cửa hàng là lão phải trút cái ngăn kéo cũ kỹ ra mà ngồi đếm từng xu mẻ bạc lấm trước khi bỏ cả vào két. Còn Aubrey chẳng bao giờ phải động tay đến tiền thật cả, ông ta chỉ ngồi trong ngân hàng mà ra lệnh chuyển hàng núi tiền xuyên lục địa. Ông ta làm xiếc với tiền, nhân nó lên gấp bội, rồi khi thời vận có vẻ xấu đi thì ngạo nghễ nhìn nó bốc hơi. Trong mắt Howard, từ Aubrey tỏa ra không khí thần bí truyền kỳ mà dù ngành tài chính thế giới có đổ sụp đi nữa thì vầng hào quang ấy cũng không mảy may sứt mẻ. Ông chủ hiệu thực phẩm sẵn sàng quặc ngay những kẻ nào đổ cho cánh ngân hàng như Aubrey làm đất nước rơi vào khủng hoảng thế này. Lúc mọi chuyện suôn sẻ thì có ai than vãn gì đâu, Howard luôn nghĩ thế, và vẫn coi trọng Aubrey như vị tướng quân chẳng may thọ thương trong trận chiến không dành cho người thường.

Ngược lại, khi giữ chân ủy viên hội đồng quận, Aubrey được biết mọi số liệu thống kê hay ho và kể cho Howard đủ thứ tin tức về khúc ruột thừa khó ưa của Pagford. Cả hai đều biết rõ dù chẳng thu lại lợi ích hay thấy được tiến bộ gì rõ rệt, quận vẫn đã đổ ra biết bao nhiêu tiền của công sức vào mấy con phố xơ rơ xác rác ở khu Fields, và rằng trong khu ấy chẳng ai sở hữu nổi căn nhà đang trú cả (trong khi đó phần lớn những căn nhà gạch đỏ tại khu Cantermill đã được người ta mua đứt, và được cải tạo đẹp đến khó nhận ra với bồn hoa, cổng vòm và bãi cỏ cắt tỉa gọn gàng ở sân trước); rồi thì gần hai phần ba dân khu Fields sống nhờ hoàn toàn vào trợ cấp chính phủ, và cả đống dân nghiện từng phải ra ra vào vào trung tâm cai nghiện Bellchapel.

VI

Howard lúc nào cũng ghim trong đầu hình ảnh như ác mộng của khu Fields: những cánh cửa sổ đóng ván nhằng nhịt đủ thứ hình tục tĩu; đám choai choai phì phèo thuốc lá lê la ở nhà chờ xe buýt nhếch nhác; chảo vệ tinh lỉa chỉa khắp nơi đâm lên trời như cùi nhụy trơ trụi của những bông hoa sắt kinh tởm. Lão thường đay đi đay lại, làm sao mà cái đám dân đó không biết sắp xếp dọn dẹp khu mình sống cơ chứ, nghèo thì nghèo, sao không gom góp tiền rồi mua một cái máy cắt cỏ dùng chung? Nhưng chuyện như thế không bao giờ xảy ra: dân khu Fields chỉ trông đợi vào hội đồng quận và hội đồng khu xuống giúp họ dọn dẹp, sửa sang, bảo dưỡng; ban phát, giúp đỡ nhiều hơn nữa.

Howard nhớ hồi nhỏ sống ở phố Hope, nhà nào nhà nấy chỉ có mỗi mảnh vườn sau bé tí, nhỉnh hơn tấm khăn trải bàn chút ít, thế mà hầu như vườn nhà nào, kể cả nhà mẹ lão, cũng đều trồng kín đậu đũa với khoai tây. Dưới con mắt của Howard chẳng có gì cản trở đám dân khu Fields tự trồng rau tươi hay dạy dỗ đám con cái lưu manh hỗn xược lúc nào cũng sùm sụp mũ; đâu có gì cản họ chung tay dọn dẹp rác rưởi, làm đẹp cộng đồng; càng không gì ngăn cản họ tự tắm rửa cho sạch sẽ rồi nhấc mông đi kiếm việc làm; không gì cả. Thế nên Howard đi đến cái kết luận tất yếu rằng người khu đó tự chọn cách sống như thế, và cái không khí rời rã phảng phất mùi đe dọa trong khu nhà chẳng qua là cái mùi của sự ơ hờ và biếng nhác.

Ngược lại, Pagford trong tâm trí Howard sáng lấp lánh trong ánh hào quang đạo đức, như thể linh hồn của cộng đồng dân cư nơi đây hiển lộ qua những con phố rải sỏi, những ngọn đồi, và những căn nhà đẹp như tranh vẽ. Với Howard, nơi lão sinh ra không chỉ là khu đất có nhiều tòa nhà cũ xưa với dòng sông nước xiết giữa hai hàng cây soi bóng, có tu viện trang nghiêm phủ bóng hay những giỏ hoa treo trên quảng trường. Đối với lão, thị trấn là nơi lý tưởng, là lối sống, là khoảnh đất văn minh nhỏ bé trụ vững giữa mớ be bét của cả nước.

- Tôi là dân Pagford - lão thường bảo thế với du khách đi nghỉ hè - sinh ra và lớn lên tại đây. Ẩn sau câu kể bình thường ấy là cả một niềm tự hào sâu sắc. Lão sinh ra và rồi sẽ chết đi ở mảnh đất này, lão chưa khi nào mơ tới chuyện dời đi chỗ khác; chưa từng khao khát ngắm nhìn cảnh vật nào khác ngoài cảnh mùa thay sắc trên những cánh rừng và dòng sông, hay cảnh quảng trường tưng bừng sắc hoa vào mùa xuân hay lấp lánh dịp Giáng Sinh.

Barry Fairbrother biết rõ chuyện đó, và có lần nói toạc luôn ra. Trong một lần họp, từ bên kia chiếc bàn họp trong sảnh nhà thờ, ông cười thẳng vào mặt Howard “Ông biết không Howard, với tôi, ông đích thị là dân Pagford”. Còn Howard, chẳng hề bối rối mảy may (vì lão đã quen bị Barry đùa cợt kiểu thế) đáp luôn: “Tôi coi đó là lời khen rất ý nghĩa đấy, Barry, dù anh có hàm ý gì đi nữa.”

Giờ thì lão cười được rồi. Ước vọng trong quãng đời còn lại của Howard giờ đã trong tầm tay: Khả năng đẩy khu Fields trở lại cho Yarvil là chuyện chắc chắn xảy ra trong ngày một ngày hai.

