← Quay lại trang sách

Phần hai Bình luận công bằng

7.33 Ý kiến bình luận công bằng về vấn đề mà công chúng quan tâm được miễn khiếu kiện.

Charles Arnold Baker

Điều lệ Ban quản trị hội đồng địa phương

In lần thứ bảy

❀❀❀

I

Mưa tầm tã rơi trên mộ Barry Fairbrother. Mực trên những tấm thiếp đã nhòa nhạt. Bông hoa hướng dương to tướng của Siobhan vẫn nguyên vẹn dưới làn mưa như trút nước, nhưng đám hoa huệ tây và kim châm của Mary đã tan tác. Mái chèo kết bằng hoa cúc héo rữa thâm đen lại. Trận mưa làm nước sông dềnh lên, biến các rãnh thoát nước thành những dòng suối nhỏ và làm những con đường dốc ngặt đổ về Pagford trở nên trơn trượt đầy bất trắc. Những cánh cửa sổ trên xe buýt trường học đặc mờ hơi nước, mấy giỏ hoa treo trên quảng trường sũng nước, và Samantha Mollison dù đã bật cần gạt nước ở mức tối đa vẫn bị va quệt nhẹ với một xe khác trên đường từ chỗ làm trên thành phố về nhà.

Một tờ báo Yarvil và District Gazette thòi ra khe bỏ thư trên cửa nhà bà Catherine Weedon trên đường Hope suốt ba ngày liền cho tới khi nó ướt sũng ra không còn đọc được nữa. Cuối cùng chính cô nhân viên xã hội Kay Bawden đã kéo nó ra khỏi khe bỏ thư, ghé mắt qua nắp khe rỉ sét và thấy bà cụ đang nằm sõng soài dưới chân cầu thang. Một cảnh sát đến giúp phá cửa, bà Weedon được đưa lên xe cứu thương chở về bệnh viện Trung tâm Tây Nam.

Mưa vẫn rơi rầm rập, người thợ sơn được thuê vẽ lại bảng hiệu tiệm giày cũ phải tạm hoãn công việc. Trời mưa suốt ngày, kéo dài đến đêm, quảng trường đầy người lom khom đi dưới áo mưa, những cây dù va cả vào nhau trên những vỉa hè chật hẹp.

Howard Mollison thấy tiếng mưa gõ lộp độp vào cánh cửa sổ tối đen thật dễ chịu. Lão đang ngồi trong phòng sách, trước vốn là phòng ngủ của cô con gái Patricia, nghiền ngẫm bức email vừa nhận được từ tờ báo địa phương. Họ quyết định cho đăng bài báo của cố ủy viên hội động Fairbrother, cho rằng khu Fields vẫn phải thuộc địa phận Pagford, nhưng để đối trọng, họ hy vọng một ủy viên khác sẽ viết bài phản biện trong số kế tiếp.

Phản tác dụng quá hả, Fairbrother? - Howard khoái trá nghĩ - Cứ nghĩ là chuyện theo ý mình rồi hả…

Lão đóng email, quay sang chồng giấy tờ nho nhỏ đặt bên cạnh. Thư yêu cầu tổ chức bầu cử để tìm người thay ghế Barry vẫn rỉ rả đổ về. Theo quy định, cần có chín đơn yêu cầu mới đủ điều kiện tổ chức bầu cử công khai, tới giờ lão đã nhận được mười. Lão đọc qua một lượt trong khi bà vợ và bà bạn làm ăn nhỏ to bàn tán trong bếp, hăng hái bóc tước vụ scandal nóng hổi về bà cụ Weedon ngã gục trong nhà rồi mãi sau mới được phát hiện.

- Đâu ai tự dưng đòi bỏ bác sĩ của mình, phải không? Bà ấy gào hết cỡ, Karen nói...

- Nói bà ta bị cho thuốc không đúng, ờ, tôi biết thế - Shirley đáp, bà tự coi mình là người duy nhất được lên giọng trong các vấn đề y khoa, chẳng gì cũng là tình nguyện viên trong bệnh viện mà. - Tôi nghĩ họ sẽ làm cả loạt xét nghiệm ở bệnh viện Trung tâm.

- Tôi mà là bác sĩ Jawanda thì giờ hẳn đã lo phát sốt lên rồi.

- Chắc bà ta nghĩ người nhà Weedon ngờ nghệch không biết đi kiện, nhưng nếu bệnh viện Trung tâm phát hiện ra nguyên nhân là do đơn thuốc sai thì bà ta cũng không thoát nổi đâu.

