THỨ BẢY I
Chín giờ sáng, mọi chỗ đậu xe trên phố Church Row đều chật kín. Những người đi viếng đám tang trong trang phục sẫm màu đến riêng lẻ, đi thành cặp hay kết nhóm lũ lượt đổ về nhà thờ Thánh Michael và Các Thánh. Đường vào nhà thờ đông dần rồi đặc nghẹt; người ta tản ra khu nghĩa địa gần đó, gắng tìm một chỗ len chân giữa những tấm bia, vừa sợ giẫm chân lên mộ phần người đã khuất vừa không muốn phải đứng cách lối vào nhà thờ quá xa. Rõ ràng mấy dãy ghế dài trong nhà thờ không đủ chỗ chứa đoàn người đông đúc đến vĩnh biệt Barry Fairbrother.
Nhóm đồng sự tại ngân hàng của người quá cố tụ tập quanh tấm bia hoành tráng nhất của dòng họ Sweetlove, ngán ngẩm cầu cho tay đại diện bệ vệ từ trụ sở chính đem mớ chuyện linh tinh cùng mấy câu đùa nhạt nhẽo của gã đi phứt chỗ khác cho rảnh. Ba cô bé Lauren, Holley và Jennifer trong đội đua thuyền không đứng chung với bố mẹ mà cùng nép trong bóng râm nhỏ xíu của cây thông. Nhóm ủy viên hội đồng khu trông “thập cẩm” nhất, đang nghiêm trang chuyện trò ngay giữa lối vào; Có nhóm toàn đầu hói với kính dày; nhóm khác trông ít uyên bác hơn với nón mùa hè và vòng ngọc trai nuôi. Mấy người trong câu lạc bộ bóng quần và goft khẽ chào hỏi nhau; bạn học cũ thời đại học nhận ra nhau từ xa len qua đám đông lại gần nhau; và hầu như toàn bộ dân Pagford đều đến viếng trong trang phục sậm màu đẹp nhất của họ. Tiếng nói chuyện vang lên rù rì; những gương mặt xoay trở ngóng chờ.
Tessa Wall mặc chiếc áo khoác đẹp nhất bằng len xám, chỗ nách cắt quá sát đến độ cô không cách nào giơ tay lên cao quá ngực được. Cô đứng cạnh con trai ở mé bên lối vào nhà thờ, vừa hơi nghiêm trang mỉm cười và liên tục vẫy tay với những người quen đi ngang vừa hạ giọng thuyết phục cậu con, cố không để ai nhận thấy.
- Vì Chúa, Stu. Đây là bạn thân nhất của bố con. Con cố gắng để tâm chỉ một lần này thôi có được không.
- Có ai bảo trước là lễ dài lê thê phát ngán vậy đâu. Mẹ nói chừng mười một rưỡi là xong mà.
- Đừng có nói bậy. Mẹ nói đoàn đưa tang sẽ rời nhà thờ Thánh Michael độ mười một giờ rưỡi...
- Cho nên con mới nghĩ lúc đó là xong. Con hẹn thằng Arf rồi.
- Nhưng con phải dự lễ an táng nữa. Cha con hôm nay hộ tang mà. Con điện cho Arf hẹn lại ngày mai đi.
- Mai nó không rảnh. Với lại con không mang di động theo. Ông Tủ nói con không được mang điện thoại vào nhà thờ.
- Đừng có gọi bố là ông Tủ! Con dùng máy mẹ mà gọi Arf này - Tessa thọc tay vào túi áo.
- Con không thuộc số điện thoại của nó - Fats lạnh nhạt nói dối.
Tối hôm trước hai vợ chồng ăn tối mà không có Fats vì nó đạp xe tới nhà Andrew cùng làm bài tập tiếng Anh. Đó là lý do Fats dựng lên và Tessa cũng vờ tin. Vì cô cũng muốn Fats ở chỗ khác để không chọc giận Colin nữa.
Ít nhất thằng bé đã chịu mặc bộ lễ phục mẹ mới mua cho từ Yarvil. Hôm đó cô phát cáu với nó khi hai mẹ con vào tới tiệm thứ ba. Nó thử thứ gì trên người trông cũng như thằng lang thang, vừa lóng ngóng vừa nhăng nháo, cô tức giận nghĩ nó cố tình làm thế; nếu cho nó tự chọn không chừng nó còn bơm phồng cả bộ quần áo lên mới thấy vừa.
- Suỵt - Tessa nói chặn. Thật ra Fats lúc đó không nói gì nhưng vì Colin đang dẫn Jawandas tiến đến chỗ họ. Ông này hình như quá căng thẳng mà nhầm vai hộ tang với vai người dẫn chỗ, ông cứ lượn lên lượn xuống chỗ cổng vào để đón tiếp mọi người. Bà Parminder trông hốc hác và khắc nghiệt trong bộ sari đứng trước mấy đứa con; Vikram mặc bộ lễ phục đen, trông bảnh bao như diễn viên điện ảnh.
Cách cửa nhà thờ vài mét, Samantha Mollison đang cùng đợi với chồng, cô ngước nhìn bầu trời dày mây, vẩn vơ tiếc rẻ ngần ấy ánh mặt trời lại bị tầng mây phí phạm chặn lại. Cô quyết không rời lối đi lát gạch cứng dù nhiều bà lớn tuổi khác phải dầm chân tới mắt cá trong bãi cỏ lạnh toát. Hôm nay cô đi giày da sơn cao gót, kiểu này mà đứng trên đất mềm thế nào cũng bị lún và bẩn hết.
Miles và Samantha vui vẻ đáp lời chào hỏi của người quen đi ngang nhưng không nói năng gì với nhau. Hai vợ chồng hãy còn lấn cấn từ tối hôm trước. Vài người hỏi thăm Lexie và Libby vì hai cô con gái thường được về nhà vào cuối tuần, nhưng tuần này hai đứa đều đến ở chơi nhà bạn. Samantha biết Miles tiếc hai con không đi dự được, vì anh luôn thích phô phang vai trò làm cha trước mọi người. Cô chợt lóe lên nỗi khoái trá khi nghĩ tới chuyện có khi anh ta phải nhờ đến cô và hai người cùng chụp ảnh để in trên tờ rơi vận động bầu cử. Đợi đến lúc đó cô sẽ bảo là mình phải suy nghĩ đã.
Samantha thấy rõ là chồng mình hơi choáng trước số lượng người dự tang. Rõ ràng anh tiếc không giữ vai trò nổi bật trong buổi lễ sắp tới. Với số cử tri hội tụ đông đủ như thế, đây rõ ràng là cơ hội lý tưởng để bắt đầu chiến dịch vận động ngầm hòng chạy đua vào chiếc ghế Barry bỏ lại. Samantha tự nhắc mình phải nhớ bóng gió nhạo anh ta về chuyện bỏ lỡ cơ hội thích hợp này.
- Gavin - Miles gọi khi nhác thấy chòm đầu dài nhọn và mái tóc hoe quen thuộc.
- Hê, Miles. Chào Sam.
Chiếc cravat đeo mới tinh nổi bật trên áo sơ mi trắng của Gavin. Mắt gã thâm quầng. Samantha rướn người tới trên đôi giày cao gót, gã đành lịch sự hôn nhẹ má cô nàng và ngửi đẫm mùi nước hoa xạ hương.
- Đông quá nhỉ - Gavin nhìn quanh.
- Gavin làm người hộ tang đấy - Miles bảo vợ, kiểu giọng như đang tuyên bố trao phiếu tặng quà cho đứa bé có cố gắng dù thực sự nó không giỏi giang gì. Thật ra khi nghe Gavin kể được trao cho vinh dự ấy, anh hơi ngạc nhiên. Lúc đầu anh cứ hình dung mình với Samantha sẽ xuất hiện với tư cách khách mời danh dự trong vầng hào quang nhuốm màu bí ẩn và quan trọng, vì chính họ là những người đầu tiên có mặt cạnh giường người chết. Đúng ra Mary hay người nào đó thân cận trong họ nên mời anh đọc một đoạn kinh huấn hay nói vài lời để ghi nhận công lao của anh trong những giờ phút cuối đời của Barry mới phải.
Samantha cố ý tỏ ra không ngạc nhiên trước chuyện Gavin đến một mình.
- Anh với ông Barry khá là thân thiết, phải không Gav?
Gavin gật đầu. Gã thấy bồn chồn và hơi buồn nôn. Tối hôm trước ngủ nghê không ra sao, mới sáng sớm đã chồm dậy vì ác mộng, gã thấy mình làm rơi quan tài làm thi thể Barry văng ra nền nhà thờ. Khi thiếp đi lần nữa gã lại mơ rằng mình ngủ quên đến nỗi lỡ cả lễ tang, lúc chạy tới được nhà thờ Thánh Michael và Các Thánh thì gặp Mary đứng một mình trong nghĩa trang, mặt mày trắng bệch vì giận dữ và gào vào mặt gã rằng gã đã làm hỏng hết mọi sự.
