Những ngày xưa cũ (tt) IV
Không ai trong số họ trả lời điện thoại. Khi trở về văn phòng của đội Bảo Vệ Trẻ Em, Kay bấm hàng loạt số điện thoại trong gần hai giờ liền, để lại lời nhắn yêu cầu gọi lại: nào là y tá cộng đồng của nhà Weedon, bác sĩ gia đình, nhà trẻ Cantermill và trung tâm cai nghiện Bellchapel. Trước mặt cô là hồ sơ Terri Weedon để mở, bèo nhèo chồng đống.
- Lại chơi thuốc, phải không? - Alex cất tiếng hỏi, chị ngồi chung phòng làm việc với Kay. - Lần này thể nào đằng Bellchapel cũng xúc chị ta ra ngoài cho rảnh nợ. Chị ta lúc nào cũng bảo sợ thằng Robbie bị đưa đi, thế mà đâu có nhịn nổi.
- Đây là lần thứ ba chị ta vào Bellchapel rồi đấy - Una chêm vào.
Sau những gì mắt thấy tai nghe, chiều hôm đó Kay quyết định đã tới lúc đánh giá lại ca này, như vậy phải tập hợp hết các chuyên gia có liên đới trách nhiệm với Terri Weedon. Cô liên tục ấn nút quay số lại trong khi tranh thủ làm mấy việc khác, chiếc điện thoại của họ đặt trong góc văn phòng réo liên tục rồi tự động kêu đánh cách chuyển qua chế độ trả lời tự động. Văn phòng bộ phận Bảo Vệ Trẻ Em chật ních và lộn xộn, bốc mùi sữa thiu vì Alex và Una có thói quen đổ tách cà phê thừa vào chậu cây ngọc giá ủ rũ trong góc.
Mấy ghi chép gần đây của Mattie nguệch ngoạc không ra hàng lối gì, gạch xóa lung tung, ngày tháng sai lệch và không hoàn chỉnh. Nhiều tài liệu quan trọng không có trong hồ sơ, tỉ như lá thư trung tâm cai nghiện gửi tới hai tuần trước. Hỏi thẳng Alex và Una còn nhanh hơn.
- Lần đánh giá trước là…. - Alex nhăn mày nhìn chậu ngọc giá - hơn một năm trước, tôi nghĩ thế.
- Rõ ra lúc đó họ nghĩ Robbie ở với chị ta sẽ OK - Kay nói, nghiêng đầu kẹp ống nghe vào vai trong lúc lục lọi mớ giấy tờ của lần đánh giá trước trong bìa hồ sơ căng phồng.
- Lần đó không phải xét xem thằng bé có được ở với chị ta hay không, mà là có nên trả nó về với mẹ hay không. Thằng bé được giao cho người khác nuôi dưỡng vì Terri bị khách làng chơi đánh phải nhập viện. Được ra viện một cái là chị ta lồng lộn đòi lại thằng Robbie. Chị ta tham gia lại chương trình cai nghiện của Bellchapel, thôi chơi thuốc và cũng cố gắng ra trò. Mẹ chị ta hứa sẽ giúp một tay. Thế là chị ta đón được thằng bé về nhà, và chỉ vài tháng sau lại tiếp tục bắn thuốc.
- Nhưng người hứa giúp đỡ đâu phải mẹ của Terri, phải không? - Kay hỏi, đầu cô bắt đầu phát nhức vì gắng đọc cho ra những con chữ xộc xệch to cộ của Mattie. - Đó là bà nội chị ta, nghĩa là bà cố thằng bé. Vậy chắc bà cụ có tới, nhưng sáng nay Terri bảo bà bị ốm sao đó. Vậy bây giờ nếu chỉ có mình Terri chăm sóc thằng bé…
- Đứa con gái lớn mười sáu tuổi rồi - Una nói - chủ yếu là nó chăm em nó đấy.
- Thế thì cô bé này chăm trẻ không giỏi lắm đâu - Kay nhận xét - Sáng nay khi tôi đến thăm thằng bé nom khá tệ.
Cô đã từng thấy những trường hợp còn tệ hại hơn nhiều: những lằn roi, vết lở loét, vết thương, vết đốt, những chỗ bầm tím, ghẻ lở, chấy rận; trẻ chưa dứt sữa lê la trên thảm đầy phân chó, bò lê vì xương gãy, có lần cô còn chứng kiến (và giờ hãy còn mơ thấy cảnh đó) một đứa bị gã cha dượng tâm thần nhốt năm ngày liền trong tủ chạn. Vụ đó có lên bản tin đài quốc gia. Với Robbie thì mối đe dọa trực tiếp nhất chính là đống thùng nặng trong phòng khách, thằng bé cứ gắng trèo lên đó khi thấy làm thế được Kay chú ý. Trước khi về, Kay đã cẩn thận san đống thùng thành hai chồng thấp hơn. Terri không ưa cô làm thế, cũng không thích nghe Kay dặn dò phải thay cái tã ướt sũng cho thằng cu. Cô ta mất kiên nhẫn, văng tục và đâm cáu tuy còn hơi say thuốc, quát bảo Kay cút xéo và đừng có léo hánh tới nữa.
Di động của Kay réo lên. Người phụ trách cai nghiện chính cho Terri gọi tới.
- Tôi tìm cô suốt mấy hôm nay - giọng phụ nữ nghe gắt gỏng. Mãi một lúc sau bà ta mới nghe thủng rằng Kay không phải Mattie, nhưng chuyện đó chẳng khiến bà đỡ cáu là bao.
- Phải, chúng tôi vẫn đang theo dõi chị ta, nhưng mới tuần trước kết quả xét nghiệm vẫn là dương tính. Chị ta mà chơi thuốc một lần nữa thôi là lên đường. Bên này còn hai chục người đang xếp hàng chờ thế chân chị ta để được vào chương trình cai nghiện đây, chắc mấy người đó biết tận dụng cơ hội hơn. Chị ta cai lần này là tới lần thứ ba rồi.
Kay không đả động đến chuyện cô biết Terri sáng nay vừa chơi thuốc xong.
- Các chị có ai còn paracetamol không? - Kay hỏi Alex và Una sau khi nghe bà tư vấn cai nghiện tuôn ra cả tràng về chuyện Terri hay vắng mặt và chả có tiến triển gì, rồi dập máy.
Kay chiêu mấy viên thuốc với trà âm ấm, cô chẳng còn sức đứng dậy đi đến máy nước lạnh đặt ở ngoài hành lang. Căn phòng ngột ngạt, quạt tản nhiệt quay vù vù bên trên. Khi ánh sáng mặt trời bên ngoài mờ dần, nguồn sáng từ bóng đèn tuýp trên bàn làm việc của cô nổi hẳn lên, nhuộm giấy tờ trên bàn ngả sang màu vàng nhàn nhạt, những dòng chữ đen lít nhít tưởng như dài bất tận.
- Họ sắp đóng cửa Trung tâm Bellchapel rồi, cô cứ chờ mà xem - Una nói, cô đang ngồi làm việc trên máy tính, đâu lưng với Kay. - Phải cắt giảm ngân sách mà. Hội đồng chỉ chi tiền cho một nhân viên tư vấn cai nghiện. Hội đồng Pagford sở hữu tòa nhà. Tôi nghe nói họ đang định tút tát lại chút đỉnh rồi cho mối nào béo bở hơn thuê. Họ dành tòa nhà làm trung tâm cai nghiện nhiều năm rồi còn gì.