- Thế thì bà ta coi như xong.

- Đúng thế - Shirley đồng tình - Tôi nghĩ chắc nhiều người sẽ thấy nhẹ cả người. Nhẹ cả người đi ấy.

Howard cẩn thận phân loại mớ thư. Đơn ứng cử hoàn chỉnh của Miles để riêng một bên. Số còn lại là từ các ủy viên quen biết trong hội đồng khu. Chẳng có gì lạ, từ lúc Parminder gửi email thông báo bà biết có người muốn ứng cử vào vị trí của Barry, lão đã đoán thế nào sáu người kia cũng ủng hộ bà mà yêu cầu đòi bầu cử. Cùng với Tai Cụp, họ là những người mà lão nhạo là “dàn bè inh ỏi” mà ông nhạc trưởng vừa mới ngã xuống. Trên đỉnh chồng thư này, Howard đặt đơn ứng cử của Colin Wall, ứng viên phe bên kia lựa chọn.

Ở chồng thứ ba, lão để ra bốn lá thư nữa, cũng trong dự đoán cả: Mấy “chuyên gia than vãn” ở Pagford mà Howard xếp vào loại luôn nghi ngờ và không khi nào thấy hài lòng, đám này thường xuyên viết đơn thư gửi tờ Yarvil và District Gazette. Mỗi người trong số đó đều bị ám ảnh bởi một vấn đề địa phương thâm sâu nào đó, và tự cho mình là “người có đầu óc độc lập”; hẳn nếu thằng Miles mà được chọn kiểu chỉ định thì thể nào đây cũng là đám đầu tiên gào lên “gia đình trị”; nhưng bên cạnh đó, đám đó cũng là những tay chống-khu-Fields tích cực nhất trong thị trấn.

Howard hai tay cầm lên hai lá thư cuối cùng, thử ước lượng khả năng. Một trong hai là từ một phụ nữ lão chưa từng gặp, bà này tự xưng (Howard chẳng hề tin) là làm việc tại trung tâm cai nghiện Bellchapel (nhưng khi thấy bà này gọi mình là “Ms” lão lại đâm ra tin chuyện đó). Sau khi lưỡng lự một lúc, Howard đặt bức này lên trên đơn ứng tuyển của Wall “Tủ”.

Lá thư cuối cùng được đánh máy, không có chữ ký, yêu cầu tổ chức bầu cử bằng giọng điệu không hợp cách chút nào. Có vẻ nó được viết vội vàng cẩu thả, đầy lỗi đánh máy. Thư ca ngợi đạo đức tốt đẹp của Barry Fairbrother và chỉ đích danh Miles “không phù hợp thế chưn ông ấy”. Howard tự hỏi liệu đây có phải một khách hàng bất mãn với con trai mình, gã này có thể tạo nên trò lố bịch được đây. Được cảnh báo trước mấy mối nguy hiểm kiểu thế cũng tốt. Nhưng Howard vẫn không chắc liệu lá thư nặc danh này có được tính là một yêu cầu bầu cử hợp lệ không. Cuối cùng lão nhét nó vào cái máy cắt giấy nhỏ để bàn mà Shirley tặng ông chồng nhân dịp Giáng Sinh.

II

Công ty Edward Collins & Đồng sự, cố vấn pháp luật cho thị trấn Pagford, đóng đô tại tầng trên tòa nhà gạch liên kế, tầng dưới là một hiệu mắt kính. Edward Collins đã mất, giờ công ty chỉ gồm hai người: Gavin Hughes là đối tác lĩnh lương không phần hùn, ngồi trong văn phòng một cửa sổ; người kia là Miles Mollison, đối tác kiêm cổ đông, ngồi văn phòng có hai cửa sổ. Họ có chung cô thư ký hai tám tuổi còn độc thân, tính tình đơn giản nhưng thân hình khá đẹp. Hễ Miles pha trò là Shona cười không ngớt nhưng cô đối với Gavin đầy vẻ kẻ cả, gần như khó chịu.

Hôm thứ sáu sau lễ tang của Barry Fairbrother, Miles gõ cửa phòng Gavin lúc một giờ rồi đẩy cửa vào luôn không đợi mời. Anh ta thấy cộng sự của mình đang dán mắt vào nền trời xám xịt qua khung kính cửa sổ lấm tấm nước mưa.