- Tôi không biết phải làm gì nữa - gã lại nhìn quanh - đã bao giờ làm mấy vụ này đâu.
- Không sao đâu - Miles an ủi - chỉ có duy nhất một tiêu chuẩn thôi: đừng làm rơi gì cả, hé hé hé.
Giọng cười như con gái của Miles ngược hẳn với giọng nói trầm sâu lúc bình thường. Gavin lẫn Samantha đều không cười hưởng ứng.
Colin Wall từ trong đám đông chui ra. Vóc người to cao vụng về và cái trán cao nổi gồ của ông luôn làm Samantha liên tưởng tới con quái vật của Fankenstein.
- Gavin - ông gọi - cậu đây rồi. Tôi nghĩ ta nên đứng dọc bên đường là vừa, họ sắp ra rồi.
- Đến ngay - Gavin đáp, nhẹ cả người vì được chỉ việc cho làm.
- Chào anh Colin - Miles gật đầu chào.
- À, chào - Colin bối rối chào lại rồi quay người len ngược vào đám đông.
Đám đông chợt lào xào dịch chuyển, Samantha nghe tiếng Howard như lệnh vỡ: “- Xin lỗi... cho qua nhờ... tôi đến chỗ gia đình...”. Mọi người né ra tránh cái bụng vĩ đại của ông, Howard kềnh càng xuất hiện trong tấm áo choàng nhung. Shirley và Maureen đi liền phía sau. Shirley trông gọn gàng và điềm tĩnh trong bộ trang phục màu xanh hải quân, Maureen gầy đét như con quạ, đội chiếc nón có tấm mạng đen nhỏ.
- Chào con, chào con - Howard tiến đến hôn chụt vào hai bên má Samantha - Con thế nào Sammy?
Câu trả lời của cô chìm nghỉm trong hàng loạt tiếng chân loạt xoạt, đám đông lùi về sau nhường đường nhưng mạnh ai nấy tìm cách tranh một chỗ gần lối vào nhà thờ. Đám đông tẽ đôi làm lộ ra vài gương mặt quen thuộc. Samantha để ý gương mặt màu café của Jawandas giữa đám đông màu sữa; Vikram đẹp trai đến phi lý trong bộ vest màu sẫm; Parminder mặc sari (sao bà ta lại làm thế? Lẽ nào bà ta không biết làm thế chẳng khác nào dâng mồi vào miệng những người như Howard và Shirley?); bên cạnh bà là Tessa Wall mập lùn trong chiếc áo khoác xám căng ních.
Mary Fairbrother và các con đang từ từ tiến vào nhà thờ. Mary tái mét dễ sợ, nom sút đi hàng mấy ký. Mới sáu ngày mà cô sụt cân nhiều thế sao? Mary đang nắm tay một trong hai đứa song sinh, tay kia quàng qua vai cậu con trai nhỏ hơn, cậu cả Fergus đi cuối cùng. Cô bước đi, mắt nhìn thẳng phía trước, khuôn miệng dịu dàng mím chặt. Mấy người họ hàng khác đi theo Mary và bọn trẻ, đoàn người bước qua ngưỡng cửa rồi chìm hút trong không gian tối mờ bên trong nhà thờ.
Đám đồng lập tức tiến vào theo, cửa vào nhanh chóng tắc nghẽn lộn xộn. Nhà Mollison va phải nhà Jawanda.
- Xin mời đi trước, anh Jawanda, vâng, mời anh... - Howard oang oang, giơ tay mời ông bác sĩ vào, nhưng sau đó lấy luôn tấm thân bồ tượng chắn không cho ai tranh thủ chen theo và theo sát gót Vikram, cả gia đình nối theo.
Tấm thảm màu lam sẫm chạy dọc lối đi nhà thờ Thánh Michael và Các Thánh. Những ngôi sao vàng rọi sáng lờ mờ trên vòm trần; Những tấm bảng đồng phản chiếu mấy ngọn đèn treo. Các ô cửa sổ bằng kính màu rực rỡ và tinh xảo. Đoạn giữa lối đi gian chính điện, ở phía phải bàn thờ là bức tượng Thánh Michael mặc giáp bạc nhìn xuống từ cánh cửa sổ lớn nhất. Cặp cánh màu xanh da trời vươn ra trên vai, một tay người giơ cao thanh gươm, tay kia nâng chiếc cân vàng. Chân người dẫm trên lưng quỷ Satan màu xám mang cặp cánh dơi đang quằn quại cố bay lên. Gương mặt Thánh trông bình thản.
Howard ngừng ngay chỗ bức tượng Thánh Michael, quyết định gia đình sẽ cùng ngồi trên băng ghế bên trái, Vikram chọn ngồi cùng dãy, phía đối diện. Maureen và vợ con ông đều đã len vào yên vị trên ghế, nhưng Howard vẫn còn lần chần trên lối đi trải thảm xanh, ông nói với Parminder khi bà này đi qua.
- Dễ sợ thật. Barry ấy. Sốc quá.
- Vâng - Bà miễn cưỡng đáp lời.
- Loại áo dài này tiện lợi thật đấy, nhỉ? - Ông hất đầu về bộ sari của bà.
Bà không trả lời, ngồi xuống cạnh Jaswant. Howard cũng ngồi xuống. Tấm thân ngoại cỡ của ông bịt luôn một đầu ghế làm không ai len vào được nữa.
Shirley thành kính dán mắt xuống đầu gối, tay đan vào nhau, rõ ràng trong tư thế cầu nguyện, nhưng thật ra bà đang ngẫm nghĩ về đoạn đối thoại nhỏ giữa Howard và Parminder về chiếc sari. Shirley nằm trong nhóm dân Pagford luôn thầm than tiếc chuyện Nhà Giáo Sĩ Cũ; ngày xưa để cho các giáo sĩ râu quai nón của Thượng Phái (High Church) và những người phục vụ mang tạp dề hồ cứng cư ngụ, nay đổi sang một gia đình theo đạo Hindu (Shirley chưa bao giờ hiểu rõ tôn giáo của nhà Jawanda). Bà cứ nghĩ, giả sử vợ chồng bà mà bước chân vào đền thờ, nhà thờ Hồi giáo hay bất cứ nơi nào nhà Jawanda đi lễ, chắc chắn họ sẽ bị yêu cầu trùm đầu, tháo giày hay gì gì đó nữa, ai mà biết được, nếu không là bị la hét phản đối ngay. Thế mà Parminder diện sari vào nhà thờ vẫn được chấp nhận. Cứ làm như bà ta không còn bộ đồ bình thường nào khác vậy, hàng ngày vẫn có đồ mặc đi làm đó thôi. Bực nhất là kiểu ăn mặc đó không chỉ bất kính với tôn giáo của ta mà còn bất kính với chính ông Barry Fairbrother, người ai cũng biết bà ta rất quý.
Shirley thả tay xuống, ngẩng lên nhìn trang phục của những người dự tang đi ngang, nhẩm đếm số lượng và kích cỡ những vòng hoa viếng. Một số hoa đã chất ngồn ngộn ở thanh ngăn trước bàn thờ. Shirley nhận ra vòng hoa của hội đồng, chính bà và Howard đã đứng ra quyên góp tiền mua. Vòng hoa khá to được làm kiểu truyền thống với những bông hoa màu trắng và xanh, màu huy hiệu thị trấn Pagford. Nhưng vòng hoa đó cũng như mọi cái khác đều lu mờ trước vòng hoa hình chiếc mái chèo to bằng cỡ thật kết bằng những bông cúc đại đóa vàng rực, do đội đua thuyền nữ gửi viếng.
Sukhvinder quay người tìm Lauren, mẹ cô bạn này có cửa hàng hoa và cũng là người đã kết mái chèo hoa, nó muốn tỏ ý đã thấy và thích vòng hoa này, nhưng đông người quá, Sukhvinder không thấy Lauren ngồi đâu. Sukhvinder tự hào vì đội đua thuyền đã làm việc này, nhất là khi thấy người ta chỉ trỏ cái mái chèo cho nhau xem khi tìm chỗ ngồi xuống. Năm trong số tám cô bé thuộc đội đua đã góp tiền làm nó. Lauren kể cho Sukhvinder nghe mình đã truy tìm Krystal vào giờ ăn trưa như thế nào, lại còn phải chịu đựng những câu giễu cợt của mấy đứa bạn Krystal khi lùng ra nó đang cùng bọn bạn hút thuốc trên bức tường thấp gần cửa hàng tiện lợi. Lauren hỏi Krystal có muốn góp tiền không. “Ờ, có, xong ngay”, Krystal bảo thế nhưng nó chả đóng xu nào nên không có tên trên thiếp viếng. Hôm nay Sukhvinder cũng không thấy nó đến dự lễ.