Hai ngày sau khi Barry Fairbrother gục chết trong bãi gửi xe, Howard nhận tin từ nguồn đáng tin cậy cho biết đối thủ đó của ông đã vứt ráo mọi quy tắc cuộc chơi mà gửi cho tờ báo địa phương một bài viết, rằng cho phép Krystal Weedon được hưởng nền giáo dục ở trường Thánh Thomas là một điều phúc thiện đáng quý.

Giả mà Barry không thực sự nghiêm túc đến thế trong chuyện này thì cái viễn cảnh đặt Krystal Weedon nghễu nghện trước mắt bao nhiêu độc giả tờ báo như một điển hình cho mối liên kết giữa khu Fields và Pagford có vẻ thật nực cười (như lời Howard). Hẳn là Fairbrother đã mớm lời trước cho con bé, làm chẳng ai biết đó là một con bé vừa chửi bậy như ranh, vừa bày đủ trò trong lớp, làm đám bạn học phát khóc lại còn liên tục bị đuổi rồi nhận lại.

Howard tin ông đồng hương của mình quả có ý tốt, nhưng lão lo ngại trò đảo điên của báo chí lẫn sự can thiệp của đám thích-làm-người-tốt ngây thơ. Lão phản đối khu Fields vì động cơ khách quan lẫn chủ quan: lão hãy còn chưa quên cảnh đứa cháu ngoại khóc lóc trong lòng, miệng mồm đỏ lòm vì răng gãy, trong khi lão thì ra sức dỗ đành, hứa hẹn về một phần quà hậu hĩnh gấp ba lần từ cô tiên răng.

THỨ BA I

Hai ngày liền sau khi chồng mất, cứ đúng năm giờ là Mary Fairbrother thức dậy. Cô nằm trên chiếc giường cưới của hai vợ chồng, bên cạnh là cậu con trai mười hai tuổi Declan, thằng bé mè nheo chui vào giường quãng sau nửa đêm một lúc. Lúc này nó đang ngủ khá say nên Mary rón rén bỏ xuống bếp để khóc cho thỏa. Cứ mỗi giờ trôi qua, nỗi đau thương trong cô lại càng nặng thêm, vì phải rời xa khoảnh khắc khi chồng còn sống thêm một chút, và dấn sâu thêm vào chặng đường thăm thẳm không có ông sau này. Cô cứ liên tục quên bẵng rằng ông đã ra đi vĩnh viễn và không thể nào tìm đến ông để được an ủi như trước.

Khi anh chị chồng đến giúp làm bữa sáng, Mary bốc chiếc điện thoại của Barry lên, thử lần dò danh sách người quen dài dằng dặc của ông. Mới được vài phút thì chiếc điện thoại trong tay cô đổ chuông.

- Vâng? - cô thì thầm.

- Ôi, xin chào ạ. Tôi muốn nói chuyện với ông Barry Fairbrother. Tôi là Alison Jenkins, từ tòa soạn báo Yarvil và District Gazzette.

Giọng nói hoạt bát của cô gái trẻ dội chan chát vào tai Mary như kèn lệnh, cái vẻ phô trương của nó làm tiêu ngóm luôn ý nghĩa lời nói.

- Sao?

- Tôi là Alison Jenkins từ tờ Yarvil và District Gazette. Tôi xin phép nói chuyện với ông Barry Fairbrother được không ạ? Tôi muốn hỏi ông ấy thêm vài chi tiết trong bài báo viết về khu Fields.

- Thế à? - Mary nói.

- Vâng, ông ấy quên đưa chi tiết thông tin về cô bé trong bài viết. Bên tôi muốn phỏng vấn em ấy. Tên là Krystal Weedon thì phải.

Từng lời từng lời đập vào Mary như cái tát. Nhưng người vợ góa vẫn ngồi lặng trơ trơ trên chiếc ghế xoay cũ của Barry để nghe hết.

- Bà có nghe được không ạ?

- Có - Mary run run đáp - Tôi nghe rõ cô nói.

- Tôi biết ông Fairbrother rất muốn cùng tham gia buổi phỏng vấn Krystal, nhưng thời gian không nhiều...

- Ông ấy không tham gia được đâu - Mary lập rập rít lên ngắt ngang - Ông ấy sẽ không nói về cái đám khu Fields chết toi chết dịch đấy nữa, hay về bất kỳ cái gì nữa, không bao giờ!

- Sao ạ? - Giọng nữ đầu dây ngạc nhiên hỏi lại.

- Vì chồng tôi chết rồi, được chưa, ông ấy chết rồi, cho nên bọn nhà Fields phải đi mà tự lo, chứ gì nữa?

Tay cô run lẩy bẩy tới nỗi chiếc điện thoại trượt khỏi mấy ngón tay, Mary biết trước khi kịp cúp máy, tiếng nức nở đau đớn của cô đã kịp vẳng vào tai cô phóng viên. Cô nhớ lại ngày cuối cùng Barry sống trên cõi đời này, cũng đúng là kỷ niệm ngày cưới, thế mà cái bọn Fields và con bé Krystal Weedon kia cũng ám cho được. Cô điên giận ném mạnh chiếc điện thoại ngang qua phòng, đập mạnh vào khung hình bốn đứa con khiến nó văng ra cửa. Cô khóc gào lên, khiến vợ chồng ông anh vội phóng lên lầu lao vào phòng.

Lúc mới lên, hai người chỉ nghe Mary lắp bắp: “Bọn Fields, bọn chó chết, bọn Fields chết tiệt...”

- Anh với Barry đều lớn lên ở đó đấy - ông anh chồng làu bàu nhưng không nói gì thêm để tránh Mary lại lên cơn lần nữa.

II

Cô nhân viên xã hội Kay Bawden và con gái Gaia dọn từ London về đây mới được bốn tuần, hai mẹ con họ là những cư dân mới toanh của Pagford. Kay không hay biết gì về lai lịch bất hảo của khu nhà Fields, cô chỉ biết đó là nơi nhiều thân chủ của mình sinh sống. Về Barry Fairbrother, cô chỉ biết mỗi một điều rằng vì cái chết của ông mà Gavin của cô nỡ vứt lại cô trong bếp với món trứng bác, và làm tiêu ma luôn niềm hy vọng mà cuộc làm tình với Gavin vừa nhen nhóm trong cô.