Thái dương Kay đập thùm thụp. Địa danh mới được nhắc tới làm cô buồn lòng. Vừa mải nghĩ, cô vừa làm cái việc từng thề là không làm sau khi anh ta không gọi cô tối hôm trước: Cô cầm di động lên bấm số văn phòng Gavin.
- Công ty Edward Collins và Cộng Sự nghe đây ạ, - một giọng nữ trả lời sau ba hồi chuông. Doanh nghiệp tư nhân lúc nào cũng trả lời máy nhanh nhẹn thế, lợi nhuận phụ thuộc vào đó mà.
- Vui lòng cho tôi nói chuyện với anh Gavin Hughes - Kay nói, nhìn chằm chằm xuống hồ sơ của Terri.
- Xin hỏi ai đầu dây đấy ạ?
- Kay Bawden - Kay đáp.
Cô không nhìn lên, tránh bắt gặp cái nhìn của Alex hay Una. Thời gian chờ đợi dường như dài vô tận.
(Hai người họ gặp nhau ở tiệc sinh nhật anh trai Gavin tại London. Kay không quen ai ở đó trừ người bạn kéo cô đi chung cho có hội. Gavin khi đó vừa chia tay với Lisa, anh ta đã ngà ngà, nhưng trông vẫn đàng hoàng, đáng tin cậy, khác hẳn kiểu đàn ông Kay thường qua lại. Anh trút bầu tâm sự vụ chia tay rồi cùng về căn hộ của cô trên đường Hackney. Khi hai người còn ở xa nhau anh ta rất nhiệt tình, cứ cuối tuần lại lên thăm và gọi điện cho cô thường xuyên; thế nhưng, khi cô may mắn tìm được việc ở Yarvil dù lương thấp hơn rồi rao bán căn hộ ở Hackney, thì anh ta lại có vẻ rụt vòi….)
- Máy anh ấy đang bận, chị có muốn chờ máy không ạ?
- Vâng, có - Kay khổ sở đáp.
(Nếu chuyện giữa cô và Gavin không đi tới đâu... Nhưng họ phải ổn. Cô đã dời nhà vì anh, đổi việc vì anh, thậm chí khiến con gái rời nơi chôn rau cắt rốn cũng vì anh. Chắc hẳn anh không thể nào để cô làm thế nếu không có ý định nghiêm túc, phải không? Hẳn anh phải cân nhắc mọi hậu quả khi họ chia tay, khi đó suốt ngày chạm mặt nhau trong thị trấn Pagford bé tí này hẳn cũng ngại ngần chứ?)
- Đường dây thông rồi ạ - người thư ký báo, Kay lại phập phồng hy vọng.
- Chào em - Gavin nói - Em sao rồi?
- Em khỏe - Kay nói dối, vì Alex và Una đang nghe được - Hôm nay anh suôn sẻ chứ?
- Bận tối mặt - Gavin đáp - còn em?
- Cũng vậy.
Cô im lặng đợi, áp chặt điện thoại vào tai, vờ như anh đang nói với cô, vờ nghe thinh lặng.
- Thế, tối nay anh có muốn mình gặp nhau không? - Cuối cùng cô đành khổ sở hỏi.
- Ờ... chắc không được rồi - anh ta đáp.
Sao anh lại không chắc? Anh bận cái gì?
- Anh có việc phải làm... vụ bà Mary, vợ ông Barry ấy. Bà ấy muốn anh làm người hộ tang. Thế nên anh phải... Chắc anh phải tìm hiểu xem hộ tang thì phải làm những việc gì, đại loại thế.
Đôi khi, nếu cô không đáp mà cứ im lặng thế, mặc cho cái lý do chẳng đâu vào đâu của anh ta tự bốc hơi, thì chính anh ta sẽ đâm ra xấu hổ và chịu nhân nhượng.
- Mà chắc việc ấy cũng không mất cả buổi tối đâu - anh ta nói - Xong việc mình có thể gặp nhau, nếu em muốn.
- Vâng, được. Anh có muốn sang nhà em không, mai vẫn phải đi làm mà?
- À, ờ... cũng được.
- Mấy giờ, anh? - Cô gặng, ép anh ta phải ra quyết định ít nhất về một chuyện.
- Anh không chắc... độ chín giờ hơn nhỉ?
Sau khi anh ta cúp máy, Kay còn áp chặt ống nghe vào tai một lúc nữa rồi cố ý nói cho Alex và Una nghe: “Em cũng thế. Gặp sau nhé anh yêu.”
VVì làm giáo viên tư vấn định hướng nên giờ giấc của Tessa thất thường hơn chồng. Cô thường đợi đến hết buổi để lái chiếc Nissan đón luôn cậu con trai về nhà, còn ông chồng Colin (Tessa không bao giờ gọi chồng là ông “Tủ”, dù cô biết mọi người đều gọi ông thế, kể cả các phụ huynh cũng nhiễm cách gọi của con mình) thì lái chiếc Toyota về sau độ một, hai giờ gì đó. Nhưng hôm nay Colin ra bãi giữ xe cùng về với Tessa lúc bốn giờ hai mươi, lúc đám học trò hãy còn chen chúc đổ ra cổng chính rồi lên xe hơi bố mẹ hay xe buýt đưa đón miễn phí.
Bầu trời màu xám sắt lạnh lẽo như mặt dưới tấm khiên úp chụp. Làn gió sắc lạnh tung diềm những tấm váy và làm những chiếc lá non rung xào xạc; kiểu gió hiểm độc buốt cóng xoáy vào gáy và phía sau đầu gối, những điểm yếu nhất trên cơ thể; nó làm người ta thậm chí không được hưởng cái thú mộng mơ chút đỉnh để tạm xa rời thực tế. Lúc vào xe dập cửa rồi mà Tessa vẫn còn bực bội, cứ như vừa có ai đâm sầm vào cô mà không nói lời xin lỗi.
Vừa co đầu gối cho vừa chỗ ngồi chật hẹp cạnh ghế lái, Colin vừa kể cho Tessa nghe chuyện thầy vi tính vừa báo cáo hai mươi phút trước
-... không có đó. Suốt hai tiết liền không ló mặt vào. Tay ấy bảo thấy nên gặp anh để báo trực tiếp. Thể nào ngày mai vụ này cũng lan khắp phòng giáo viên cho xem. Đúng ý hắn mà - Colin bực bội tuôn một tràng rồi tiếp luôn, nhưng giờ Tessa biết không phải chuyện về ông thầy vi tính nữa - Nó lại chĩa hai ngón tay thối vào tôi như mấy lần trước.
Chồng cô mệt tái cả người, cặp mắt đỏ của ông hằn quầng thâm, đôi bàn tay đặt trên quai cặp hơi giần giật. Tay ông khá đẹp, khớp ngón lớn, những ngón tay thuôn dài, không khác mấy bàn tay cậu con trai. Gần đây Tessa có chỉ ra điểm giống nhau này cho chồng và con thấy, nhưng hai bố con đều chẳng mảy may quan tâm gì tới nét giống nhau đó.
- Em nghĩ con nó không... - Tessa bắt đầu, nhưng Colin đã lại mở máy.
- Thế, cho nên nó sẽ bị cấm túc như mấy đứa khác, ở nhà tôi cũng sẽ trị nó tới nơi tới chốn. Cho nó biết mùi, nghe không? Xem nó còn dám nhăn nhở nữa thôi. Đầu tiên cứ cấm túc nó một tuần cái đã, cứ chờ mà xem.