Ruột gan Sukhvinder nóng như lửa, cánh tay trái nhức nhối, hễ cử động lại đau xé, được cái là cái đau này làm dịu cái đau kia. Và ít ra thì thằng Fats Wall đầy đe dọa trong bộ cánh đen cũng không thấy đâu. Nó không nhìn thẳng vào Sukhvinder khi hai gia đình gặp nhau chốc lát chỗ sân nhà thờ. Nó kìm chế khi có mặt bố mẹ, thỉnh thoảng thằng Andrew Price cũng kìm nó lại được chút ít như thế.
Khuya hôm trước, kẻ tra tấn ẩn danh qua mạng đã gửi Sukhvinder một bức ảnh đen trắng hình đứa trẻ trần truồng người phủ lớp lông mềm rậm rạp màu đen thời Victoria. Sukhvinder xem rồi xóa nó trong khi thay đồ đi dự đám tang.
Lần cuối cùng mình thấy hạnh phúc là khi nào? Sukhvinder thấy như là trong kiếp khác, rất lâu trước khi nó bị chế nhạo. Ngày xưa Sukhvinder ngồi trong chính căn nhà thờ này và đã có thời thấy vô cùng bằng lòng với cái mình có; nó thích hát thánh ca vào dịp Noel, lễ Phục Sinh, lễ Tạ mùa. Nó yêu mến bức tượng Thánh Michael, thích gương mặt đẹp đẽ với những nét mềm mại theo phong cách tiền Raphael và mái tóc xoăn vàng... Nhưng sáng nay, lần đầu tiên Sukhvinder nhìn bức tượng dưới ánh sáng khác, nó để ý bàn chân Thánh bình thản đạp lên con quỷ đang quằn quại; cái vẻ phẳng lặng trên mặt Thánh thật nham hiểm và ngạo mạn.
Các hàng ghế đều đã kín người. Bầu không khí bụi bặm ngập tiếng lạch xạch, tiếng quần áo sột soạt và những bước chân gượng nhẹ, những người không may chậm chân hơn đành dồn lại phía sau kiếm chỗ đứng dọc bức tường trái. Vài người nhón chân nhìn xuống lối đi giữa hai dãy ghế hy vọng kiếm được chỗ trống giữa những hàng ghế dài chật ních người. Howard vẫn yên vị sừng sững như núi, bỗng Shirley vỗ nhẹ vai ông thì thầm: “Ông bà Aubrey và Julia kìa!”
Howard lập tức quay hẳn người lại vẫy vẫy tờ chương trình lễ tang để thu hút sự chú ý của nhà Fawley. Hai người họ nhanh nhẹn rảo bước dọc hàng ghế: Aubrey cao gầy, đầu hói, mặc lễ phục sẫm màu, mái tóc đỏ hoe của Julia cuộn lại thành búi sau đầu. Cả hai cùng mỉm cười cảm ơn Howard nhích vào nhường chỗ, ông này ép dí những người bên trong để nhà Fawley ngồi được rộng rãi.
Samantha bị lèn chặt giữa Miles và Maureen, sát tới nỗi cô cảm nhận được cái hông xương xẩu của Maureen và chìa khóa trong túi áo Miles ép vào hai bên người mình. Cô cáu kỉnh vặn vẹo, cố kiếm thêm dù chỉ một centimét không gian nữa nhưng không được vì Miles và Maureen cũng không còn chỗ nào mà nhích. Cô đành cứ ngồi nhìn thẳng phía trước và mơ về Vikram để trả thù, lần chót hai bên chạm mặt nhau cũng độ một tháng rồi, nhưng vẻ hấp dẫn của anh ta với cô vẫn không hề suy suyển. Anh ta quá đẹp trai, đẹp lồ lộ, đẹp phi lý tới nỗi làm người ta chỉ muốn bật cười. Cặp chân dài, vai rộng, bụng phẳng lì, chiếc áo sơmi đóng vừa vặn trong quần, cặp mắt sẫm màu với hàng chân mày đen rậm, anh đẹp như Chúa trời nếu so với đám đàn ông Pagford lề rề nhợt nhạt và béo ních. Miles rướn người sang thì thầm mấy câu pha trò với Julia Fawley, chùm chìa khóa trong túi anh cấn lên đùi Samantha đau nhói, cô lại tưởng tượng cảnh Vikram xé toạc chiếc đầm xanh cô đang mặc, trong cơn mộng tưởng đó cô thấy mình quên mặc chiếc áo ngực phù hợp để kho rãnh ngực sâu hun hút...
Dàn đại phong cầm bắt đầu lên tiếng, gian nhà thờ im bặt, chỉ còn tiếng sột soạt khe khẽ. Mọi người quay đầu lại: Chiếc quan tài đang được khiêng vào.
Những người hộ tang nom cộc lệch đến nực cười: Hai anh em trai của Barry đều cao độ mét bảy, Colin Wall khênh đằng sau lại gần thước chín, thế là chiếc quan tài chúi hẳn đầu về trước. Áo quan không làm bằng gỗ gụ đánh bóng mà đan bằng cành liễu gai.
Y hệt cái giỏ vớ vẩn đựng đồ ăn đi picnic - Howard bất bình nghĩ.
Nhiều gương mặt cũng lộ vẻ ngạc nhiên khi chiếc quan tài bằng gỗ liễu diễu qua trước mắt, dù vậy, vài người đã biết trước. Mary đã kể với Tessa (rồi đến lượt cô này rỉ tai Parminder) rằng chính cậu con cả Fergus đã chọn chiếc quan tài này như thế nào, rằng đây là loại vật liệu bền vững, thân thiện với môi trường vì cây liễu gai phát triển rất nhanh. Fergus vốn là người luôn hăng hái với tất cả những thứ gì xanh và có liên quan tới sinh thái.
Parminder thích chiếc quan tài liễu đan này hơn nhiều, rất nhiều so với những cái hộp gỗ bền chắc mà người Anh thường chọn khi chuẩn bị hậu sự. Bà ngoại bà luôn có nỗi sợ nhuốm màu mê tín rằng linh hồn sẽ bị mắc kẹt trong cái quan tài dây nặng cứng chắc ấy, bà luôn rên rẩm việc phu đào huyệt người Anh đóng đinh nắp quan tài. Những người hộ tang hạ quan tài xuống chiếc bục phủ vải thêu kim tuyến rồi lui lại. Cậu con trai, hai ông anh trai và người anh rể len vào ngồi mấy hàng ghế trên, Colin bước về chỗ gia đình mình, dáng cứng đơ.
Gavin lập cập đứng do dự độ hai giây. Parminder thấy rõ là anh ta chẳng biết nên đi đâu, chỉ còn một cách duy nhất là đi ngược dọc lối đi giữa hai hàng ghế trước ba trăm cặp mắt người dự tang. Nhưng hình như Mary đã ra hiệu gì đó nên anh chàng đỏ bừng mặt cáu kỉnh len nhanh vào hàng đầu ngồi cạnh mẹ của Barry. Parminder chỉ mới tiếp xúc với Gavin khi bà xét nghiệm và điều trị bệnh nhiễm nấm Chlamydia cho anh ta. Từ đó trở đi anh chàng luôn tránh mặt bà.
“… Ta là sự phục sinh, là sự sống, Thiên Chúa nói; kẻ nào tin ta, thì dù có chết vẫn sẽ sống; và bất cứ ai sống và tin ta sẽ không bao giờ chết...”
Những dòng kinh ngân nga tựa khúc hát như tự tuôn ra từ miệng vị linh mục, ông không có vẻ gì là đang suy ngẫm đến ý nghĩa từng từ đang đọc. Parminder đã quen với kiểu cách đó, bà đã đi dự nhiều buổi lễ Carol mừng Giáng Sinh với các phụ huynh khác của trường Thánh Thomas. Dù đã quen, bà vẫn không sao hòa hợp được với gương mặt trắng toát của vị thánh chiến binh nhìn xuống bà, hay những đồ gỗ tối màu, dãy ghế cứng ngắc, bàn thờ xa lạ trang trí thánh giá nạm vàng, cả những bài thánh ca ngớ ngẩn và đáng ngờ.
Bà thôi không chú ý đến giọng đọc đều đều của vị linh mục nữa mà để ý nghĩ quay trở lại với người cha đã khuất. Hôm ấy qua cửa sổ nhà bếp, bà thấy ông nằm úp mặt sõng soài, chiếc radio đặt trên nóc chuồng thỏ hãy còn mở oang oang, ông hẳn đã nằm đó suốt hai tiếng đồng hồ khi bà cùng mẹ và hai chị đang mê mải ở cửa hàng quần áo. Bà vẫn như cảm thấy bờ vai bố dưới lần áo sơmi nóng hổi khi bà vừa lay ông vừa gào: “Bố ơiii! Bố ơi!!!”