Trong giờ nghỉ trưa ngày thứ Ba, Kay đậu xe ở một bãi đỗ quãng giữa Pagford và Yarvil rồi ngồi nguyên trong xe vừa nhai bánh kẹp vừa đọc cả đống giấy tờ ghi chép. Một đồng nghiệp vừa ngưng việc vì căng thẳng, thế nghĩa là Kay phải gánh ngay một phần ba số ca cần tư vấn của người đó. Một giờ kém một phút, cô khởi hành đi Fields.

Cô từng đến khu nhà này nhiều lần, nhưng vẫn chưa quen hẳn với những đường ngang ngõ dọc rối rắm. Cuối cùng cô cũng lần ra đường Foley và từ xa đã nhận ra căn nhà cô nghĩ trước đây thuộc về dòng họ Weedon. Đọc hồ sơ, cô cũng phần nào đoán được sẽ đối mặt những gì; ấn tượng đầu tiên của tòa nhà hoàn toàn trùng khớp với hình dung ấy.

Một đống đồ linh tinh phế thải chất chồng trước mặt tiền toà nhà: Mấy túi đựng đồ căng phồng rác rưởi, quần áo cũ và tã bẩn. Rác vụn rải đầy bãi cỏ rậm rịt chẳng ai chăm sóc, hầu hết dồn đống dưới cánh cửa sổ tầng trệt. Một chiếc lốp cũ mòn vẹt đặt giữa bãi cỏ, rõ ràng gần đây có ai vừa kéo nó ra chỗ khác, vì cạnh đó hãy còn dấu một vòng cỏ chết héo vàng. Nhấn chuông nhà xong, Kay mới thấy một chiếc bao cao su đã dùng rồi lăn lóc trên cỏ ngay cạnh chân cô như cái kén mỏng dính của con ấu trùng khổng lồ nào đó.

Cảm giác gai gai rờn rợn mà cô chưa bao giờ hoàn toàn rũ bỏ được lại dội lên, dù rằng nó chẳng là gì so với nỗi căng thẳng cô phải đối mặt khi đứng trước những cánh cửa xa lạ trước đây. Dù đã được tập huấn và thường có một đồng nghiệp đi kèm nhưng đôi lúc cô vẫn thấy thực sự sợ hãi. Lũ chó dữ, mấy gã đàn ông vung vẩy dao nhọn, bọn trẻ mang những vết dị dạng kinh khiếp; cô đã đối mặt hết thảy những thứ đó và cả những thứ tồi tệ hơn trong suốt những tháng năm bước qua ngưỡng cửa nhà người lạ.

Không ai ra mở cửa, nhưng cô nghe tiếng một đứa bé ỉ eo sau cánh cửa tầng trệt bên trái đang mở hé. Cô thử gõ cửa, một mẩu sơn bé xíu tróc ra rơi xuống mũi giày cô. Nó làm cô nhớ tới tình trạng căn nhà mới của mình. Giá mà Gavin ngỏ lời giúp sơn sửa nhà thì tốt quá, nhưng anh ta chả bao giờ hé lời nào. Có khi phen này Kay thử tính những điều mà anh ta chưa bao giờ nói hay làm như một kẻ bủn xỉn săm soi giấy nợ, cay cú đòi cho được vốn lẫn lãi xem sao.

Cô lại gõ gõ cửa, không hẳn vì sốt ruột đến thế, mà cốt dứt khỏi những ý nghĩ riêng, lần này có tiếng người vẳng ra, “Cái quái gì... tới ngay đây.”

Cánh cửa hé ra, trước mặt cô là một phụ nữ trông vừa trẻ thơ vừa lụ khụ; chị ta đánh cái áo thun xanh lơ nhem nhuốc với quần pyjama đàn ông. Chị ta cũng cao xấp xỉ Kay nhưng cơ thể đã teo tóp đi nhiều, xương gò má và xương ức vêu vao dưới lớp da mỏng trắng nhợt. Mớ tóc rễ tre đỏ rực, nom rõ là tự nhuộm ở nhà, trông như bộ tóc giả úp trên sọ, đồng tử co hẹp như kim, ngực lép kẹp.

- Xin chào, chị Terri phải không ạ? Tôi là Kay Bawden, bên công tác xã hội. Tôi kế nhiệm cô Mattie Knox.

Hai cánh tay gầy guộc xanh xám của người phụ nữ phủ đầy vết châm trắng phếch, mặt trong một bên cẳng tay có vết thương hoác miệng đỏ loét. Một dải sẹo dài phủ khắp cánh tay phải và phần dưới cổ khiến phần da chỗ đó bóng loáng như nhựa. Kay từng biết một con nghiện ở London đã vô ý làm cháy nhà, và khi ý thức được thì đã quá muộn.

- Ờ, thế hở - Terri lên tiếng sau một quãng lâu im lặng. Khi mở miệng, người phụ nữ này trông già nua hơn nhiều vì hàm răng đã khuyết trống kha khá. Chị ta quay lưng lại phía Kay, tập tễnh đi xuôi xuống hành lang tối om. Kay bước theo. Trong nhà nồng nặc mùi đồ ăn thiu, mùi mồ hôi lẫn với hơi rác lưu cữu. Terri dẫn Kay vào phòng khách bé tí nằm ở bên trái tầng một.

Trong phòng không sách, không tranh, không ảnh, không tivi; chẳng có gì ngoài đôi ghế bành cũ kỹ đầy bụi và dãy kệ gãy chỏng chơ. Trên sàn đầy những mảnh vụn linh tinh. Đống thùng giấy mới toanh xếp dựa vào tường trông thật lạc lõng.

Một cậu nhóc chân trần đứng ngay giữa phòng, mặc áo thun với tã quần lồng phồng. Theo hồ sơ, Kay biết thằng bé đã ba tuổi rưỡi. Nó khóc lè nhè, nhưng vẻ như chẳng vì lý do gì cụ thể, chỉ như tiếng động cơ chạy máy, đơn thuần để báo sự hiện diện của nó ở đó. Thằng bé đang nắm chặt một túi ngũ cốc bé tí.

- Cháu là Robbie phải không? - Kay làm quen.

Thằng bé ngẩng lên nhìn cô khi nghe tới tên, nhưng vẫn lè nhè khóc tiếp.