Tessa nuốt luôn câu đối đáp dang dở, nhìn ra đám học sinh mặc quần áo đen đang so vai chúi đầu bước vội, vừa khép chặt thêm chiếc áo khoác mỏng, tóc bị gió thổi cả vào miệng. Một đứa lớp đầu cấp má phúng phính, ngơ ngác ngóng người nhà chưa thấy đến. Đám học sinh chợt tẽ ra, Fats nhún nhảy bước tới, bên cạnh là Arf Price như thường lệ, gió thổi tóc lõa xõa xuống gương mặt gầy gò. Đôi lúc, từ góc nhìn và ánh sáng thế nào đó, trông Fats như một ông già. Trong cơn rã rời, Tessa thoáng thấy thằng bé hoàn toàn xa lạ, không hiểu sao nó lại đi về phía xe mình nhỉ, và làm sao mình phải trở ra giữa cái lạnh cắt da cắt thịt đó để mở cửa cho nó chứ. Vậy mà khi thằng bé tiến đến hơi nhoẻn miệng cười với mẹ, nó lập tức trở lại thành đứa con cưng cô yêu thương bất kể chuyện gì. Cô xuống xe, nhẫn nại chịu đựng làn gió buốt cắt da trong khi thằng bé chui vào xe cùng cha, ông này chẳng buồn nhúc nhích mảy may.
Xe de khỏi bãi đỗ, vượt mấy chiếc xe buýt miễn phí cho học sinh, chạy xuyên Yarvil, qua mấy dãy nhà xấu xí xập xệ của khu Fields rồi rẽ vào đường vòng, tăng tốc về Pagford. Tessa quan sát Fats qua kính chiếu hậu. Thằng bé ngồi lún trong ghế sau vơ vẩn liếc ra ngoài cửa sổ, như thể hai bậc phụ huynh ngồi trước chỉ là hai người xa lạ tình cờ cho nó đi nhờ.
Colin đợi đến khi xe rẽ vào đường vòng mới hỏi - Mày đi đâu trong giờ vi tính chiều nay hả?
Tessa không nhịn được lại liếc vào gương. Thằng nhỏ đang ngáp. Dù không bao giờ thừa nhận chuyện này với Colin, nhưng có lúc cô thấy Fats thật sự đang “đấu” riêng với ông bố trước khán giả là tất cả mọi người trong trường. Cô biết nhiều chuyện về con vì trong giờ tư vấn, học sinh kể với cô mấy chuyện đó một cách ngây thơ hay ranh mãnh.
Cô ơi, Fats hút thuốc cô có bực không? Ở nhà cô có cho nó hút không?
Cô vùi kín cái tin tình cờ nghe được này, chẳng hề hé răng với chồng hay con trai dù nó khiến lòng cô trĩu nặng.
- Đi dạo - Fats đáp tỉnh khô - cho duỗi cặp cẳng già một chút.
Colin xoay phắt lại trên ghế, rướn người kéo căng cả dây an toàn ra mà gào, chân tay vướng vít với cái cặp và áo khoác. Khi mất bình tĩnh, giọng ông cứ vống lên nghe như hét bằng giọng nam cao. Trong suốt thời gian đó, Fats vẫn ngồi im cười khẩy, kệ ông bố gào thét chửi rủa, mấy câu chửi cũng không tới nỗi thô tục lắm vì Colin vốn không ưa chửi bậy, ông biết tự kìm chế khi buộc phải nói năng như thế.
- Cái đồ vênh váo láo toét... chết dầm mày đi - Ông hét, mắt Tessa ầng ậng nước, con đường trước mặt cô nhòe nhoẹt, cô biết thằng con sẽ còn làm cái giọng chửi the thé cao vống của Colin tăng âm gấp đôi vì vụ Andrew Price sáng mai.
Fats bắt chước dáng đi của thầy Tủ giống tuyệt cú mèo, cô có thấy nó làm chưa?
- Sao mày dám nói năng với bố mày như vậy hả? Sao mày dám cúp tiết hả?
Colin nổi khùng tiếp tục quát tháo, Tessa phải chớp mi cho nước mắt rơi ra khi ngoặt về hướng Pagford, xuyên ngang quảng trường, băng qua cửa hàng Mollison và Lowe, đài tưởng niệm chiến tranh và tiệm rượu Black Canon; cô rẽ trái ngay nhà thờ Thánh Michael và Các Thánh vào phố Church Row, cuối cùng cũng tấp được vào nhà. Lúc này, giọng gào của Colin đã hóa khàn khàn, còn gò má của Tessa đã đẫm nước mắt mặn chát. Khi ra khỏi xe, thái độ Fats chẳng mảy may thay đổi sau cơn lôi đình của ông bố, nó thản nhiên tự mở khóa cửa bước vào rồi ung dung bỏ lên lầu không buồn ngoảnh lại.
Colin ném chiếc cặp vào hành lang tối om rồi quay lại nhìn Tessa. Nguồn sáng duy nhất từ ô kính màu phía trên cửa trước hắt màu kỳ dị nửa đỏ nửa xanh lên mái đầu bắt đầu hói đang rung rung kích động của Colin.
- Cô thấy chưa - Ông vung tay quát - Thấy tôi phải chịu đựng cái thứ ôn dịch gì chưa?
- Có - Cô đáp, rút một nắm khăn giấy trong hộp đặt trên bàn ngoài hành lang lau mặt và xỉ mũi - Em thấy rồi.
- Nó chẳng hề để tâm một tí nào bố mẹ nó đang gặp chuyện gì nữa - Colin bắt đầu nấc khan nghẹn ngào, như đứa trẻ bị viêm họng. Tessa vội đi tới, vòng hai tay quanh người Colin, quãng trên eo một chút, vốn lùn và mập mạp nên cô chỉ ôm được đến chỗ ấy. Ông khom người ôm chặt lấy cô; qua lần áo khoác, cô cảm thấy người ông run rẩy và lồng ngực phập phồng.
Vài phút sau, cô nhẹ nhàng đẩy ông ra, đưa ông vào bếp rồi pha một bình trà mới.
- Em định mang ít thịt hầm sang nhà chị Mary - Tessa vừa nói vừa vuốt ve bàn tay chồng khi cả hai đã ngồi với nhau đươc một lúc - Một nửa gia đình chị ấy đang ở đó rồi. Khi nào em về mình đi ngủ sớm nhé.
Ông gật đầu, khịt mũi, cô khẽ hôn vào đầu ông trước khi bước ra tủ lạnh. Lúc cô quay lại với cái đĩa lạnh toát nặng trĩu, ông vẫn ngồi nguyên bên bàn, hai tay ôm chặt lấy cốc trà, mắt nhắm nghiền.
Tessa để món thịt hầm bọc trong túi nhựa xuống bậu cạnh cửa chính, khoác cái áo len xanh mà cô hay mặc thay áo khoác nhưng không mang giày. Cô nhón chân trần lên chỗ đầu cầu thang rồi bước nặng chân hơn qua tầng hai lên gác mái.
Có con gì như chuột chạy lướt qua khi cô đến trước cửa. Cô gõ gõ cửa cho Fats đủ thời gian tắt món gì đó đang xem trên mạng, mà cũng có thể là điếu thuốc lá mà nó không ngờ cô biết.
- Sao ạ?
Cô đẩy cửa. Cậu con trai đang vờ vĩnh cúi mình trên cái cặp đi học.