Gia đình thả tro cốt của ông Darshan trên nhánh sông Rea nhỏ bé buồn bã chảy ngang Birmingham. Parminder hãy còn nhớ mặt nước sông xám sệt trong một ngày dày mây tháng Sáu, làn bụi tro trắng xám lờ lững quanh người bà.
Dàn đại phong cầm khò khè cất tiếng, bà đứng dậy cùng những người khác. Bà thoáng thấy mái tóc màu đồng đỏ của hai chị em Niamh và Siobhan, bà cũng đúng bằng tuổi hai đứa bé này khi mất cha. Parminder trào lên nỗi xót thương và đau đớn lạ lùng, bỗng nhiên bà da diết mong được ôm chúng vào lòng và nói rằng bà biết, bà biết cả, bà hiểu...
Buổi bình minh đã tan, như bình minh đầu tiên...
Gavin nghe một giọng cao the thé chói hẳn lên trong hàng, con trai nhỏ của Barry vẫn chưa vỡ giọng. Gã biết chính Declan đã chọn bài thánh ca này. Thêm một chi tiết rùng mình nữa về cái buổi lễ này mà bà Mary đã kể cho gã nghe.
Gã thấy đám tang còn khổ sở hơn cả trong hình dung. Hẳn là nếu quan tài bằng gỗ cứng thì đỡ kinh khủng hơn. Khi khiêng nó gã cứng người cảm thấy rõ thi thể của Barry xóc lên xóc xuống trong lớp vỏ đan nhẹ hẫng đó. Và cái đám người phỉ sức nhìn chòng chọc khi gã đi dọc lối vào ấy, họ có thật sự hiểu gã đang phải khiêng cái gì không?
Rồi đến cái lúc khủng khiếp khi gã nhận ra rằng chẳng ai dành chỗ cho mình cả, thế nghĩa là gã sẽ phải đi ngược lại suốt lối vào trước mặt tất cả mọi người rồi lẩn vào đám đông đứng cuối phòng... nhưng không, gã bị bắt ngồi phơi mặt ra ngay hàng ghế đầu tiên. Ngồi đây y như ngồi hàng đầu khi chơi trò “xe lượn tử thần”, hứng hết mọi cú tròng trành và rẽ ngoặt.
Lúc ngồi cách bông hoa hướng dương to như nắp chảo cua Siobhan đặt giữa đống lan và hoa kim châm vài bước, gã thực lòng ước giá mà có Kay đi cùng; chính gã cũng không tin nổi mình lại mong thế, nhưng đúng là vậy. Hẳn gã sẽ thấy đỡ hơn khi có ai đó về phe với mình, đơn giản là giữ cho gã một chỗ ngồi. Gã chưa nghĩ đến chuyện trông mình sẽ như gã khốn nạn rầu rĩ khi đi một mình thế này.
Bài thánh ca kết thúc. Anh trai Barry bước lên phía trước để nói đôi lời. Gavin không biết làm sao mình lại chịu được khi cái xác của Barry nằm ngay trước mũi, dưới bông hoa hướng dương (trồng từ hạt, trong nhiều tháng trời); rồi làm sao mà Mary có thể ngồi im như tượng, cúi đầu nhìn mãi đôi tay đan vào nhau trong lòng thế. Gavin cố gắng tự lẩm nhẩm để bớt bị ảnh hưởng bởi bài tán dương người chết.
Ông ta sẽ kể chuyện Barry gặp bà vợ như thế nào, sau khi xong cái đoạn thời thơ ấu này... tuổi thơ vui vẻ, mấy trò tinh nghịch... vân vân và vân vân... nào nào, đọc nhanh đi...
Rồi còn phải đưa Barry lên xe mà chở đến tận nghĩa địa tại Yarvil, vì cái nghĩa trang bé tí tại nhà thờ Thánh Michael và các Thánh đã kín chỗ từ hai mươi năm trước. Gavin nghĩ tới cảnh phải hạ chiếc quan tài bằng liễu đan đó xuống huyệt trước mắt đám đông. So với chuyện đó thì việc khiêng nó ra vào nhà thờ chẳng là gì…
Một trong hai đứa sinh đôi đang khóc. Liếc qua khóe mắt, Gavin thấy Mary đang chìa tay ra ôm lấy con gái.
Nhanh lên đi, mẹ nó. Làm ơn đi.
- Phải nói là chú Barry lúc nào cũng biết mình muốn gì - ông anh của Barry vẫn đang thao thao bất tuyệt, ông vừa kể vài chuyện về thời thơ ấu của Barry và khơi được vài tràng cười. Vẻ căng thẳng trong giọng ông như sờ thấy được. - Năm 24 tuổi, nhân tiệc độc thân của tôi, mấy anh em kéo đi Liverpool dịp cuối tuần. Đêm đầu tiên, chúng tôi rời khu cắm trại đi tìm quán rượu. Ngồi sau quầy bar là cô sinh viên con ông chủ quán, một nàng tóc vàng xinh đẹp đến giúp bố vào tối thứ Bảy. Suốt đêm đó Barry loanh quanh phụ giúp cạnh quầy bar, tán tỉnh cô nàng, làm nàng bị ông bố rầy rà và làm ra vẻ chẳng biết cái đám om sòm ngồi trong góc quán là ai.
Vài tiếng cười yếu ớt. Bà vợ góa rũ người xuống, nắm chặt tay hai đứa con hai bên.
- Tối đó, khi trở về lều, chú ấy bảo tôi là nhất định phải cưới nàng. Tôi nghĩ bụng Cứ chờ xem, đúng ra tôi mới là người say nhiều hơn chứ. - Vài tiếng cười nhỏ nữa. - Rồi tối hôm sau, chú ấy lại kéo chúng tôi tới đúng quán ấy. Khi về nhà, chuyện đầu tiên chú ta làm là mua tấm bưu thiếp gửi cho cô nàng, hẹn cuối tuần sau sẽ quay lại. Rồi một năm sau kể từ ngày định mệnh, cô chú ấy cưới nhau. Tôi nghĩ mọi người quen biết đều đồng ý là Barry biết người biết của. Rồi bốn đứa trẻ xinh đẹp ra đời, Fergus, Niamh, Siobhan và Declan...
Gavin tập trung hít thở, ráng không để lời nào lọt tai, gã tự hỏi nếu đến lượt mình chầu trời thì ông anh ruột sẽ nói những gì. Dù sao gã cũng chẳng may mắn có được chuyện tình lãng mạn để kể lại như Barry. Gã chưa bao giờ vào quán rượu rồi thấy cô vợ lý tưởng tóc vàng đã đứng sẵn trong đó, tươi cười sẵn sàng phục vụ gã một vại bia. Không, khi trước gã quen Lisa, cô này chưa khi nào có ý định nghiêm túc với gã cả; suốt bảy năm trời những cuộc cãi vã ngày càng tệ hại, đỉnh điểm là gã dính bệnh lậu. Thế rồi vụ chia tay còn chưa nguội, gã đã cặp luôn với Kay, cô này hăng hái bám luôn lấy gã, dai như đỉa...
Nhưng rồi lần nào cũng vậy, gã sẽ nhấc máy gọi cô, vì sau vụ này gã không thể nào chịu nổi chuyện quay về căn nhà trống rỗng một mình. Gã sẽ thành thật kể với cô cái đám tang này kinh khủng và nặng nề đến độ nào, rằng giá mà cô đi cùng gã. Thể nào chuyện đó cũng làm nhãng đi vụ cãi vã vừa rồi. Tối nay gã không muốn ở một mình.
Cách đó hai hàng ghế, Colin Walls đang nức nở, những tiếng nấc nhỏ nhưng vẫn rõ mồn một dù ông úp mặt vào cái khăn tay lớn ướt đẫm. Tessa nhẹ nhàng ấn tay lên đùi ông an ủi. Cô đang nghĩ tới Barry, cô đã cậy vào ông biết bao chuyện về Colin; cô nhớ niềm an ủi từ những tiếng cười, về sự rộng lượng vô bờ bến của ông. Cô vẫn thấy ông rõ mồn một: thấp bé, hồng hào, đang nhảy điệu jive với Parminder trong bữa tiệc cuối cùng họ chung vui; nhại dáng vẻ của Howard Mollison khi lên án khu Fields; khôn khéo tư vấn cho Colin chuyện này chuyện khác theo cái cách mà chỉ có ông làm được; khoan dung coi Fats chỉ đang trải qua thời thiếu niên nổi loạn chứ không phải thứ khuyết tật xã hội.