Terri gạt phăng hộp bánh quy cũ khỏi chiếc ghế bành nhem nhếch đã mòn xơ, ngồi phịch xuống quan sát Kay sau mi mắt sùm sụp. Kay ngồi xuống chiếc ghế còn lại, trên tay vịn của ghế đặt gạt tàn thuốc đầy ắp. Đầu mẩu thuốc lá rơi cả vào chỗ Kay ngồi, cô có thể cảm thấy chúng cấn cái dưới đùi.

- Chào cháu, Robbie - Kay vừa nói vừa mở hồ sơ của Terri.

Thằng bé vẫn cứ ỉ eo, tay nắm chặt túi ngũ cốc; trong túi có gì đó kêu lạch xạch.

- Trong túi cháu có thứ gì đấy? - Kay hỏi han.

Thằng bé không trả lời, chỉ lắc cái túi mạnh thêm. Một con búp bê nhựa nhỏ văng ra theo hình vòng cung rồi rơi xuống phía sau đám thùng giấy. Robbie ngoạc mồm gào lên. Kay nhìn Terri, nhưng chị ta chỉ nhìn chằm chằm cậu con trai, chẳng tỏ vẻ gì. Cuối cùng, Terri làu bàu - Robbie, nín đi chớ?

- Để xem thử có lấy ra được không nhé? - Kay đề nghị, cô mừng vì có lý do để đứng dậy phủi các đầu thuốc bám sau đùi - Để xem nào.

Cô ghé đầu sát tường nhìn vào khe hở dưới đống thùng. Món đồ chơi kẹt gần phía trên. Cô lòn tay vào khe. Đống thùng nặng trịch thật khó đẩy. Kay đã nắm được nó; khi nhìn kỹ, hóa ra đó là hình một người đàn ông béo lùn sơn màu tím sáng, trông hao hao tượng phật.

- Của cháu đây - Cô nói.

Robbie tắt tiếng gào ngay. Nó cầm lấy món đồ chơi bỏ vào túi ngũ cốc rồi lại lắc lia lịa.

Kay nhìn quanh. Hai chiếc xe hơi đồ chơi nhỏ nằm chỏng gọng dưới dãy kệ gãy.

- Cháu có thích xe hơi không? - Kay hỏi, chỉ tay vào hai cái xe. Thằng bé không nhìn theo hướng tay cô mà liếc người khách lạ một cách vừa tò mò vừa toan tính. Thế rồi nó lon ton chạy đi nhặt một chiếc xe chìa ra cho cô xem.

- Brừm - Nó kêu - Xe ơi.

- Đúng rồi - Kay đáp - Giỏi lắm. Xe hơi. Brừm brừm.

Cô lại ngồi xuống ghế, rút cuốn sổ ghi chép ra khỏi túi.

- Thế, chị Terri này, mọi việc thế nào rồi?

Chị ta lặng ngắt một lúc mới đáp - Cũng được.

- Để tôi giải thích một chút với chị nhé, chị Mattie xin nghỉ ốm, tôi làm thế cho chị ấy. Tôi phải hỏi lại một số thông tin chị ấy để lại để xem nhà mình có gì mới không so với tuần trước, được chứ?

- Thế, xem nào, Robbie giờ đã đi nhà trẻ rồi phải không? Bốn buổi sáng, hai buổi chiều mỗi tuần phải không ạ?

Câu hỏi của Kay có vẻ chỉ mơ hồ vẳng tới tai Terri. Như thể cô nói chuyện với người ngồi dưới đáy giếng.

- Ờ - chị ta đáp sau một lúc im lặng.

- Thế tình hình thế nào? Cậu bé có thích đi nhà trẻ không?

Robbie nhét cái xe hơi bằng bao diêm vào túi ngũ cốc. Nó nhặt đầu mẩu thuốc rơi ra từ quần Kay rồi nhét luôn vào túi cùng với chiếc xe và bức tượng phật màu tím.

- Ờ - Terri uể oải đáp.

Kay không để ý, cô mải xem đoạn ghi chép nguệch ngoạc cuối cùng trong sổ của Mattie trước khi cô nghỉ.

- Đúng ra hôm nay cậu bé phải trên lớp, phải không chị Terri? Thứ ba là ngày đi nhà trẻ mà?

Terri xem ra đang cố giữ cho khỏi ngủ gật. Một vài lần chị ta hơi ngật đầu xuống vai. Cuối cùng chị ta bảo, “Con Krystal phải đưa nó đi mà con nhỏ có làm bao giờ đâu.”

- Krystal là con gái chị phải không? Em ấy bao lớn rồi?

- Mười bốn - Terri mơ màng đáp - rưỡi.

Hồ sơ ghi Krystal đã mười sáu. Hai bên cùng im lặng một lúc lâu.

Hai chiếc cốc sứt sẹo đặt dưới chân ghế bành của Terri. Một cốc chứa chất lỏng đỏ nhờn nhạn trông như máu. Terri khoanh hai tay trước bộ ngực phẳng lì.

- Tôi có sửa soạn cho thằng nhỏ - Terri chậm chạp nhả ra từng chữ từ đáy sâu ý thức.

- Xin lỗi, Terri, tôi phải hỏi chị câu này - Kay nói - Sáng nay chị có dùng thuốc không?

Terri giơ bàn tay khẳng khiu như cẳng gà quệt mồm.

- Hông.

- Mắc ị - Robbie kêu, vội vàng chạy ra cửa.

- Có cần giúp cháu nó không? - Kay hỏi khi Robbie đã biến khỏi phòng, chỉ nghe tiếng nó chạy vội lên cầu thang.

- Hông, ó tự àm được - Terri líu nhíu trả lời. Chị ta chống cùi chỏ vào ghế, tì đầu lên nắm tay. Robbie đứng trên đầu cầu thang mà gào.

- Cửa! Cửa!

Hai người nghe tiếng nó đập cánh cửa gỗ thùm thụp. Terri vẫn không nhúc nhích.

- Hay là tôi giúp thằng bé nhé? - Kay đề nghị.

- Ờ - Terri đáp.