- Hết lúc rồi hay sao mà con chọn đúng ngày hôm nay cúp học hả?
Fats đứng thẳng dậy, người lẻo khoẻo, nó cao vượt hẳn bà mẹ.
- Con có đi học. Chỉ vào trễ chút thôi, tại ông thầy Bennett không để ý. Đúng là vô tích sự.
- Stuart, trời ơi. Làm ơn thôi đi.
Có khi cô cũng muốn quát vào mặt đám trẻ mình tư vấn ở trường. Cô muốn gào to lên. Các em phải chấp nhận bản chất của người khác nữa chứ. Các em tưởng điều đó có thể cò kè, dàn xếp, phán sao thì người ta tin vậy hay sao. Các em phải biết là chúng ta cũng như các em vậy, các em phải hiểu mình đâu phải là ông Trời.
- Bố con đang rất buồn, Stu. Vì chuyện bác Barry. Con có hiểu được không?
- Có - Fats đáp.
- Ý mẹ là, con cũng sẽ cảm thấy thế nếu giả sử Arf sắp chết.
Fats không đáp, cũng không tỏ vẻ gì, nhưng cô cảm nhận được sự khinh miệt đầy khoái trá của nó.
- Mẹ biết con nghĩ, con với Arf khác hẳn loại người như cha con và bác Barry...
- Không phải thế - Fats đáp, nhưng cô biết nó nói thế chỉ để mau kết thúc cuộc nói chuyện.
- Mẹ sẽ đem ít đồ ăn sang nhà cô Mary. Xin con đấy, Stuart, đừng có làm bố con bực lúc mẹ vắng nhà đấy. Nhé con, Stu.
- Vâng - nó nhún vai, cười cười đáp. Cô biết dù mình chưa bước hẳn ra ngoài, thằng nhỏ đã nghĩ sang chuyện riêng và chẳng buồn để ý gì đến cô nữa.
VICơn gió lạnh độc địa thổi dưới tầng mây trĩu thấp ban chiều tắt dần vào lúc hoàng hôn. Cách nhà Wall ba căn, Samantha Mollison đang ngồi đối diện với cái bóng mình phản chiếu trong gương trang điểm dưới ánh đèn bàn, xung quanh yên tĩnh đến phát sầu.
Mấy hôm nay thật chán. Cô hầu như chẳng bán được món đồ gì. Tay đại diện bán hàng từ Champêtre hóa ra là một thằng cha cằm nọng chán ngắt, áo ngực chào bán thì xấu mù. Rõ ràng gã chỉ ra vẻ lịch thiệp lúc đầu thôi, đến khi gặp chính thức thì thuần bàn công việc, lại còn ra vẻ kẻ cả, chê bai hàng họ rồi hối cô đặt hàng. Cô cứ ngỡ sẽ gặp anh chàng trẻ trung cao ráo và ngon nghẻ hơn; giờ cô chỉ muốn tống gã này với mớ đồ lót lòe loẹt của gã khỏi cửa hàng nhỏ của mình càng nhanh càng tốt.
Cô đã mua một tấm thiếp “chia buồn sâu sắc” cho Mary Fairbrother vào giờ nghỉ trưa, nhưng chưa nghĩ ra phải viết gì; đã đi cùng chị ta tới bệnh viện thế thì ký mỗi cái tên xem ra không phải lẽ. Trước giờ cô với Mary cũng chẳng thân thiết gì. Ở thị trấn nhỏ như Pagford thì dễ đụng mặt nhau thường xuyên, nhưng cô và Miles chưa khi nào hiểu rõ về ông bà Barry và Mary. Có chăng cũng chỉ nghe nói họ ở “phe kia”, ông bố chồng Howard với Barry suốt ngày đấu đá nhau về vụ khu Fields... mà cô, Samantha, thì chẳng việc quái gì mà ủng hộ phe nào. Cô ráng dính dáng càng ít càng tốt vào mấy vụ chính trị địa phương.
Bực bội mệt mỏi và phát ốm lên sau cả ngày chỉ kịp ăn vớ vẩn cho qua bữa, cô chỉ ước giờ không phải cùng Miles tới nhà bố mẹ chồng ăn tối. Nhìn vào gương, cô ép hai tay vào mặt hơi kéo căng da về phía tai. Một cô Samantha trông trẻ trung hơn vài milimét nhìn lại. Cô chậm rãi quay mặt từ phía này sang phía kia xem kỹ cái mặt nạ da căng mới này. Ổn hơn nhiều, đúng là thế. Không biết đi căng da thật thì có đau lắm không, tốn bao nhiêu và nhất là cô có dám thử không. Cô chuyển sang hình dung xem bà mẹ chồng sẽ nói gì khi thấy cô xuất hiện với gương mặt mới săn chắc, ông bà Shirley và Howard đang giúp tiền học cho cháu nội, và bà Shirley liên tục nhắc cho cô con dâu nhớ chuyện đó.
Miles bước vào phòng ngủ; Samantha buông tay, nhặt hộp kem che bọng mắt, hơi ngả đầu ra sau như thói quen mỗi khi trang điểm; tư thế này làm da chỗ xương hàm cô căng hơn một tí và bọng mắt có vẻ nhỏ đi. Viền môi cô có nhiều nếp nhăn ngắn nhưng sâu. Nghe nói nếu đi bơm thì mấy vết đó sẽ mất. Không biết làm xong trông có khác gì nhiều không nhỉ. Thủ thuật này hẳn là rẻ hơn đi nâng mặt, chắc mẹ chồng cũng không phát hiện ra. Nhìn qua gương, cô thấy Miles đang tháo cà vạt, cởi áo, cái bụng bự xệ xuống lưng quần.
- Hôm nay em phải gặp ai? Đại diện bán hàng à? - Anh hỏi, vừa nhìn tủ áo vừa lơ đãng gãi gãi cái rốn rậm lông.
- Ừ, nhưng hàng họ chả ra làm sao - Samantha đáp - toàn mấy thứ chán ngắt.
Miles thích việc bán hàng của vợ; nhà anh trước nay trọng nghề bán lẻ, vì vậy sự quan tâm tới ngành thương mại mà bố Howard truyền cho con trai chẳng bao giờ mất đi. Mà thứ hàng cô kinh doanh thì có khối chuyện để đùa. Miles có vẻ chẳng bao giờ chán chuyện đùa giễu cùng một vấn đề cả.
- Kích cỡ không hợp à? - Anh hỏi ra vẻ hiểu biết.
- Kiểu dáng xấu mù. Màu sắc còn kinh hơn.
Samantha chải tóc rồi buộc túm mái tóc nâu khô xác nhưng dày; qua gương, cô nhìn Miles thay đồ đi làm sang quần vải bông và áo thun polo. Cô đang cực kỳ căng thẳng, tưởng như chỉ cần một cớ nhỏ là sẵn sàng nổi điên lên.
Nhà Trăng Khuyết chỉ cách nhà họ vài phút chạy xe, nhưng phố Church Row khá dốc nên họ vẫn đánh xe hơi đi. Màn đêm đã buông xuống hẳn, lúc chạy ngang đầu đường, có bóng ai đang đi mờ mờ trông giống hệt Barry Fairbrother; Samantha giật thót mình ngoái lại nhìn, không biết đó là ai. Miles rẽ trái ngay cuối đường rồi chưa đầy một phút sau lại quẹo phải vào khu bungalow hình trăng khuyết kiểu thập niên 30.