Tessa lo sợ nghĩ tới cái chết của Barry Fairbrother sẽ tác động thế nào đến người đàn ông đang ngồi cạnh mình, sợ họ không bao giờ lấp đầy nổi khoảng trống lớn lao này; vì Colin đã lập với người chết lời thề mà rõ ràng ông ấy không thể giữ, và chồng cô càng không mảy may nhận ra rằng Mary chẳng quý mến gì mình, dù ông lúc nào cũng muốn nói chuyện với bà ấy. Và giữa tất cả những bộn bề căng thẳng đó, trong lòng Tessa còn canh cánh nỗi lo thường trực như con trùng không ngừng gặm nhấm: Fats. Làm sao mà ngăn nó không gây ra trò gì ầm ĩ, làm sao ép nó đi dự lễ hạ huyệt với cả nhà, rồi làm sao giấu được Colin chuyện nó không đi - dù sao thì cách cuối cùng này vẫn dễ dàng hơn cả.
- Chúng ta sẽ kết thúc buổi lễ ngày hôm nay với một bài hát do các con gái Niamh và Siobhan của Barry lựa chọn, điều này rất có ý nghĩa với các cháu và người cha đã khuất. - vị linh mục tuyên bố. Giọng ông tỏ rõ hàm ý tôi-không-liên-quan-gì tới-vụ-này-đâu-nhé.
Tiếng trống từ dàn loa ẩn dậy lên như sấm làm giáo đoàn giật mình. Một giọng Mỹ rống lên “uh huh uh huh” rồi Jay-Z vào đoạn rap:
Good girl gone bad-
Take three-
Action.
No clouds in the storm...
Let it rain, I hydroplane into fame
Conin’ down with the Dow Jones...
Cô gái ngoan một lần phóng túng
Đếm tới ba nhé.
Dzô nào.
Mây mù không vương cơn bão tôi
Sợ gì mưa rơi, tôi lướt đến huy hoàng danh tiếng
Lao dốc cùng Dow Jones...
Vài người tưởng nhà thờ phát nhầm băng; Howard và Shirley trao đổi cái nhìn bực bội; nhưng không ai ấn nút “stop” hay chạy ra xin lỗi cả. Rồi đến một giọng nữ quyến rũ và khỏe khoắn cất lên:
You had my heart
And we’ll bever be worlds apart
Maybe in magazines
But you’ll still be my star...
Anh giữ trọn trái tim em
Hai ta không hề xa lạ
Dù chỉ ở trong tạp chí
Nhưng anh vẫn là ngôi sao của em...
Những người dự tang khiêng chiếc quan tài liễu đan xuống lối đi, bà vợ góa và các con cùng đi theo sau.
... Now that it’s raining more than ever
Know that we’ll still have each other
You can stand under my umbuh-rella
You can stand under my umbuh-rella
… Giờ trời mưa như chưa từng
Biết rằng ta vẫn sẽ có nhau
Anh có thể trú dưới tán dù của em
Anh có thể trú dưới tán dù của em
Giáo đoàn từ từ lui khỏi nhà thờ, cố tránh bước theo nhịp nhạc sôi động.
IIAndrew Price nắm lấy ghi-đông chiếc xe đạp đua của ông bố cẩn thận dắt khỏi garage tránh làm xước xe hơi. Nó vác chiếc xe xuống mấy bậc đá qua cánh cổng sắt rồi đặt xuống đường. Andrew đặt chân lên một bên bàn đạp, nhấp vài bước rồi vắt chân kia qua yên. Khi đã yên vị, nó rẽ vọt sang trái xuống con đường đồi dốc đứng rồi lao vun vút về hướng Pagford, không hề chạm tới thắng.
Những hàng cây bên đường lẫn bầu trời đều nhòa đi; Andrew tưởng tượng mình đang trên đường đua xe đạp, gió thốc vào mớ tóc sạch sẽ và gương mặt hãy còn ran rát vì mới ra công kỳ cọ. Khi chạy ngang khu vườn hình dáng như cái nêm của nhà Fairbrother, nó rà thắng, vài tháng trước Andrew từng ngã chổng kềnh khi ngoặt gấp ngay khúc quanh này, thế là lần đó phải quay về nhà với cái quần jean rách toác và nửa bên mặt trầy xước...
Andrew thả trớn, giữ xe bằng một tay xuôi xuống đường Church Row rồi khoái chí với một giây thả dốc bạt mạng dù vẫn chậm hơn khi nãy, thoáng ngoái nhìn người ta đưa cỗ quan tài lên xe tang đậu ngoài nhà thờ và đám đông dự tang quần áo tối sầm đang đổ ra từ mấy cánh cổng gỗ nặng trịch. Andrew đạp điên cuồng và rẽ ngoặt khuất khỏi tầm nhìn đám tang ấy. Nó không muốn bắt gặp thằng Fats ló khỏi nhà thờ cạnh ông thầy Tủ bộ dạng rầu rĩ trong bộ vest và cái cà vạt rẻ tiền, đối tượng mà thằng này vừa giễu nhại trong giờ tiếng Anh hôm qua. Chào nó bây giờ chẳng khác nào quấy thằng bạn lúc nó đang xả bụng.
Andrew đạp xe chầm chậm quanh quảng trường, giơ một tay vuốt ngược tóc khỏi mặt, băn khoăn không biết làn gió lạnh làm cái mụn đỏ tím của nó thành ra thế nào, không biết thứ sữa rửa mặt diệt khuẩn vừa xài có làm nó đỡ tấy đỏ hơn không. Rồi nó nhẩm lại câu chuyện đã chuẩn bị sẵn: Mình về từ nhà thằng Fats (có thể lắm chứ, không có lý do gì để không tin), như vậy rõ ràng phải đi đường Hope vì đây là lối ngắn nhất dẫn xuống bờ sông. Như vậy Gaia Bawden (giả như cô nàng có tình cờ nhìn thấy và nhận ra nó chạy ngang) sẽ không nghĩ rằng Andrew chạy tận đến đây vì cô. Andrew cũng không nghĩ mình phải giải thích lý do chạy xe trên đường có nhà cô nàng, nhưng dù sao việc dựng sẵn câu chuyện trong đầu cho nó cái vẻ đây-không-quan-tâm đầy quyến rũ.
Thật ra Andrew chỉ muốn biết nhà cô nàng chính xác là ở đâu. Đã hai lần vào dịp cuối tuần, nó chạy dọc con đường ngắn giữa hai dãy nhà liên kế giống hệt nhau này, từng dây thần kinh trong người căng ra rạo rực, nhưng Andrew không khi nào, hoặc là chưa, tìm ra được căn nhà chứa cái vưu vật tuyệt mỹ ấy. Mấy lần ngấm ngầm liếc mắt nhìn qua cửa sổ đầy bụi của xe buýt chỉ giúp Andrew biết được nhà nàng nằm bên phải, dãy số chẵn.
Qua khúc cua, Andrew sửa bộ ra dáng một người đang chầm chậm đạp xe ra bờ sông theo đường ngắn nhất, rõ ràng là đang bận bịu với những suy nghĩ quan trọng riêng tư nhưng vẫn sẽ nhận ra bạn cùng lớp ngay lập tức, nếu mà người ta lộ diện...
Nàng kia rồi. Ngay trên vỉa hè. Chân Andrew vẫn guồng đều nhưng nó không còn cảm thấy bàn đạp dưới chân, đột nhiên Andrew thấy cặp bánh xe sao mà quá hẹp. Nàng đang lục lọi cái túi da, mái tóc màu nâu ánh đồng xõa quanh mặt. Cánh cửa khép hờ sau lưng nàng ghi số mười, chiếc áo thun đen phủ không hết eo nàng, đoạn da trần hé lộ, rồi đến chiếc thắt lưng gồ ghề và quần jean bó chặt... Khi Andrew sắp lướt qua, cô nàng đóng cửa và quay người lại, tóc hất ra sau gương mặt xinh đẹp, rồi nàng cất tiếng, rất rõ ràng, bằng chất giọng London đặc trưng: “Ồ, chào!”
- Chào - Andrew đáp. Chân nó vẫn mải miết đạp. Hai mét, rồi bốn mét, sao mình không ngừng lại nhỉ? Cơn sốc cứ đẩy Andrew đi tới, nó không dám nhìn lại, thoáng cái đã tới cuối đường. Thiên địa ơi, đừng có để mất mặt chứ, Andrew rẽ ngoặt, choáng váng không chắc mình đang nhẹ người hay thất vọng nhiều hơn khi bỏ lại nàng phía sau thế.
Chúa thật.