Kay leo lên lầu, vặn nắm đấm cứng ngắc mở cửa cho Robbie. Căn phòng hôi hám. Bồn tắm xám xịt đầy dấu ngấn nước, bồn cầu còn chưa giật. Kay giật nước xả rồi mới cho Robbie trèo lên ngồi. Thằng nhỏ nhăn nhó rặn è è, chẳng buồn để ý cô đứng đó. Nghe ục một tiếng, rồi làn hơi thối khẳm dậy lên hòa cùng mùi hôi lưu cữu. Thằng bé đứng xuống, kéo luôn tã lên không buồn lau. Kay kéo nó lại, gắng bảo nó tự chùi đít, nhưng xem ra chuyện này với nó quá xa lạ. Cuối cùng cô lại làm hộ nó. Đít nó sưng loét đỏ lừ. Miếng tã đẫm nước tiểu. Cô cố gắng cởi ra nhưng thằng bé gào the thé, đá vào cô rồi chạy vụt xuống phòng khách, tấm tã hãy còn lòng thòng. Kay muốn rửa tay nhưng chẳng thấy xà phòng. Cô đành nín thở khép cánh cửa nhà tắm lại.

Cô liếc quanh phòng ngủ trước khi bước xuống lầu. Mọi thứ trong phòng đều bừa bộn. Cả nhà đều ngủ trên nệm. Có vẻ Robbie ngủ chung phòng với mẹ. Vài món đồ chơi lăn lóc lẫn trong đống quần áo bẩn vứt đầy trên sàn: tất cả đều bằng nhựa và dành cho lứa tuổi nhỏ hơn cậu bé nhiều. Kay ngạc nhiên thấy cả chăn lẫn gối đều có vỏ đàng hoàng.

Trở lại phòng khách, cô thấy Robbie lại tiếp tục khóc ti tỉ, và ra sức đấm vào đống thùng giấy. Terri he hé mắt nhìn con. Kay dùng tay phủi ghế trước khi ngồi xuống.

- Terri này, chị đang theo chương trình cai nghiện bằng methadone tại trung tâm Bellchapel phải không?

- Ừm - Terri lơ mơ đáp.

- Tiến trình thế nào rồi, Terri?

Kay kiên nhẫn đợi, tay cầm viết, vờ như không thấy câu tra lời rành rành trước mắt mình.

- Chị vẫn đến trung tâm đấy chứ, Terri?

- Tuần rồi, thứ Sáu. Tui đi.

Robbie vung nắm đấm đập vào thùng giấy.

- Thế bây giờ chị đang dùng liều methadone bao nhiêu?

- Một trăm mười lăm mililít - Terri đáp.

Kay không hề ngạc nhiên vì chị ta rành con số này nhưng chẳng hề nhớ tuổi con gái ruột.

- Chị Mattie có ghi rằng mẹ chị giúp trông nom hai cháu Robbie và Krystal, bây giờ cụ còn giúp không?

Robbie húc cả thân người bé nhỏ chắc nịch vào đống thùng làm chúng lắc lư.

- Coi chừng đấy Robbie - Kay nhắc - Chơi chỗ khác - Terri cũng nói, từ nãy đến giờ, cái giọng thiếu sinh khí của chị ta lúc này mới có vẻ tỉnh táo nhất.

Robbie lại vung tay đập vào đống thùng, rõ ràng thằng bé khoái nghe tiếng thùng rỗng kêu thùm thụp như trống.

- Terri, mẹ chị còn giúp chị trông Robbie không?

- Hông phải mẹ, bà nội.

- Bà nội của Robbie à?

- Bà nội của tui. Bà không... bà không khỏe.

Kay nhấc bút lên, liếc nhìn Robbie lần nữa. Cậu nhóc không đến nỗi suy dinh dưỡng, cô nhận thấy thế; giờ đang cởi truồng vì cô vừa lau đít cho nó. Áo thun bẩn thỉu nhưng kỳ lạ là tóc lại thoảng mùi dầu gội. Trên cẳng tay, cẳng chân trắng như sữa không có vết bầm tím, nhưng quần tã thì sũng sĩnh. Thằng bé được ba tuổi rưỡi.

- Đói ụng, - thằng bé gào lên, lại thúc đống thùng một cú cuối cùng chẳng đâu vào đâu. - Đói ụnggg.

- Ăn bánh quy đi - Terri lờ đờ bảo, nhưng chớ hề nhúc nhích. Tiếng gào của thằng Robbie chuyển thành tiếng khóc the thé điếc tai. Terri vẫn không buồn rời ghế. Chẳng thể nào nói chuyện tiếp được giữa mớ ồn ĩ này.

- Tôi lấy cái bánh cho cháu nhé? - Kay hét lên.

- Ờ.

Robbie chạy vụt qua Kay xuống bếp. Căn bếp cũng bẩn gần ngang nhà tắm. Ngoài tủ lạnh, lò nấu và máy rửa bát, bếp trống trơn chẳng còn đồ đạc gì khác. Trên bệ chỉ bày đống đĩa bẩn một cái gạt tàn thuốc đầy ắp khác, túi đựng hàng và bánh mì mốc. Vải sơn lót sàn dinh dính bám cả vào gót giày Kay. Rác tràn ra khỏi thùng, trên nóc để cheo leo hộp pizza.

- Đó - Robbie chỉ tay vào tủ tường mà không nhìn Kay - Nó đó.

Tủ chạn hóa ra còn nhiều thức ăn hơn Kay nghĩ: đồ hộp, một túi bánh quy, một lọ café hòa tan. Cô lấy hai chiếc bánh quy trong túi cho cậu nhóc; nó vồ ngay lấy rồi lại chạy ra với mẹ.

- Thế, con có thích đi nhà trẻ không Robbie? - Cô hỏi thằng bé đang ngồi trên sàn mải ngốn bánh.

Cậu nhóc không trả lời.

- Ờ, nó thích - Terri đáp, có vẻ tỉnh ra một chút - Chứ gì, Robbie, mày thích.

- Thế lần gần đây nhất cậu bé đi nhà trẻ là khi nào, Terri?

- Lần trước, hôm qua.

- Hôm qua là thứ Hai, cậu bé làm sao đi được - Kay ghi lại - Thứ Hai có phải ngày học đâu?

- Gì?

- Tôi đang nói về vụ nhà trẻ, đúng ra Robbie hôm nay phải đi nhà trẻ. Tôi muốn hỏi lần cuối cậu bé đi học là khi nào.

- Thì nói rồi đấy chứ gì? Lần trước.

Mắt chị ta mở lớn hơn lúc trước. Giọng nói vẫn thờ ơ, nhưng đã thấp thoáng vẻ chống đối.

- Cô khoái đàn bà không? - Terri hỏi.

- Không - Kay đáp, không ngừng viết.

- Trông cô như con ái - Terri nhận xét.

Kay vẫn tiếp tục ghi chép.