Nhà của Howard và Shirley thấp, xây bằng gạch đỏ với những cánh cửa sổ rộng rãi, bãi cỏ dài xanh mướt kiêu hãnh bao lấy sân trước lẫn sân sau, cứ đến hè là Miles lại đến giúp xén cỏ thành từng dải. Trong suốt nhiều năm dài cư ngụ tại đây, Howard và Shirley dần dần đã gắn thêm đèn, lắp cánh cổng bằng sắt chạm sơn trắng và đặt nhiều bình đất nung trồng hoa phong lữ ở hai bên cổng. Hai vợ chồng còn gắn một tấm biển tròn bằng gỗ đánh sáng bóng cạnh chuông cửa, trên đó có chữ “Ambleside” viết bằng những chữ cái đen kiểu Gothic đặt trong dấu nháy.
Đôi khi Samantha châm chích khá cay về số tiền bố mẹ chồng đổ vào căn nhà. Miles chịu đựng những câu châm chọc đó, ra vẻ đồng tình rằng căn nhà hiện nay của họ, với sàn nhà và cửa chà nhám giả gỗ mộc, thảm phủ sàn, mấy tấm tranh in lồng khung cũng như chiếc ghế sofa kiểu cọ nhưng không thoải mái của họ có vẻ mỹ thuật hơn hẳn; nhưng tận đáy lòng, anh vẫn thích căn bungalow nơi mình lớn lên. Hầu như chỗ nào cũng có lót bọc vừa mềm vừa sang, không có gió lùa, và những chiếc ghế tựa mới êm ái làm sao. Mùa hè, mỗi khi anh cắt cỏ xong là mẹ Shirley lại mang cho một ly bia lạnh, rồi anh nằm dài ra cùng bố mẹ xem đấu cricket trên tivi màn ảnh rộng. Thỉnh thoảng một cô con gái lại chạy vào ngồi cạnh anh ăn món kem phủ sôcôla bà nội Shirley đặc biệt làm cho cháu.
- Chào cưng - Shirley mở cửa. Thân hình thấp bé gọn gàng của bà làm người ta dễ liên tưởng tới lọ đựng tiêu xinh xắn. Bà nhón chân hôn cậu con trai cao to, nói qua loa “Chào con, Sam”, rồi quay đi ngay. - Bữa tối gần xong rồi. Howard! Các con đến rồi này!
Căn nhà tỏa mùi đồ gỗ đánh bóng và mùi đồ ăn thơm nức. Howard từ trong bếp ló ra, một tay cầm chai rượu vang, tay kia cầm đồ khui. Shirley thành thục né người vào phòng ăn để Howard kềnh càng đi qua trước khi lướt vội vào bếp.
- À các quý nhân đến rồi đây - Howard oang oang - Việc kinh doanh xú-chiêng thế nào rồi Sammy? Vẫn bơm sữa tốt cứu kinh tế suy thoái chứ hả?
- Dạo này làm ăn đúng là khá lắm, bố ạ - Samantha đáp.
Howard phá ra cười, Samantha đồ rằng nếu tay không vướng chai rượu hẳn ông đã vỗ mông cô. Cô chịu đựng mấy trò ôm hôn phát vỗ của ông bố chồng, coi đó là kiểu phô trương vô hại của ông cụ đã quá già quá béo chẳng còn làm ăn gì được; vả lại hễ là chuyện làm Shirley bực mình thì Samantha đều thích. Shirley không bao giờ tỏ thái độ không hài lòng ra mặt, nụ cười của bà không mảy may suy suyển, cả cái kiểu cách ngọt ngào phải chăng cũng thế, nhưng trong vài lúc ngắn ngủi khi Howard lộ tí đỉnh máu dê thì bà luôn bắn đạn bọc đường vào cô con dâu. Kiểu như bóng gió nhắc tới chuyện học phí cho mấy cô cháu gái ngày một tăng vọt, hỏi han về chế độ ăn kiêng của Samantha, hay hỏi Miles lẽ nào anh không thấy bà Mary Fairbrother giữ dáng đến là khéo hay sao; Samantha chỉ cười nhẫn nhịn, rồi sau đó mới trút cả lên đầu Miles.
- Chào cô! - Miles cất tiếng, bước qua mặt Samantha vào chỗ mà vợ chồng Howard vẫn gọi là sảnh đón khách - Cháu không biết cô cũng tới đấy.
- Chào anh chàng đẹp trai - Maureen khàn khàn đáp - Hôn cô một cái nào.
Bà bạn làm ăn của Howard đang ngồi ở góc sofa, tay cầm ly rượu anh đào nhỏ xíu. Bà mặc váy dài màu hồng phớt tím, vớ đen và giày da sơn cao gót. Mái tóc đen óng của bà chải phồng xịt keo cứng ngắc, làm bộ mặt nom nhợt nhạt và dúm dó như mặt khỉ, cặp môi quết sơn hồng dày cộp dẩu ra khi Miles cúi người hôn má bà.
- Đang bàn công việc. Chuẩn bị cho quán café mới. Chào cháu cưng, Sam. - Mareen vỗ vỗ chỗ ngồi trên sofa cạnh mình - Ôi cháu xinh quá, hãy còn rám nắng từ hồi đi đảo Ibiza chơi đấy à? Ngồi đây với cô này. Hôm ở câu lạc bộ golf chắc cháu sốc lắm nhỉ. Nghĩ mà rùng mình.
- Vâng, đúng ạ - Samantha đáp.
Thế rồi lần đầu tiên cô kể được với người khác về cái chết của Barry, trong lúc Miles cứ lượn lờ chung quanh tìm cơ hội nói chen. Howard đưa mấy cốc rượu Pinot Frigio lớn cho mọi người, chăm chú nghe Samantha kể chuyện sổ sách cửa hàng. Dần dần, thấy được Howard và Maureen quan tâm, lại thêm chút cồn làm trong người ấm áp dễ chịu, Samantha có vẻ trút bỏ được sự căng thẳng suốt hai ngày nay và bắt đầu thấy thoải mái hơn.
Căn phòng ấm áp và sạch tinh tươm. Các kệ hai bên lò sưởi gas bày một dãy đồ sứ trang trí, hầu như thứ nào cũng là đồ lưu niệm liên quan các sự kiện hoàng gia hay dịp kỷ niệm nào đó của triều Elizabeth Đệ Nhị. Chiếc kệ sách nhỏ trong góc phòng chứa bộ sưu tập các sách về tiểu sử hoàng gia và nhiều sách nấu ăn bóng loáng vốn đã đầy khắp bếp. Tường nhà và kệ được tô điểm bằng những bức ảnh: hình Miles và em gái Patricia trông giống nhau như đúc khi mặc đồng phục trường; hình hai cô con gái của Miles và Samantha: Lexie và Libby từ thuở ẵm ngửa tới lúc thiếu niên. Samantha chỉ xuất hiện trong một tấm hình duy nhất, nhưng đó là một trong những tấm khổ lớn và nổi bật nhất. Đó là hình cưới của cô và Miles mười sáu năm trước. Khi đó Miles trẻ và đẹp trai, cặp mắt xanh rất sắc hơi chau, còn mắt Samantha hơi nhắm vì chụp lúc chớp mắt, mặt hơi xoay ngang, cằm lộ ngấn khi cô cười nhìn vào ống kính khác. Chiếc váy cưới bằng satin trắng căng tức trên khuôn ngực đã phồng lên vì tuần thai sớm làm cô trông thật đồ sộ.