- Tôi chạy vội đi ăn trưa cái - Miles nói - Nếu Lucy Bevan tới sớm, anh nói bà ấy chờ tôi một lát nhé? Shona ra ngoài rồi.

- Ờ, được - Gavin đáp.

- Mọi chuyện ổn cả chứ?

- Mary gọi đến. Có chút rắc rối về vụ bảo hiểm nhân thọ của Barry. Bà ấy muốn tôi giúp.

- Ờ, thế cậu làm đi, nhé? Hai giờ là tôi quay lại rồi.

Miles khoác áo, chạy xuống cầu thang dốc rồi sải bước mạnh mẽ trên con đường nhỏ ướt mưa về hướng quảng trường. Tầng mây thoáng hé ra chốc lát, ánh mặt trời phủ tràn đài tưởng niệm chiến tranh lóng lánh nước và mấy giỏ hoa treo. Miles chợt dậy lên niềm tự hào mang tính di truyền khi anh vội vã băng ngang quảng trường đi về hướng cửa hàng Mollison và Lowe, Pagford thân quen, khu trung tâm tuyệt diệu nhất, nơi cảm giác thân thuộc chỉ ngày càng đậm sâu chứ chưa bao giờ phai nhạt.

Tiếng chuông vang lên leng keng khi Miles đẩy cửa. Không khí trong tiệm nhuốm vẻ hối hả của giờ nghỉ trưa. Một hàng dài tám người đang đứng chờ trước quầy. Howard vẫn mặc trang phục thường lệ khi đứng tiệm, mớ mồi câu giả lấp lánh trên cái mũ hai vành, miệng nói liến thoắng.

-... thêm một phần tư cân olive đen, Rosemary, của bà đấy. Hết rồi phải không? Rosemary, chỉ thế thôi... như vậy tổng cộng là tám bảng sáu mươi hai xu, tính tròn là tám bảng thôi, vì mối hợp tác lâu dài tốt đẹp bấy nay...

Tiếng cười rinh rích và mấy câu cảm ơn; ngăn kéo tiền lạch cạch loảng xoảng.

- Chàng luật sư của tôi đây rồi, lại đây xem nào - Howard gọi oang oang, nháy mắt cười với Miles qua đầu hàng người. - Nếu ông vui lòng chờ tôi đằng sau, thưa ông, tôi sẽ ráng giữ mồm không nói gì bất lợi cho bà Howson đâu...

Miles mỉm cười với mấy bà trung niên đang chờ, họ cũng tươi cười đáp lại. Cao ráo, mái tóc bắt đầu ngả xám cắt rất sát, cặp mắt xanh tròn to, cái bụng phệ đã được chiếc áo khoác đậm màu khéo giấu, rõ ràng Miles là gia vị thêm vào khá hấp dẫn bên cạnh món bánh quy tự nướng và phô-mai địa phương của tiệm. Anh cẩn thận len qua giữa những chiếc bàn nhỏ chất đầy thức ăn hấp dẫn và dừng ngay khung cửa lớn nối tiệm thực phẩm và hiệu giày cũ, lần đầu tiên người ta tháo tấm nhựa chắn bụi chỗ này ra. Maureen (Miles vẫn nhớ nét chữ viết tay của bà) đã đặt tấm biển trên bảng quảng cáo ngay giữa cửa: Không đi lối này. Sắp mở cửa... Quán Ấm Đồng. Miles lách vào gian phòng trống sạch sẽ sắp trở thành quán café mới đẹp nhất thị trấn; nó đã được trát vữa và sơn sửa lại, sàn nhà đen mới đánh bóng loáng dưới chân.

Anh rón rén bước vòng qua góc quầy, né người bước ngang Maureen lúc này đang chạy máy cắt thịt làm bà này có cớ cười rú lên thô lỗ, rồi lách nhanh qua cánh cửa dẫn đến căn phòng nhỏ xám xịt đằng sau. Trên cái bàn lót formica để tờ Daily Mail của Maureen. Áo khoác của Howard và Maureen treo trên mắc, cánh cửa khác dẫn đến bồn rửa tỏa mùi oải hương nhân tạo. Miles cũng treo áo khoác lên rồi kéo chiếc ghế cũ ngồi vào bàn.

Một, hai phút sau, Howard xuất hiện với hai dĩa đồ ăn ngon đầy ụ.