- Nước quả - Robbie lại gào lên, sôcôla nhỏ tèm lem xuống cằm.

Lần này, Kay không nhúc nhích. Sau một lúc lâu, Terri lảo đảo đứng dậy lần ra hành lang. Kay cúi người nhấc nắp hộp bánh quy cũ mà Terri gạt khỏi ghế khi ngồi. Trong hộp là ống kim tiêm, ít bông gạc, cái muỗng rỉ sét và một túi nhựa đầy bụi. Kay dập mạnh nắp dứt khoát, thằng bé Robbie nhìn cô chằm chằm. Có tiếng Terri loạch xoạch quay lại, tay bưng cốc nước quả rồi dúi cho thằng bé.

- Đó - chị ta nói cụt ngủn, có vẻ nhắm tới Kay hơn là cậu con trai, rồi lại ngồi phịch xuống. Lần đầu chị ta ngồi hụt và đập cả vào tay ghế; Kay nghe tiếng xương cộc vào gỗ, nhưng Terri không tỏ vẻ gì là bị đau. Chị ta ngồi lại vào tấm đệm cũ xơ, dửng dưng nhìn cô nhân viên xã hội.

Kay đã đọc hết tập hồ sơ. Cô hiểu hầu như mọi thứ quý giá trong cuộc đời Terri Weedon đều trôi xuống cái xoáy đen nghiện ngập: mất quyền nuôi hai đứa con, sắp vuột luôn hai đứa còn lại, bán thân mua heroin, dính vào đủ loại tội vặt, và giờ phải làm lại từ đầu không biết lần thứ bao nhiêu.

Nhưng chị ta không cảm thấy gì, không phải quan tâm tới điều gì, vô ưu vô lo... ngay lúc này, Kay nghĩ, chị ta sướng hơn mình.

III

Lúc bắt đầu tiết học thứ hai sau giờ ăn trưa, Stuart Wall “Fats” chuồn ra khỏi trường. Vụ trốn học này có kế hoạch hẳn hoi: từ đêm trước nó đã định cúp hai tiết tin học cuối giờ chiều. Thật ra thì chuồn giờ nào cũng được, nhưng tình cờ thằng bồ ruột Andrew Price (mà Fats gọi là Arf) không cùng lớp với nó trong giờ vi tính, mà Fats có cố cách mấy cũng không làm sao bị đẩy xuống lớp dưới mà học chung với bạn được.

Có lẽ khi chơi với nhau hai thằng đều biết thừa Andrew thần tượng Fats như điếu đổ. Nhưng chính Fats lại thấy nó cần Andrew hơn là ngược lại. Gần đây Fats bắt đầu thấy sự dựa dẫm này có vẻ yếu đuối sao đó, nhưng nó lại lý luận rằng dù không phải vì Andrew thì nó vẫn sẽ cúp hai tiết đó thôi.

Từ một nguồn đáng tin cậy, Fats biết một lối an toàn chuồn ra khỏi khu Winterdown mà không bị ai nhìn thấy từ cửa sổ, đó là bức tường cạnh nhà giữ xe đạp. Thế là nó trèo qua, nhẹ nhàng bám tường tụt xuống bên kia. Nó tiếp đất ngon lành, sải chân đi theo con đường hẹp rồi rẽ trái ra đường chính bụi bặm và nhộn nhịp.

Cảm thấy an toàn, thằng bé châm điếu thuốc rồi tiếp tục đi qua mấy cửa hiệu nhỏ tồi tàn. Qua khỏi năm khối nhà, Fats lại rẽ trái vào con đường đầu tiên vào địa phận khu Fields. Nó nới lỏng nút cà vạt nhưng không tháo hẳn ra, không thèm để ý chuyện dễ bị nhận ra là học sinh cúp học. Fats chẳng bao giờ buồn thêm thắt gì vào đồng phục cho “chất”, kiểu gắn thêm huy hiệu này kia lên ve áo hay chỉnh nút thắt cà vạt cho ra vẻ sành điệu hơn, nó đơn giản tròng đồng phục như kiểu tù nhân coi khinh áo tù.

Cứ theo Fats thấy thì 99% sai lầm của con người phát sinh từ sự hổ thẹn về chính bản thân mình, thế rồi cứ ra sức dối trá để trở thành kiểu người khác hẳn. Sự trung thực là tài sản, vũ khí lẫn hàng rào phòng vệ của Fats. Người ta sợ và sốc khi ta trung thực. Fats phát hiện ra những người khác lúc nào cũng vờ vĩnh và hổ thẹn nên luôn sợ bị lật tẩy. Còn Fats lại bị cuốn hút bởi những gì trần trụi nguyên sơ, những thứ tuy không đẹp đẽ bóng bẩy nhưng trung thực, những thứ dung tục thường làm những người như cha nó thấy nhục nhã và kinh tởm. Fats bỏ công nghiền ngẫm về những vị cứu tinh lẫn những kẻ bị gạt ra lề xã hội; những người bị gắn nhãn điên rồ hay tội lỗi; những con người cao quý lạc điệu bị đám đông mê ngủ tránh xa.

Thật khó, mà cũng thật vinh quang nếu bạn có thể sống đúng với bản chất con người mình, ngay cả khi bản chất ấy là độc ác hay nguy hiểm, mà nhất là khi bản chất ấy là độc ác hay nguy hiểm. Phải can đảm lắm mới không tự mình kinh tởm cái con vật tình cờ nằm trong bản chất chính mình. Mặt khác, còn phải gắng không vờ vịt mình là thứ gì đó khá khẩm hơn con thú trong bản chất ấy: vì nếu cứ đi theo đường ấy rồi đâm ra khoa trương giả dối, cuối cùng sẽ trở thành một ông “Thầy Tủ” khác, giả dối như thế, đạo đức giả như thế. Xác thực và không xác thực là hai từ thường xuất hiện trong đầu Fats; đối với nó, hai khái niệm đó có ý nghĩa cực kỳ rõ ràng tách bạch khi áp dụng cho chính mình lẫn cho những người khác.