Maureen đang lấy bàn tay gầy khô như cẳng chim nghịch nghịch sợi dây chuyền lồng thánh giá và chiếc nhẫn cưới của ông chồng sau, bà lúc nào cũng đeo nó trên cổ. Khi Samantha kể tới đoạn bác sĩ thông báo với Mary rằng bệnh viện không còn làm gì được nữa, bà Maureen đặt bàn tay còn lại lên đầu gối cô mà bóp mạnh.
- Bữa tối xong rồi đây! - Shirley gọi. Dù không muốn lại bàn ăn nhưng rõ ràng Samantha thấy dễ chịu hơn hai ngày vừa rồi nhiều. Maureen và Howard săn đón tôn trọng cô như thể cô vừa là nữ anh hùng vừa là người khuyết tật, và cả hai đều khẽ vỗ nhẹ vào lưng cô khi cô bước ngang qua họ vào phòng ăn.
Bà Shirley đã vặn nhỏ đèn và châm những ngọn nến dài màu hồng cho hợp với giấy dán tường và bộ khăn ăn đẹp nhất nhà. Làn hơi bốc ra từ mấy đĩa xúp trong ánh sáng lờ mờ làm gương mặt bè bè đỏ ửng của Howard trông cũng có vẻ phi thực, uống gần hết cốc rượu vang lớn, Samantha ngà ngà nghĩ bây giờ mà ông Howard tuyên bố họ sẽ làm lễ cầu hồn để triệu Barry về giải thích vụ ở sân golf thì chắc buồn cười lắm đây.
- Vậy - Lão Howard nói, giọng trầm trầm - Bố nghĩ ta nên nâng cốc vì Barry Fairbrother.
Samantha dốc vội phần mình để Shirley không kịp nhận ra nó đã gần cạn.
- Khá chắc là do chứng phình mạch - Miles nói lúc đặt cốc xuống bàn. Anh ta giữ kín thông tin này, kể cả với Samantha kẻo cô phí phạm mà kể trước lúc trò chuyện với Maureen và Howard. Khi Gavin gọi cho Mary để chia buồn và trao đổi về ý nguyện của người đã khuất, Mary đã cho biết nguyên nhân cái chết. Đại khái là một động mạch trong đầu ông sưng phồng lên rồi vỡ tung (Ngay khi dò ra cách viết, anh đã tra thuật ngữ này trên mạng khi về văn phòng sau cuộc nói chuyện với Gavin) - Sự cố kiểu này có thể xảy ra vào bất kỳ lúc nào. Một kiểu khiếm khuyết bẩm sinh mà.
- Nghe kinh thật - Howard bình luận, lão chợt nhận ra cốc của Samantha đã cạn nên rướn người tới rót đầy thêm. Shirley yên lặng húp xúp, lông mày nhướn căng. Samantha thản nhiên nhấp rượu một cách chậm rãi.
- Mọi người biết không? - Cô nói, hơi ríu lưỡi - Con nghĩ con thấy ông ấy trên đường tới đây. Trong bóng đêm. Barry ấy.
- Chắc là anh em gì đó của ông ấy thôi - Shirley phũ phàng cắt ngang. - Mấy người họ giống nhau lắm.
Nhưng bà Maureen đã quay sang Shirley mà tuôn ra cả tràng.
- Tôi thì chắc mình thấy Ken, vào buổi tối sau khi ông ấy mất. Rõ như ban ngày nhé, ông ấy đứng trong vườn, ngẩng lên nhìn tôi qua cửa sổ nhà bếp. Ngay giữa mấy bụi hồng của ông ấy.
Không ai đáp vì mọi người đều nghe bà kể chuyện này rồi. Cả phút sau chỉ nghe tiếng nhai húp khe khẽ, rồi Maureen lại quàng quạc:
- Gavin khá thân với ông Fairbrother, phải không Miles? Cậu ta chơi bóng quần với Barry mà phải không? Đúng ra tôi nói “từng chơi” thì đúng hơn.
- Vâng, Barry đả bại anh ta mỗi tuần một lần. Hẳn là Gavin chơi cũng chẳng ra sao, Barry hơn anh ta những mười tuổi mà.
Gương mặt cả ba người phụ nữ dưới ánh nến đồng loạt hơi kênh lên với vẻ khoái trá ngấm ngầm. Nếu ba con người này có điểm chung nào thì đó chính là mối quan tâm thường trực tới anh đối tác trẻ gầy nhẳng của Miles. Đối với Maureen, cái vẻ ấy đơn thuần là biểu hiện của thói hám buôn chuyện không mệt mỏi ở Pagford, mà hành trạng của anh chàng cử nhân trẻ măng rõ ràng là miếng mồi thơm. Shirley luôn thích chí khi nghe những lúc Gavin rơi vào cảnh dưới cơ hay thiếu tự tin, vì như thế càng làm tôn lên sự thành đạt, tự chủ của hai vị thánh trong đời bà, Howard và Miles. Nhưng với Samantha, cái vẻ thụ động và dè chừng của anh thức tỉnh cái thói độc địa kiểu đàn bà: Cô thèm khát được thấy anh ta bị tát cho tỉnh người rồi cụp đuôi ngoan ngoãn nghe lời hay bị một con cái cuồng bạo nào đó dần cho một trận. Mỗi khi đụng mặt là cô lại tìm cách bắt nạt anh chàng tí đỉnh, và khoái chí nghĩ anh này hẳn phải coi mình là kẻ khó trêu vào.
- Thế dạo này anh ta thế nào? - Maureen hỏi - chuyện với quý cô ở London ấy?
- Cô nàng đâu còn ở London nữa, Mo. Cô ấy dời về phố Hope rồi - Miles đáp - Nói thật nhé, anh ta giờ hối hận vì qua lại với cô ấy đấy. Cô biết Gavin rồi mà. Nhát từ trong trứng.
Miles học trên Gavin vài năm nên cứ hễ nhắc tới đối tác của mình là giọng của anh lại không giấu được vẻ kẻ cả.
- Cô nàng da nâu? Tóc rất ngắn phải không?
- Chính cô ấy đấy - Miles xác nhận - nhân viên xã hội. Đi giày đế bằng.
- Thế thì mình gặp cô ấy trong tiệm thực phẩm rồi, phải không ông. Nhưng sao thế được nhỉ? - Maureen háo hức hỏi - Nhìn bề ngoài tôi cứ tưởng cô ấy làm đầu bếp hay đại loại thế chứ.
Sau món xúp là thăn heo nướng. Với sự đồng lõa của ông bố chồng, Samantha đang dần thấm say một cách dễ chịu, trong lòng cô nhoi nhói chút phản đối yếu ớt, như một người bị cuốn trôi ra biển. Cô gắng chiêu thêm rượu để vùi cảm giác đó xuống.
Khoảng lặng ngắn phủ lên bàn như tấm khăn trải bàn mới thay, tinh khôi và mong ngóng, lúc này hình như ai cũng hiểu đến lượt Howard gợi ra đề tài mới. Ông ăn uống một lúc, nốc rượu cho trôi từng miếng nhồm nhoàm, hoàn toàn không màng tới ánh mắt mọi người đổ về. Cuối cùng, khi đã thanh toán nửa đĩa đồ ăn, ông mới chấm nhẹ khăn ăn lên miệng rồi bắt đầu nói.