- Đã nhất trí chọn tên Ấm Đồng rồi ạ? - Miles hỏi.

- Ờ, Mo thích tên này - Howard trả lời, đặt một dĩa xuống trước mặt con trai.

Lão lại kềnh càng quay ra rồi cầm vào hai chai bia, giơ chân khép cửa làm căn phòng không cửa sổ tối sầm, chỉ còn mỗi ánh sáng lờ mờ từ ngọn đèn treo. Howard ngồi xuống, rên một tiếng đùng đục. Hồi giữa giờ sáng lão đã tỏ ra úp úp mở mở chuyện gì đó trên điện thoại, giờ bắt Miles chờ thêm chút nữa trong lúc khui nắp một chai bia.

- Wall gửi đơn ứng cử tới rồi - Cuối cùng lão lên tiếng, đưa chai bia cho cậu con.

- À - Miles thốt.

- Bố phải đặt ra kỳ hạn mới được. Mọi người được đăng ký trong vòng hai tuần kể từ hôm nay.

- Thế là đẹp rồi - Miles bình luận.

- Mẹ con nói gã nhà Price này vẫn muốn tham gia. Con hỏi Sam xem có biết anh ta là người thế nào chưa?

- Chưa ạ - Miles đáp.

Howard gãi gãi rãnh bụng dưới gần chạm tới đầu gối khi ông ngồi trên chiếc ghế kẽo kẹt.

- Con với Sam vẫn ổn chứ hả?

Miles khâm phục tài đoán chuyện như thần của ông bố, trước giờ anh vẫn thấy thế.

- Cũng không êm đẹp lắm.

Anh không muốn thừa nhận chuyện này với mẹ, vì gắng không châm dầu vào cuộc chiến tranh lạnh thường trực giữa mẹ chồng và nàng dâu, trong cuộc chiến đó Miles vừa là con tin vừa là chiến lợi phẩm.

- Cô ấy không thích chuyện con ra ứng cử - Miles thận trọng nói. Howard nhướng cặp lông mày nhạt, hàm dưới đong đưa theo nhịp nhai. - Con không biết cô ấy bị cái quái gì nữa. Hình như đang lên cơn ghét Pagford hay sao đó.

Howard thong thả nuốt cho xong. Lão quệt miệng bằng miếng khăn giấy rồi ợ một phát.

- Một khi con đã vào được hội đồng thì con bé quay ngoắt thái độ ngay thôi - lão bình thản nói. - Lợi ích xã hội mà. Mấy bà vợ được nhiều thứ lắm. Được dự mấy buổi tiệc ở Dinh thự Sweetlove này. Con bé sẽ được ở đúng sàn diễn nó thích. - Howard nốc thêm ngụm bia, gãi gãi bụng.

- Con không nhớ được anh chàng Price gì đó - Miles nói, trở lại chủ đề chính - Con chỉ mang máng nhớ là thằng con anh ta học chung lớp với Lexie ở trường Thánh Thomas.

- Nhưng được sinh ra ở khu Fields, đó, vấn đề là chỗ đó - Howard nói - Chi tiết này sẽ có lợi cho ta. Phe ủng hộ khu Fields sẽ chia phiếu giữa anh chàng này với nhà Wall.

- À đúng rồi - Miles khâm phục - Có lý lắm.

Anh chưa từng nghĩ tới chuyện này. Lúc nào anh cũng ngưỡng mộ đầu óc ông bố.

- Mẹ con đã gọi cho vợ anh ta chỉ cách tải các mẫu phiếu đăng ký cho chồng. Có lẽ bố sẽ bảo mẹ con gọi lại tối nay, bảo vợ anh ta là chỉ còn hai tuần, phải nhanh chóng động tay động chân đi.

- Thế là tổng cộng có ba ứng cử viên phải không? - Miles hỏi - tính luôn Colin Wall.

- Tới giờ bố chưa nghe nói có ai khác. Nhưng khi đăng chi tiết thông báo lên website thì có thể sẽ còn người khác nộp đơn. Dù gì thì bố con mình cũng thắng mà. Chắc chắn thế. Aubrey có gọi tới - Howard nói thêm. Cứ mỗi khi nhắc tới tên thánh của Aubrey Fawley là ông lại lên giọng trịnh trọng. - Ủng hộ con hết mình, rành là thế. Tối nay ông ấy sẽ quay lại. Giờ ông ấy đang ở thành phố.