Andrew đang đạp xe về khu rừng dưới chân đồi Pargetter, con sông lấp lóe sau đám cây nhưng nó chỉ thấy mỗi hình ảnh Gaia sáng lòe trước mắt. Con đường hẹp rẽ vào lối mòn đi bộ, làn gió mát từ sông ve vuốt mặt Andrew, hẳn là nó chưa kịp đỏ lên vì cú chạm mặt quá ngắn ngủi.
- Chúa đỉnh tày đình - Nó nói to trên con đường vắng vẻ giữa bầu không khí tươi mát.
Andrew phấn khích nhâm nha kho báu diệu kỳ bất ngờ tìm được đó: thân hình lý tưởng trong chiếc quần bó chật và chiếc áo cotton căng cúc; con số 10 trên tấm cửa cũ mòn sứt mẻ; câu “Ồ, chào” bật ra thật tự nhiên và dễ dàng - chắc hẳn là hình dáng của Andrew đã in dấu đâu đó trong bộ óc ẩn sau gương mặt thiên thần kia.
Chiếc xe đạp nảy lên trên mặt đường rải sỏi gồ ghề. Mải vui, Andrew chỉ nhảy xuống xe khi bắt đầu mất thăng bằng. Nó dắt xe xuyên đám cây ra phía kè sông hẹp rồi ném chiếc xe lên đám cỏ chân ngỗng đã kịp nở tung như những ngôi sao trắng kể từ lần cuối đến đây.
Lần đầu Andrew mượn xe đạp, ông bố đã cảnh cáo - Mày mà có vào cửa hàng thì phải xích nó lại. Cho mày biết, nếu có thằng nào xoáy mất nó...
Nhưng chiếc khóa xích không đủ buộc vòng quanh bất cứ cây nào ở đây, vả lại càng xa khỏi ông bố, Andrew càng ít sợ ông. Vẫn đắm trong hồi tưởng từng centimét chỗ cơ hoành phẳng lì trần trụi và gương mặt tuyệt mỹ của Gaia, Andrew vừa thả bộ ra phía bờ kè chạm tới sườn đồi xói mòn, đầu kè đá thô kệch nhô ra như gương mặt thẳng đứng trên dòng nước xanh chảy xiết.
Đoạn kè hẹp trơn trượt ôm dọc theo chân đồi. Khi mà chân người ta đã lớn gấp đôi hồi lần đầu tiên thử trò này thì cách duy nhất để đi qua nó là ép nghiêng người vào bề mặt dốc dứng mà đi men, bám chặt lấy từng mẩu đá nhô ra.
Mùi cây cỏ rữa nát trong nước sông và mùi đất ẩm vô cùng quen thuộc với Andrew, cũng thân thuộc như mép đất hẹp và cỏ dưới chân nó, như những khe nứt và gờ đá Andrew từng mò bám trên sườn đồi. Năm 11 tuổi, nó và Fats đã phát hiện ra chỗ bí mật này. Chúng biết trò chúng sắp làm rất nguy hiểm và thế nào cũng bị cấm, người lớn đã đe nẹt biết bao nhiêu lần về con sông này. Đứa nào cũng sợ phát khiếp nhưng cố không tỏ ra cho thằng kia biết, từng đứa lần lượt dò bước qua bờ rìa cheo leo đó, gắng bám chặt mọi chỗ lồi ra trên bức tường đá và lúc qua chỗ hẹp nhất thì túm chặt lấy áo thun của nhau.
Sau nhiều năm luyện tập, Andrew chẳng cần chú ý vẫn như con cua thành thạo bò ngang bức tường đất đá cứng chắc, mặc làn nước sủi bọt chỉ cách đế giày nó độ một mét; rồi với cú nhảy ngoặt khéo léo, nó lọt vào một khe nứt trên sườn đồi mà hai đứa đã tìm ra nhiều năm trước. Thời đó, chỗ này như một phần thưởng cực kỳ cho trò táo gan của chúng. Giờ Andrew không còn có thể đứng thẳng người trong cái động chỉ bằng căn lều cắm trại loại cho hai người nằm, nhưng nó vẫn đủ lớn cho hai cậu thiếu niên nằm dài cạnh nhau, nghe tiếng dòng sông chảy xiết và nhìn mảnh trời hình tam giác ngoài cửa hang qua những nhánh cây.
Lần đầu tiên đến đây, chúng lấy gậy dò chọc khắp bức vách bên trong nhưng không tìm được lối đi bí mật nào dẫn đến tu viện bên trên, thế là chúng đành hài lòng với chuyện giờ đã được tự do một mình trong chỗ trốn lý tưởng, chúng thề với nhau đây mãi mãi là bí mật riêng của hai thằng. Andrew hãy còn lờ mờ nhớ tụi nó trịnh trọng nhổ nước bọt lên tay rồi cùng thề những gì. Chúng gọi nó là Hang Động trong lần đầu khám phá, nhưng về sau đơn giản gọi nó là Hốc Đá.
Hốc đá ngái mùi đất dù mái trần dốc làm bằng đá. Ngấn nước xanh đậm cho thấy chỗ này từng bị ngập nhưng chưa tới trần. Sàn hang đầy đầu mẩu thuốc lá và những mấu giấy cuộn để hít “cỏ”. Andrew ngồi xuống cho chân đong đưa trên làn nước xanh quánh, rút túi lấy thuốc lá với bật lửa mua bằng chút tiền mừng sinh nhật còn sót lại, giờ nó đã bị cắt hẳn tiền tiêu vặt. Andrew châm thuốc, rít sâu rồi lại sống lại khoảnh khắc rực rỡ bên Gaia Bawden với từng chi tiết nhỏ nhất nó nhớ được: cái eo nhỏ, đường hông uyển chuyển, phần da thịt mịn màng giữa áo thun và thắt lưng da, khuôn miệng rộng đầy đặn, “ồ, chào!”. Lần đầu tiên Andrew thấy cô nàng lúc không mặc đồng phục. Nàng đi đâu mà xách túi da nhỉ? Sáng thứ Bảy ở Pagford có chỗ nào cho nàng đi? Hay là nàng bắt xe buýt đi Yarvil? Khi ở ngoài tầm mắt của nó, nàng đi đâu, điều bí ẩn gì của phái nữ đã hấp dẫn nàng?
Rồi Andrew tự hỏi, không biết lần thứ bao nhiêu, rằng bên trong nhục thể ấy có thể nào là một tâm hồn vô vị hay chăng. Chỉ có Gaia là người đầu tiên khiến nó phải trăn trở về chuyện này; trước khi nhìn thấy cô bé, Andrew chưa bao giờ coi linh hồn và thân thể là hai thực thể riêng biệt. Ngay lúc đang tưởng tượng dáng vẻ hay cảm giác bầu ngực nàng khi chạm vào, (chỉ từ những gì lờ mờ thấy được qua lần áo sơ mi đồng phục cùng chút manh mối rằng nàng mặc áo ngực màu trắng), Andrew vẫn không tin rằng sức quyến rũ của nàng với nó đơn thuần là về thể xác. Nàng khiến nó rung động như khi nghe nhạc, từ trước đến giờ âm nhạc là thứ làm dấy lên xúc cảm nơi Andrew nhiều nhất. Chắc hẳn linh hồn ẩn náu trong cái hình thể vô song ấy không thể nào tầm thường chứ? Tạo hóa sinh ra lớp vỏ ngoài tuyệt vời như vậy để làm gì, nếu không là để chứa đựng thứ thậm chí còn giá trị hơn thế?
Andrew đã coi ảnh nude của phụ nữ, vì khác hẳn nó, máy vi tính trong phòng ngủ của Fats không hề bị bố mẹ giám sát. Hai đứa đã cùng xem với nhau tất tật những hình ảnh trần trụi miễn phí trên mạng. Lúc nào cảm giác hồi hộp sung sướng của Andrew cũng mạnh thêm khi thon thót nhận ra rằng tụi nó chỉ nghe thấy tiếng cô Wall đi tới phòng khi cô đã lên tới lưng chừng cái cầu thang kẽo kẹt. Có khi, tụi nó bắt gặp những thứ kỳ quái đến nỗi rú lên cười, dù Andrew cũng không chắc được lúc đó nó thấy khoái hay tởm nữa (roi và lưng, yên cương, dây trói, quần bó, và có lần, cả thằng Fats cũng cười không nổi: cận cảnh khung kim loại siết chặt lấy người, kim nhọn xuyên qua những chỗ thịt non, những gương mặt phụ nữ lạc thần gào thét).
Nó và thằng Fats dần dần trở thành chuyên gia nhận diện những bộ ngực bơm silicone khổng lồ, căng tròn hoàn hảo.