- Ờ, bây giờ hội đồng sẽ hay lắm đây - Lão im bặt để nén cái ợ ầm ĩ, trông mặt như phát bệnh đến nơi. Lão đấm ngực - Xin lỗi. Ờ phải, sẽ thú vị lắm đây. Giờ Fairbrother đã chết - Howard chuyển qua dùng cách xưng hô khi bàn công việc theo thói quen - Bài ông ta gửi đăng báo vẫn chưa xong. Trừ khi cô nàng Tai Cụp viết tiếp, rõ là thế - ông nói thêm.
Howard đặt cho Parminder Jawanda biệt hiệu “Nữ hoàng Tai Cụp” sau khi cô dự cuộc họp hội đồng khu lần đầu tiên với tư cách ủy viên hội đồng. Đó là chuyện đùa phổ biến trong cánh chống-dân-khu-Fields.
- Trời, cái vẻ mặt của chị ta - Maureen nói với Shirley - Cái vẻ mặt đó, khi chúng tôi báo tin. Trời, tôi cứ nghĩ... chị biết đấy…
Samantha cũng đang vểnh tai lên mà nghe, câu bóng gió của mụ Maureen đúng là cười vỡ bụng. Bà Parminder cưới ông chồng đẹp mã nhất Pagford: ông Vikram cao ráo cân đối, mũi khoằm, lông mày đen rậm, nụ cười trễ nải thạo đời. Nhiều năm nay cứ mỗi khi dừng lại chào hỏi Vikram, Samantha đều xốc tóc lên cho hấp dẫn và cười nhiều hơn bình thường; trước đây thân hình Miles cũng gần được như ông nhưng sau khi thôi chơi bóng bầu dục anh bắt đầu phệ nhẽo ra.
Sau khi thành hàng xóm với Vikram được ít lâu, Samantha nghe phong thanh rằng cuộc hôn nhân của Vikram và Parminder là do sắp đặt. Cô thấy cái tin này hấp dẫn không chịu được. Cứ nghĩ mà xem, bị buộc phải cưới Vikram, rồi buộc phải làm chuyện đó; cô mơ màng tưởng tới cảnh mình bị trùm đầu đẩy vào phòng, như người trinh nữ phải tuân theo số phận... Cứ nghĩ tới lúc mở mắt nhìn lên, rồi thấy là mình có được cái món đó... Nhưng cứ nghĩ tới nghề nghiệp của ông này mà kinh, đáng ra việc thế phải dành cho gã nào xấu xí và ít quyến rũ hơn nhiều chứ...
(Bảy năm trước, Vikram làm phẫu thuật thông tim cho Howard. Kết quả là hễ ông bước chân vào hiệu Mollison và Lowe là thế nào cũng bị trêu đùa tối tăm mày mặt.)
- Vui lòng lên đầu hàng đi, thưa ông Jawanda! Mời bà tránh ra một bên! - Không không, cứ lên đi ông Jawanda - Ông này đã cứu mạng tôi đấy, ổng vá víu quả tim già này - Ông mua gì nào, ông Jawanda?
Howard luôn ép Vikram nhận vài món hàng mẫu miễn phí hoặc cân nặng tay cho ông chút ít. Samantha đồ rằng chính vì cái trò hề đó mà Vikram hầu như chẳng bao giờ đặt chân vào hiệu thực phẩm nữa.)
Cô hụt mất mạch câu chuyện, nhưng cũng chả sao. Mấy người kia vẫn đang bàn tán về nội dung bài báo Barry Fairbrother viết cho báo địa phương.
-... đúng ra phải nói cho ra lẽ với ông ta về chuyện đó - tiếng Howard như lệnh vỡ - Chơi lén lút kiểu đó thì bẩn quá. Thôi thôi, dù sao thì chuyện cũng qua rồi.
- Giờ quan trọng là phải nghĩ xem ai sẽ thay thế Fairbrother. Tai Cụp giờ đang rối cả ruột đấy, nhưng không coi thường bà ta được đâu. Sai lầm lớn đấy. Có khi bà ta đã đang tìm người rồi, nên cánh ta cũng phải kiếm tay nào kha khá mới được. Đi trước một bước vẫn hơn. Muốn quản trị tốt thì phải thế thôi
- Ý bố là sao? - Miles hỏi - Tổ chức bầu cử à?
- Có thể thế - Howard khôn ngoan lựa lời - Nhưng bố không chắc. Chỉ một ghế khuyết ngoài dự kiến thôi thì cũng không cần tổ chức bầu cử công khai rình rang; nhưng bố nói rồi đấy không thể coi thường Tai Cụp được đâu. Dù sao nếu bà ta không vận động được đủ chín người đồng thời đề nghị tổ chức bỏ phiếu công khai thì hội đồng chỉ cần tổ chức chỉ định kết nạp thêm một ủy viên mới thôi. Mà khi đó ta cũng cần chín phiếu để được thông qua. Con số theo quy định là chín người. Nhiệm kỳ của Fairbrother hãy còn ba năm nữa. Đáng để mà cố đấy. Nếu đưa được một người của cánh ta vào thay Fairbrother là có khả năng lật ngược thế cờ.
Howard gõ gõ mấy ngón tay dày mập vào cốc rượu, nhìn cậu con trai ngồi bên kia bàn. Shirley và Maureen cũng đang chú mục vào cậu. Samantha nghĩ trong mắt Miles lúc này ông bố như con chó béo mập đang háo hức chực xương.
Nếu còn đủ tỉnh táo hẳn cô đã phản ứng. Samantha hiểu rõ chuyện này rốt cục dẫn tới đâu, và cả cái không khí ăn mừng chiến thắng kỳ quặc lơ lửng trên bàn ăn nghĩa là gì. Cơn say của cô đã hơi hả, nhưng cô đột nhiên kìm mình lại phút chót vì không chắc còn điều khiển tốt cái lưỡi không sau khi dốc cạn cả chai vang và sau khoảng lặng dài như thế. Thay vì thốt ra lời, cô nghĩ thầm trong đầu.
Miles chết tiệt, anh phải nói ngay cho họ thủng rằng anh phải về bàn trước với tôi vụ này đã chứ.
VIITessa Wall không định nán lại nhà bà Mary lâu vì cứ hễ hai bố con ở nhà với nhau là cô lại nơm nớp lo lắng, thế mà không hiểu sao cuộc ghé thăm lại kéo dài hàng mấy giờ. Nhà Fairbrother lổn nhổn giường xếp và túi ngủ; họ hàng lũ lượt đổ về như bị hút bởi lỗ chân không hoác ra từ cái chết, nhưng căn nhà có nhộn nhịp xôn xao đến mấy cũng không lấp nổi khoảng trống thăm thẳm mà Barry đã tan biến vào.
Tessa thả bộ về phố Church Row trong bóng tối, người buốt nhoi nhói vì chiếc áo len không đủ ấm. Lần đầu tiên sau cái chết của ông bạn, cô mới được yên tĩnh suy nghĩ thế này. Đường vắng, chỉ nghe tiếng vòng hạt gỗ đeo cổ của cô va nhau khe khẽ và tiếng tivi văng vẳng từ các nhà ven đường.
Thốt nhiên Tessa nghĩ, Không biết Barry có biết chuyện không nhỉ.
Cô chưa bao giờ nghĩ chồng mình kể với Barry về bí mật lớn nhất đời cô, vết ung thối cô vùi tận đáy cuộc hôn nhân của mình. Cô và Colin thậm chí chưa từng nhắc đến nó (tuy nhiều lần nó làm các cuộc chuyện trò của họ mất vui, nhất là dạo gần đây...)