Fats tự cho rằng mình có những phẩm chất đích thực cần chú ý bồi đắp thêm nhưng vẫn còn vài nếp suy nghĩ không xác thực vốn là sản phẩm phi tự nhiên sinh ra từ nền giáo dục tệ hại mà nó tiếp nhận, do đó phải loại trừ. Về sau, Fats thử hành động theo những động cơ nó cho là xác thực và gắng phớt lờ hay đè nén cảm giác tội lỗi và lo sợ (không xác thực) mà những hành động kiểu thế đem lại. Rõ ràng kiểu ứng xử này càng rèn luyện nhiều thì càng dễ vận dụng. Nó muốn rèn cho nội tâm mình trơ rắn, không dễ gì tổn thương và không còn sợ bất kỳ hậu quả nào nữa, như vậy nó không còn bị ràng buộc bởi những ý niệm giả dối về cái tốt và cái xấu nữa.

Sự gắn bó với thằng bạn Andrew bắt đầu làm Fats bứt rứt vì đôi khi lúc bên bạn, cái tôi đích thực của nó không bộc lộ ra hết được. Đâu đó trong con người Andrew ẩn chứa những yếu tố thúc đẩy người ta “chơi đẹp”; hơn nữa dạo gần đây, Fats từng bắt gặp cái nhìn khó chịu, bối rối lẫn thất vọng trên gương mặt thằng bạn chí cốt, dù nó gắng che đậy vụng về. Andrew không thích mấy trò trêu chọc hay nhạo báng ai thái quá. Fats cũng không lấy thế làm khó chịu, vì Andrew sẽ hóa ra giả tạo nếu gắng tham gia dù không hẳn muốn, vấn đề là ở chỗ Andrew tỏ ra nghiêng theo cái kiểu đạo đức mà Fats đang càng ngày càng quyết tâm chống lại. Nó cân nhắc chuyện cắt đứt hẳn với Andrew, đó có vẻ là hành động đúng đắn và lạnh lùng để đạt tới sự xác thực hoàn hảo; nhưng mặt khác nó vẫn thích cặp kè với Andrew hơn bất kỳ đứa nào khác.

Fats tin mình tự hiểu bản thân rất rõ; nó khám phá từng ngóc ngách tinh thần với sự tập trung cao độ mà gần đây, nó đã thôi không còn dành cho bất kỳ sự việc nào khác. Nó ngồi hàng giờ nối kết những động cơ, sự mong muốn lẫn nỗi e sợ nội tại, gắng phân tích đâu là cái nó thực sự cảm thấy và đâu là cảm xúc do dạy dỗ mà có. Nó tự xem xét những mối liên hệ gắn bó với mình (chắc chắn trong số những người nó biết không ai từng thành thực đến vậy với chính mình, bọn họ đều đi qua cuộc đời mình một cách phó mặc và lơ mơ): rồi đi đến kết luận rằng Andrew, thằng bạn quen từ khi lên năm, là người nó thấy quý mến nhất; và rằng cho dù giờ nó đã đủ lớn để hiểu mẹ, Fats vẫn giữ mối gắn bó với bà, và thế cũng không có gì sai; và nó khinh ghét thầy “Tủ”, điển hình tối cao của sự không xác thực.

Trên trang Facebook mà Fats bỏ công chăm chút hơn bất kỳ thứ gì khác, nó tô đậm đoạn trích dẫn tìm được trong kệ sách của bố mẹ.

Ta không cần tín đồ, ta nghĩ mình quá hiểm độc đến không tin nổi chính mình... ta kinh sợ cái ngày nào đó được phong thánh... ta không muốn thành thánh, thà làm thằng hề còn hơn... có lẽ ta chính là một gã hề...

Andrew rất thích đoạn này, còn Fats khoái vì thằng bạn tỏ ra ấn tượng đến thế.

Vài giây lúc đi ngang qua nhà cá cược, Fats thoáng nghĩ tới cái chết của Barry Fairbrother, bạn thân của ông bố. Trong ba bước sải ngang qua áp phích cuộc đua ngựa dán sau tấm kính bám bụi của nhà ấy, trong đầu Fats hiện lên gương mặt râu ria của Barry đang kể chuyện cười, lão Tủ thì phá ra cười sùng sục trước cả khi Barry kể xong câu chuyện cười nhạt nhẽo, cái cười đơn giản vì khoái sự hiện diện của ông ta khi đó. Nó không đào sâu những ký ức đó thêm nữa; không cật vấn mình về nguồn cơn nỗi ngần ngại bản năng; nó cũng không tự hỏi liệu người đàn ông đã chết kia trung thực hay giả tạo; gạt bỏ ý nghĩ về Barry Fairbrother và vẻ đau khổ lố bịch của ông bố rồi đi tiếp.

Mấy hôm nay, Fats rơi vào tâm trạng buồn chán kỳ lạ, dù nó vẫn làm bạn bè cười lăn như thường lệ. Hành trình vứt bỏ dần những khuôn thước đạo đức là cuộc tìm kiếm thứ gì đó đã tắt trong nó, thứ Fats đã đánh mất khi qua thời ấu thơ. Cái Fats muốn tìm là một dạng thức tinh khôi, mà lối đi đến đó phải xuyên qua nhiều thứ vốn được mặc định là “có hại”, nhưng đối với nó lại là con đường đích thực để vươn tới sự trung thực, sự thuần khiết. Mọi thứ được người khác răn dạy đã đổi trắng thay đen nhiều tới chóng mặt, đến nỗi Fats đồ rằng cứ làm ngược hẳn những lời khuyên dạy khôn ngoan bị nhồi vào đầu thì sẽ lần tới được sự thật. Nó mong muốn được lao vào cái mê cung tối đen đó và vật lộn với mọi thứ xa lạ lẩn trốn bên trong; muốn đập vỡ cái vỏ sùng đạo và lột trần vẻ đạo đức giả; thèm được phá tan những cấm kỵ rồi ép lấy giọt khôn ngoan từ những trái tim đẫm máu của họ; nó khao khát đạt tới sự khoan dung vượt trên luân lý, và lại được tắm mình trong sự bất tri và đơn giản.

Thế là Fats quyết tâm vi phạm thêm một điều trong mớ quy định ít ỏi của nhà trường mà nó chưa phạm phải, rồi đi thẳng vào khu Fields. Không chỉ vì ở chốn này nhịp đập trần trụi của thực tế gần gũi hơn bất kỳ nơi nào khác nó biết, mà còn vì Fats mong gặp được vài kẻ xấu xa nào đó nó vẫn hằng muốn tìm hiểu, và dù không tự thừa nhận, Fats tới đây còn vì nỗi khao khát hiếm hoi không lời: nó tìm một cánh cửa mở, một sự nhìn nhận từ đầu, một sự chào đón về mái ấm nó thậm chí không biết là mình có.