- Bơm rõ! - một trong hai đứa sẽ chỉ ra theo kiểu thực-tế-nó-thế khi ngồi trước màn hình máy tính, cửa phòng đóng chặt ngừa bố mẹ thằng Fats. Trên màn hình, cô nàng tóc vàng phô bộ ngực vĩ đại, dưới bầu ngực có mấy vết sẹo mảnh tiêm silicone tim tím bóng loáng. Cứ nhìn là đủ biết cảm giác khi sờ vào: cứng ngắc, y như độn trái bóng dưới da. Andrew tưởng tượng không gì gợi tình hơn một bầu ngực tự nhiên: mềm êm, có lẽ hơi đàn hồi nhưng núm vú (nó mong thế) thì săn chắc.
Cứ đến khuya, tất cả hình ảnh đó trộn lẫn vào nhau trong đầu nó, cộng với những mơ mộng về các cô gái ngoài đời thực, thêm chút xíu cảm giác có được khi đụng chạm qua lớp quần áo - nếu nó xoay xở sán vào được đủ gần. Trong hai chị em song sinh, Niamh kém xinh nhưng chịu chơi hơn, trong phòng kịch chất đầy đồ hôm khiêu vũ Giáng Sinh. Nửa kín nửa hở sau tấm màn sân khấu lấm bụi trong góc tối, hai đứa ép mình vào nhau, Andrew đã đưa được lưỡi vào miệng cô bé. Tay nó cũng lần mò tới được sợi dây áo ngực, nhưng chỉ vậy thôi vì cô nàng cứ né ra. Andrew bị kích thích chủ yếu vì biết ở góc khác, thằng Fats đang tiến xa hơn rất nhiều. Giờ não nó chỉ rạo rực ngập tràn hình ảnh Gaia. Nàng không chỉ là cô gái quyến rũ nhất nó từng gặp mà còn là cội nguồn của nỗi khát khao thầm kín khác nữa. Một hợp âm đổi, một nhịp điệu hay thường làm Andrew run rẩy tận cốt tủy, và điều gì đó nơi Gaia Bawden cũng thế.
Andrew lại châm một điếu thuốc mới, lấy lửa từ điếu đầu rồi quăng đầu mẩu thừa xuống nước. Nó nghe tiếng bước chân kéo lê quen thuộc, nghiêng người ra nhìn và thấy Fats, vẫn mặc nguyên bộ đồ đi đám tang, đang xoạc tay bám vách đồi nhích từng tấc một qua chỗ kè hẹp đến cái động Andrew đang ngồi.
- Fats.
- À Arf.
Andrew co chân lại để Fats có chỗ trèo vào Hốc Đá.
- Chó thật - Fats văng tục khi đã trèo vào trong. Thằng này vốn tay dài chân dài, người gầy ngẳng lại đánh bộ đồ đen trông như con nhện.
Andrew đưa bạn điếu thuốc. Fats lúc nào cũng có cái kiểu châm thuốc như đang đứng chỗ gió to, tay che ngọn lửa, mặt hơi chau vì tập trung. Nó rít một hơi, nhả khói vòng tròn mờ mịt Hốc Đá rồi tháo lỏng cái cà vạt xám quanh cổ. Nó đóng bộ thế này có vẻ già dặn hơn và không tới nỗi ngố, đầu gối và cổ tay áo nó lấm đất sau chuyến phiêu lưu tới hang động.
- Mày mà có đó sẽ thấy bọn họ ướt chảy nước cỡ nào - Fats nói sau khi kéo thêm một hơi rõ sâu nữa.
- Ông Tủ chắc buồn lắm, hả?
- Buồn ấy hả? Ổng phát dại mẹ nó rồi. Tới mức nấc cụt mà. Còn tởm hơn con mụ góa.
Andrew cười sằng sặc. Fats nhả vòng thuốc nữa, kéo kéo một bên tai to tướng.
- Tao lượn sớm. Vẫn chưa chôn lão kia.
Hai thằng im bặt hút thuốc trong độ một phút, cùng nhìn ra mặt sông đục quánh. Khi hút, Andrew ngẫm nghĩ cái từ “lượn sớm”, thằng Fats có vẻ được tự tung tự tác hơn nhiều so với nó. Bố Simon và cơn điên giận chực chờ của ông ta luôn bó chân bó tay nó: Ở Nhà Trên Đồi, có khi người ta bị phạt chỉ vì lúc đó tình cờ có mặt. Có lần tưởng tượng của Andrew tình cờ trùng khớp với một bài nhỏ trong lớp tôn giáo và triết học: các vị thần thuở ban sơ được mô tả là hay nổi điên tùy hứng và rất bạo lực, trong khi cư dân thời đó luôn ra sức xoa dịu họ. Khi học tới phần này, Andrew nghĩ tới bản chất của công lý, rằng cha nó như một gã tà thần, mẹ nó là vị nữ tu cấp cao trong tôn giáo, lúc nào cũng cố gắng lý giải và cầu xin giùm cho người dân; bà thường thất bại nhưng vẫn khăng khăng tin tưởng, bất kể những bằng chứng hiển nhiên cho thấy điều ngược lại, rằng vị thần của bà cũng có lòng khoan dung và suy nghĩ hợp lý, chỉ có điều những đức tính đó còn ẩn giấu đâu đó thôi.
Fats dựa đầu vào vách đá phun từng vòng khói lên trần hang. Nó đang duyệt lại trong đầu chuyện tính kể cho Andrew, toàn bộ lễ tang, cảnh ông bố nức nở trong chiếc khăn tay. Thằng Fats háo hức muốn kể tới mức khó mà giữ miệng, nhưng nó quyết không tuôn ra tùy tiện. Đối với Fats, lúc kể lại cũng quan trọng như lúc thực hiện. Nó không muốn Andrew nghĩ mình vội vã chạy tới đây vì nóng lòng muốn kể cho nó nghe.
- Mày biết ông Fairbrother từng làm gì trong hội đồng khu không? - Andrew lên tiếng.
- Ờ sao. - Fats hờ hững đáp, thật ra rất khoái vì Andrew chịu khơi chuyện.
- Ông Si nhà tao tính ra tranh cử cái ghế đó.
- Lão Si ấy hả?
Fats nhìn thằng Andrew chằm chằm.
- Lão bị cái quái gì thế?
- Thì ổng phát hiện ra Fairbrother đi cửa sau với nhà thầu nào đó - Sáng nay Andrew đã nghe bố mẹ nói chuyện trong bếp. Đầu mối mọi chuyện là đây. - Ổng cũng muốn chấm mút dự phần.
- Không thể nào là Barry Fairbrother đâu - Fats cười sùng sục, búng tàn thuốc xuống sàn, - Hội đồng khu đời nào lại thế. Đó là thằng cha tên Frierly ở tận Yarvil kia. Lão có chân trong hội đồng trường học tại Winterdown. Lão Tủ vì vụ này mà sôi sùng sục lên. Báo chí gọi đến xin lão bình luận, đủ thứ bà dằng. Tay Frierly đó gặp rắc rối to. Lão Si nhà mày chưa đọc tờ Yarvil và District Gazette hả?
Andrew đực ra nhìn Fats.
- Chó thật, đúng là kinh điển mà.
Nó quẳng điếu thuốc lá xuống đất, xấu hổ vì ông bố ngu dốt. Lại thêm lần nữa, Simon đón gió sai làn. Ông bố nó vứt bỏ làng xóm láng giềng, cười nhạo những chuyện họ quan tâm, vênh vang trong cái hốc trú ẩn xập xệ trên đồi, rồi bây giờ thì nắm tin sai, quyết định ngu, và rồi cả nhà sẽ bẽ mặt hết.
- Lão Si nhà mày cũng quanh co thấy mẹ, hả? - Thằng Fats lên giọng.
Hai đứa gọi bố Andrew là Lão Si vì mẹ nó hay âu yếm chồng là anh Si nhà em. Fats từng nghe cô dùng chữ này khi đi ngang qua rót trà, từ đó trở đi thằng này không gọi Simon bằng bất kỳ tên nào khác nữa.
- Ờ, thế - Andrew đáp, nó tự hỏi không biết nếu nói cho ông bố biết ông đã chọn lầm người và lầm hội đồng để chen vào thì có can nổi không.
- Cũng trùng hợp đây - Fats tiếp - Lão Tủ nhà tao cũng tính ngoi ra đấy.
Fats thở khói ra lỗ mũi, liếc nhìn bức vách nứt nẻ trên đầu Andrew.
- Thế không biết dân tình bỏ phiếu cho đít-ngu hay đít-hói đây nhỉ?
Andrew lại phá ra cười. Hiếm có chuyện nào khiến nó khoái hơn là nghe thằng Fats gọi ông bố là đít-ngu.
- Giờ chơi thử thứ này coi - Fats cắm điếu thuốc vào miệng, vờ vỗ vỗ hai bên hông dù nó thừa biết cái phong bì nằm trong túi áo ngực. - Đây nè - nó rút phong bì ra, cho Andrew xem mấy quả khô cỡ hạt tiêu trộn với mớ thân và lá vụn thành bột.