Như tối nay, hình như Mary liếc nhìn mình khi nghe nhắc tới Fats...
Đó là do mày mệt quá mà tưởng tượng ra đó thôi - Tessa nghiêm khắc tự cảnh cáo. Colin vốn rất kín kẽ, hẳn anh không bao giờ hở ra chuyện này, ngay cả với thần tượng Barry của anh ấy. Tessa không muốn tin rằng Barry biết chuyện… nếu thế hóa ra mọi sự tử tế trước nay của ông với Colin chỉ do lòng thương hại vì những gì mà cô, Tessa, đã làm...
Khi bước vào phòng khách, cô thấy ông chồng đeo kính ngồi trước tivi đang phát dở mục tin tức. Ông đặt xấp giấy in trong lòng, tay cầm viết mực. Tessa nhẹ cả người thấy thằng Fats không ở đó.
- Chị ấy thế nào rồi? - Colin hỏi
- Thì, anh biết đấy... cũng không ổn lắm - Tessa đáp. Cô buông mình xuống chiếc ghế bành cũ, khẽ rên lên khoan khoái tuột đôi giày cũ mòn ra. - Anh trai của Barry đúng là tuyệt vời thật.
- Như thế nào?
- Thì... hết lòng giúp đỡ nọ kia.
Cô nhắm mắt, dùng ngón cái và ngón trỏ xoa bóp sống mũi và mí mắt.
- Anh cứ thấy ông ta không đáng tin thế nào ấy - Colin nói.
- Thế à? - Tessa hỏi lại, mắt vẫn nhắm nghiền.
- Ừ. Em có nhớ hồi ông ta hứa đến cầm còi cho trận đấu giữa đội khu mình với đội của Paxton High không? Còn nửa tiếng trước khi khai trận ông ta mới báo hủy, rồi Baterman phải làm thay đấy?
Tessa nuốt xuống câu phản biện. Colin có thói quen đánh giá khái quát con người ta chỉ từ ấn tượng đầu tiên hay một sự việc đơn lẻ nào đó. Ông xem ra không hiểu được bản chất con người biến đổi khôn lường đến thế nào, mà cũng không thấy được rằng sau mỗi gương mặt bình thường đều là một cõi miền hoang sơ và độc nhất, như trong chính con người ông.
- Thì thấy ông ta cũng dịu dàng với mấy đứa cháu - Tessa lựa lời - Thôi em phải đi ngủ đây.
Nói vậy chứ cô vẫn chưa nhúc nhích, tập trung cảm nhận sự đau nhức đang lan khắp chân, thắt lưng, bả vai.
- Tess này, anh cứ nghĩ...
- Ừm?
Cặp kính làm đôi mắt Colin díu lại như mắt chuột chũi, khiến cái trán cao hói hơi gồ lên của ông càng nổi bật.
- Về những điều Barry gắng làm cho hội đồng khu. Những thứ ông ấy từng bỏ bao công sức đấu tranh. Như khu Fields này, trung tâm cai nghiện nữa. Suốt ngày hôm nay anh cứ nghĩ về chuyện đó. - Ông hít sâu một hơi - Anh quyết định là mình sẽ thế chân ông ấy.
Nỗi nghi ngại cồn lên trong lòng ấn chặt Tessa vào ghế và làm cô im bặt mất một lúc. Cô gắng giữ cho thái độ của mình được trung lập tỉnh táo.
- Hẳn là Barry cũng mong anh làm vậy - Colin nói thêm. Cơn hào hứng ít thấy nơi ông thoáng nhuốm vẻ dè dặt.
Không bao giờ - Tận đáy lòng Tessa nghĩ - không bao giờ có phút giây nào Barry muốn anh làm chuyện này. Ông ấy nếu có chọn anh đi nữa thì cũng là khi chẳng còn ai khác mà thôi.
- Trời - cô nói - Em biết Barry rất... nhưng chuyện này khá nặng gánh đấy Colin. Mà Parminder vẫn đấy chứ đâu, chắc hẳn chị ấy sẽ gắng hoàn thành tất cả những gì Barry định làm.
Đúng ra mình phải gọi báo cho Parminder biết - Tessa sực nghĩ trong khi đáp lời ông chồng, bụng quặn lên vì ân hận - Ôi trời ơi, sao mình không nghĩ tới chuyện gọi cho Parminder nhỉ?
- Nhưng chị ta cũng cần được hỗ trợ chứ; chị ta đã bao giờ đủ sức một mình đối lại cả cánh kia đâu - Colin phản bác - mà giờ hẳn là Howard Mollison đã chuẩn bị sẵn con rối nào đó để thay chân Barry rồi. Có lẽ hắn ta đã...
- Kìa, Colin...
- Dám cá là thế! Em quá biết con người lão rồi mà!
Xấp giấy trong lòng Colin rời ra bay lõa xõa trắng cả sàn.
- Anh muốn làm chuyện này vì Barry. Anh sẽ tiếp tục ở chỗ ông ấy ngừng. Anh sẽ đảm bảo công sức ông ấy đổ ra bấy lâu nay không tan thành mây khói. Anh nắm rõ mấy chuyện đang đưa ra bàn cãi mà. Ông ấy luôn nói bây giờ là thời cơ tốt nhất, cứ chờ xem ông ấy làm được gì cho mọi người. Anh đã quyết ra ứng cử. Ngay ngày mai là đi tìm hiểu xem cần làm những gì luôn.
- Được thôi - Tessa đáp. Kinh nghiệm bao nhiêu năm vợ chồng đã dạy cô rằng chớ nên cản Colin lúc ông đang lên cơn hưng phấn, có khuyên thế nào cũng chỉ khiến ông khăng khăng theo ý mình hơn thôi. Cũng từ kinh nghiệm nhiều năm, Colin thừa hiểu Tessa hay tỏ vẻ đồng tình lúc đầu rồi sau mới tỏ ý phản đối. Kiểu nhường nhịn này gắn với ký ức chung ngấm ngầm về bí mật bị chôn giấu bao lâu nay. Tessa cảm thấy mình mắc nợ ông chồng. Còn Colin luôn mang cảm giác của kẻ làm ơn.
- Anh thực sự muốn làm chuyện này, Tessa.
- Em hiểu, Colin.
Cô nhấc mình khỏi ghế bành, không biết còn đủ sức lê lên lầu nữa không.
- Anh đi ngủ bây giờ chưa?
- Tí nữa, phải xem cho xong mớ này đã.
Ông gom lại mớ tài liệu rơi đầy sàn, xem ra ông đang bừng bừng sung sức với kế hoạch mới đầy khó khăn đó.
Tessa chậm rãi cởi đồ trong phòng ngủ. Lực hút trái đất có vẻ mạnh hơn với cô, chân tay nặng như chì, đến kéo cái phéc-mơ-tuya cũng mệt. Cô tròng váy ngủ rồi vào nhà tắm, nghe tiếng Fats đang đi lại trên lầu. Dạo gần đây, cô thường thấy kiệt quệ và cô đơn vì cứ phải xoay qua xoay lại giữa chồng với con, hai bố con nhà này sao cứ như chủ nhà với khách trọ.
Lúc Tessa định tháo đồng hồ, cô mới chợt nhận ra đã làm mất nó hôm qua. Mệt mỏi quá,.. cứ mất thứ này thứ khác... mà làm sao lại quên gọi Parminder được nhỉ? Vừa căng thẳng lo lắng vừa rầu lòng đến phát khóc, Tessa đổ vật ra giường.