Đi bộ ngắm những căn nhà trát vữa quét sơn thay vì nhìn ra từ cửa sổ xe hơi của mẹ, Fats nhận thấy nhiều nhà không hề có hình graffiti hay rác vụn, và thậm chí một số còn (dưới con mắt của nó) học theo cái vẻ hào hoa của các dinh thự tại Pagford với những tấm rèm tuyn và đồ trang trí đặt trên bậu cửa sổ. Khi nhìn từ trên xe, những chi tiết này không nổi bật vì ánh mắt Fats bị hút vào những cánh cửa sổ đóng ván và bãi cỏ đầy rác rưởi. Fats chẳng thú gì mấy căn nhà tươm tất đó. Thứ lôi cuốn nó tới đây là những biểu hiện lồ lộ của của sự lộn xộn và thiếu kỷ cương, dù đó chỉ là mớ hình vẽ bằng sơn xịt tầm thường.

Dane Tully sống đâu đó gần đây (nó không biết chắc nơi nào). Gia đình Tully cực kỳ khét tiếng. Hai anh trai và ông bố tối ngày xộ khám. Nghe nói lần gần nhất Dane đánh nhau (với một gã mười chín tuổi, nghe đồn từ khu Cantermill), cha hắn đã cùng hắn tới chỗ hẹn rồi ở đó phụ Dane nện đám anh trai của đối thủ. Khi trở lại trường, mặt mày thằng Tully rách nát, môi sưng vều, mắt bầm đen. Ai cũng bảo nó đeo cái bộ dạng bất thường đó chẳng qua để khoe mẽ chiến tích.

Fats chắc mẩm mình sẽ hành xử khác hẳn. Để ý tới chuyện người ta nghĩ gì về bộ mặt dập nát của mình là chỉ là trò không xác thực. Fats khoái cứ đánh nhau, rồi thì trở lại nhịp sống bình thường, nếu có ai biết được vụ đó thì chẳng qua do họ tình cờ bắt gặp mà thôi.

Fats chưa bao giờ bị nện, dù càng ngày nó càng tỏ ra khiêu khích. Dạo này, Fats hay tự hỏi lúc vào cuộc đánh nhau thì cảm giác ra sao. Nó đồ là cái tình trạng trung thực mà nó mong đạt tới phải bao gồm bạo lực trong đó, hay ít ra là không ngăn chặn bạo lực. Đối với Fats, tâm thái sẵn sàng đánh nhau hay nghênh chiến cũng là một kiểu dũng cảm cần đạt tới. Nó chưa bao giờ phải viện tới nắm đấm, dùng ba tấc lưỡi đã đủ rồi, nhưng giờ Fats lại đâm ra khinh ghét cái tài miệng lưỡi của chính mình và quay sang sùng mộ hành động bạo tàn trung thực. Nó thận trọng hơn khi tính tới chuyện kiếm “hàng lạnh” lận lưng. Nếu giờ mà kiếm con dao rồi phô phang đây đó thì cũng chỉ là trò mèo thảm hại giả tạo học theo thằng Dane Tully, Fats nghĩ tới đã sởn da gà. Nếu có lúc nào đó thực sự cần thủ dao, nó chắc chắn không làm kiểu thế. Fats không loại trừ khả năng chuyện đó xảy ra, nhưng cũng phải thầm thừa nhận là viễn cảnh ấy khá đáng sợ. Fats sợ những món đồ nhọn có để đâm xé thịt như dao hay kim. Nó là đứa duy nhất ngất xỉu trong đợt trường Thánh Thomas tổ chức cho học sinh tiêm ngừa viêm màng não. Muốn làm Fats mất bình tĩnh, mà chuyện này cực khó, thằng Andrew chỉ cần vung vẩy ống chích thuốc dị ứng quanh người nó, Andrew lúc nào cũng phải kè kè cái ống tiêm bơm sẵn adrenalin này bên người vì dị ứng nặng với lạc. Cứ thấy Andrew ve vẩy ống tiêm hay vờ chọc nó vào người mình là Fats muốn phát bệnh.

Tha thẩn một lúc, Fats chợt để ý bản tên đường Foley. Krystal Weedon sống ở phố này. Hôm nay không chắc cô nàng có đi học không, nhưng chắc chắn nó không muốn bị nghĩ mình cố tình tới đây tìm con bé.

Hai đứa đã hẹn gặp nhau vào tối thứ Sáu. Hôm ấy Fats sẽ xin bố mẹ sang nhà Andrew để cùng làm bài luận môn tiếng Anh. Krystal có vẻ rành rẽ chuyện sắp làm, còn có vẻ mong ngóng nữa. Tới bây giờ thì con bé đã cho phép Fats đưa hai ngón tay vào chỗ nhạy cảm của mình; thằng này cũng cởi được móc áo ngực, và được phép để tay lên bộ ngực phổng phao ấm áp ấy. Trong buổi khiêu vũ hồi Giáng Sinh, nó đã cố ý tán tỉnh cô nàng, dẫn Krystal ra khỏi sảnh trước cái nhìn đầy hoài nghi của Andrew lẫn mấy đứa khác rồi quành luôn vào phòng kịch. Cô nàng có vẻ cũng khá bất ngờ, nhưng đúng như nó dự kiến và mong đợi, chẳng phản kháng gì mấy khi vào trận. Fats chọn Krystal là có chủ đích; thậm chí đã chuẩn bị sẵn những câu trả miếng thật cay phòng khi có đứa nào dám chế nhạo vụ này.

- Nếu thích khoai chiên thì việc đếch gì phải vào quầy xà lách.

Nó đã nghĩ sẵn lối lập luận kiểu đấy, nhưng cuối cùng cũng huỵch toẹt ra.

- Thì tụi mày cứ việc tự sướng đi, còn tao khoái chơi tay đôi.

Câu này làm mấy thằng kia hết dám cười. Fats dám chắc kể cả Andrew cũng phải nuốt vào bụng câu chế nhạo về cách chơi của nó, chúng khâm phục vì Fats dám tỉnh bơ theo đuổi mục tiêu có thực duy nhất. Rõ ràng Fats đã chọn cách thức trực tiếp nhất để nắm lấy thứ nó muốn, không đứa nào dám cãi trước cái sự thật đã xảy ra đó, và Fats dám cá thằng nào thằng nấy đều đang dằn vặt tự hỏi sao không đủ can đảm mà thử cách đó để cũng được như thế.