- Tài mà đây, hàng xịn đó.
- Cái gì đây?
- Đọt marijuana nguyên chất chưa thụ phấn - Fats trịnh trọng nói - chuyên phục vụ cho sướng khoái khi hút của mày.
- Thế khác quái gì so với loại thường? - Andrew hỏi, nó từng chia với Fats hàng bao nhiêu cục thuốc phiện đen quánh trong cái Hốc Đá này rồi.
- Thì hút nó phê kiểu khác, được chưa? - Fats đáp, dập điếu thuốc hút dở. Nó lôi trong túi ra một gói giấy cuốn thuốc lá Rizlas, kéo ra ba tờ giấy mỏng rồi liếm dính lại với nhau.
- Mày lấy ở chỗ Kirby hả? - Andrew hỏi, vạch vạch mớ “cỏ” trong phong bì.
Ai cũng biết hễ muốn thuốc thì cứ tìm thằng Skye Kirby. Thằng này hơn hai đứa một tuổi, học lớp sáu dưới [1]. Ông nội nó xưa là dân hippy, từng ra tù vào khám kha khá lần vì tự trồng thuốc phiện.
[1] Hệ thống trường Anh, lớp sáu là lớp cuối chương trình trung học, gồm lớp sáu trên và lớp sáu dưới. Học sinh trường ở độ tuổi 16-18, học cấp lớp này để chuẩn bị cho kỳ thi lấy chứng chỉ giáo dục tổng quát trình độ cao.
- À, trời, có thằng cha tên Obbo - Fats vừa nói vừa xé điếu thuốc trút thuốc lá vào mấy miếng giấy quấn - ở đằng khu Fields, mày muốn gì là chả có đó. Hàng trắng xịn mày muốn cũng có.
- Mà mày đâu có muốn chơi hàng trắng - Andrew nói, nhìn Fats thăm dò.
- Ờ, làm gì - Fats cầm lại cái phong bì, rắc tài mà vào chỗ thuốc lá. Nó cuốn chặt điếu thuốc lại, liếm mép giấy cho dính, bóp nắn cho gọn điếu rồi vặn xoắn phần đuôi lại.
- Ngon lành - Nó khoái chí nói.
Nó định kể cho Andrew nghe cái tin đó sau khi mào đầu bằng mấy điếu “cỏ”. Nó giơ tay mượn bật lửa của Andrew, kẹp phần đuôi điếu thuốc cứng ngắc vào môi rồi châm lửa, nhắm mắt rít một hơi sâu rồi phun ra tia khói xanh dài sọc, rồi lại lặp lại lần nữa.
- Mmm - nó giữ khói trong phổi rồi nhái kiểu ông bố lúc được Tessa dạy cho một bài về rượu vang nhân dịp giáng sinh nọ - Có mùi thảo mộc. Hậu kình mạnh. Quá... mẹ nó...
Nó gục gặc đầu như điên, dù vẫn đang ngồi, rồi nó phì khói ra cười sằng sặc.
-... thử đi mày.
Andrew nghiêng sang, nó cũng cười sùng sục vì tò mò lẫn vì cái mặt cười khoái chí của thằng Fats, rõ ràng trái hẳn với cái vẻ rặn-táo-bón mọi lần.
Andrew rít một hơi, làn thuốc mạnh từ phổi xộc khắp người làm cả cơ thể duỗi ra bải hoải. Thêm hơi nữa, đầu óc nó như tấm chăn lông vịt bị giũ tung rồi trải ra lại, mịn màng không vết gấp, mọi thứ trên đời chợt trở nên thật suôn sẻ, đơn giản, dễ dàng và tuyệt vời.
- Ngon lành - nó mơ màng lặp lại câu của Fats, tự cười cái giọng mình. Nó đưa lại điếu thuốc cho thằng Fats đang hau háu chờ, tận hưởng giây phút đê mê này.
- Giờ mày muốn nghe chuyện hay ho không? - Fats hỏi, cười nhăn nhở vô thức.
- Thì xổ luôn đi.
- Tối qua tao chơi được con nhỏ rồi.
Suýt nữa Andrew bật hỏi “Con nào?” nhưng bộ não mụ mị của nó vẫn kịp nhớ ra: Krystal Weedon, tất nhiên là thế. Còn ai khác được chứ?
- Ở đâu? - Andrew ngớ ngẩn hỏi. Thật ra đó đâu phải thứ nó muốn biết.
Fats mặc nguyên bộ đồ dự tang nằm duỗi thẳng cẳng, chân hướng ra sông. Andrew cũng im bặt nằm dài ra như nó theo hướng đối diện. Chúng từng nằm “trở đầu đuôi” kiểu này hồi nhỏ, khi qua nhà nhau ngủ đêm. Andrew ngửa mặt nhìn trần hang đá lờ lững khói xanh, lười nhác cuộn mình chuẩn bị nghe mọi tình tiết.
- Tao nói với lão Tủ và mẹ là qua nhà mày, mày biết rồi đó - Fats kể. Nó chuyền điếu thuốc cho Andrew đang giơ tay qua rồi bỏ hai bàn tay ngón thuôn dài lên ngực, tự nghe mình độc thoại - Rồi tao bắt xe buýt đi Fields. Gặp con nhỏ bên ngoài khu Oddbins.
- Gần tiệm Tesco’s ấy hả? - Andrew hỏi. Không hiểu sao nó cứ hỏi mấy câu ngớ ngẩn.
- Ờ - Fats tiếp - Tụi tao tới sân chơi. Có mấy gốc cây trong góc sau nhà vệ sinh công cộng ấy. Êm ru, riêng tư. Trời lúc đó đang tối.
Fats nhích người, Andrew đưa lại nó điếu thuốc.
- Lúc vào khó hơn tao nghĩ - Fats thừa nhận, Andrew nuốt từng lời như bị thôi miên, vừa muốn bật cười vừa sợ bỏ sót chi tiết trần trụi nào từ Fats. - Lúc tao dùng ngón tay thì nó ướt hơn.
Cơn cười sục lên như gas nén trong ngực Andrew nhưng nó kiềm được.
- Phải đẩy hết hơi mới vào được ngon. Chặt hơn tao tưởng.
Andrew thấy tia khói bốc lên từ chỗ đầu nằm của thằng Fats.
- Tao đút vào độ mười giây. Lúc vào được rồi thì cực đã.
Andrew lại cố nuốt cơn cười.
- Tao xài bao. Không có chắc ngon lành hơn.
Nó lại đưa thuốc vào tay Andrew. Andrew tư lự kéo một hơi. Khó hơn nó nghĩ, mười giây là xong. Nghe chẳng đáng kể lắm, nhưng thiếu là thiếu cái gì? Nó chợt tưởng tượng cảnh Gaia Bawden nằm ngửa ra gọi mời, không cưỡng được bật lên một tiếng rên khẽ, thằng Fats dường như không nghe thấy. Andrew vừa kéo thuốc vừa đắm chìm trong mớ hình ảnh nhục cảm, cảm giác chỗ nhạy cảm của mình cương cứng trên khoảnh đất được cơ thể chính mình sưởi ấm lên, lắng nghe tiếng nước chảy róc rách chỉ cách đầu gần thước.
- Chuyện gì mới đáng kể, hả Arf? - Fats hỏi sau một lúc lâu im lặng mơ màng.
Đầu óc chung chiêng dễ chịu, Andrew đáp - Sex.
- Ờ - Fats đê mê đồng tình - Cưỡi nhau. Đó mới là cái đáng kể. Phát triển… phát triển giống nòi. Vứt mấy cái bao đi. Nhân giống lên.
- Ờ, há - Andrew cười to.
- Rồi chết ngỏm - Fats nói thêm. Nó sực nhớ lại cái quan tài rất thực và lớp vật liệu mong manh ngăn cách cái xác với đám kền kền hau háu bên ngoài. Nó chẳng hề áy náy gì chuyện bỏ đi trước khi thấy nó bị vùi vào đất. - Cũng phải tới lúc đó thôi, hả? Chấm dứt hết.
- Ờ - Andrew đáp, nghĩ tới chiến tranh và những vụ tai nạn xe hơi, người ta có thể chết trong tốc độ và vinh quang như thế.
- Thế - Fats tiếp. - Chơi đã rồi ngỏm. Chỉ thế thôi, hả? Chơi rồi chết. Đời chỉ thế.
- Cố mà chơi và cố giữ cho đừng chết.
- Hoặc cố mà chết - Fats đáp - Có vài đứa thế. Liều cái mạng.
- Ờ. Liều cái mạng.
Hai đứa lại lặng im, ch?