Thường dân Pagford nói “ở thành phố” có nghĩa là “ở Yarvil”. Nhưng Howard và Shirley học theo cách nói của Aubrey Fawley, nói “ở thành phố” nghĩa là “ở London.”

- Ông ấy nói đại khái mọi người nên cùng ngồi họp mặt trò chuyện. Có thể ngay ngày mai. Có khi mời ta đến nhà đấy nữa. Con bé Sam sẽ thích vụ này.

Miles vừa ngoạm một miếng lớn bánh mì phết paté gan nhưng vẫn trịnh trọng gật đầu ra ý đồng tình. Anh khoái chí khi biết ông Aubrey Fawley “ủng hộ hết mình”. Samantha cứ giễu bố mẹ anh quỵ lụy nhà Fawleys, nhưng anh để ý chính cô, trong vài dịp hiếm hoi khi chạm mặt ông Aubrey hay bà Julia, cũng sửa giọng và làm điệu bộ ra vẻ trang nhã hơn nhiều.

- Còn nữa, - Howard lại gãi bụng - Sáng nay có email từ tờ Yarvil và District Gazette. Họ muốn nghe quan điểm của bố về khu Fields. Với tư cách chủ tịch hội đồng khu.

- Bố đùa sao? Con nghĩ chính Fairbrother là người đưa ra vụ này...

- Phản tác dụng, hả? - Howard khoái trá đáp. - Họ đăng bài của ông ấy, nhưng cũng muốn đăng thêm ý kiến phản biện vào số kế tiếp tuần sau. Để có góc nhìn khác mà. Con giúp một tay thì tốt. Thêm mấy thuật ngữ kiểu luật sư, đại khái thế.

- Chuyện nhỏ thôi - Miles nói - ta có thể viết về cái trung tâm cai nghiện chết toi đó. Sẽ hiệu quả đấy.

- Phải, ý kiến hay, tuyệt vời.

Howard hưng phấn ngốn một miếng quá cỡ và phát sặc, Miles phải đập mạnh vào lưng cho ông bố bớt ho. Cuối cùng, vừa chấm chấm cặp mắt đầy nước, Howard vừa khào khào nói: “Anbrey đang kêu gọi quận cắt bớt ngân sách từ phía họ, bố sẽ vin vào đó yêu cầu chấm dứt cho thuê tòa nhà đó. Đưa vụ đó lên báo cũng chẳng hại gì. Phí biết bao nhiêu thời gian tiền bạc vào cái chỗ đấy mà chẳng được nước mẹ gì. Bố có đủ số liệu rồi đây.” Howard lại ợ một phát ầm ĩ - Nhục như chó. Xin lỗi.

III

Tối hôm đó, Gavin nấu một bữa ăn để mời Kay lại nhà, gã mở các lon đồ hộp và hăng hái nghiền tỏi như tấn công kẻ thù.

Sau lúc chiến tranh thì ta phải nói một số điều nhất định để đạt được thỏa thuận đình chiến, lệ là thế rồi, ai cũng biết. Gavin gọi điện cho Kay trên đường lái xe về sau đám tang của Barry, gã nói ước gì cô có mặt ở đó, rằng cả ngày hôm đó đúng là khủng khiếp, mong là tối nay gã được gặp cô. Gã cân nhắc nói ra mấy lời phải chăng, không nhiều không ít hơn cái giá phải trả cho một buổi tối có người bầu bạn.

Nhưng Kay xem trọng những lời ấy hơn nhiều trong tư thế của người chịu hạ giá ở lần tái đàm phán này. Anh nhớ em. Lúc buồn anh thực sự cần em. Anh rất xin lỗi vì ta không đi chung với nhau như một đôi. Thôi đừng để chuyện thế xảy ra nữa nhé. Từ lúc đó cách cô đối xử với Gavin có gì đó đầy thỏa mãn, cô hoạt bát vui vẻ trong niềm kỳ vọng mới nhen nhóm lại.

Tối nay gã muốn làm món mì Ý Bonlognese, gã cố tình không mua sẵn bánh pudding hay trải sẵn khăn bàn, cố tỏ cho cô thấy gã không hề đổ quá nhiều công sức chuẩn bị cho buổi tối này. Nhưng xem ra Kay không để ý tới, cô vẫn thấy nỗ lực bình thường đó thật đáng quý. Cô ngồi bên chiếc bàn nhỏ trong bếp, vừa nói chuyện giữa tiếng mưa lộp độp trên cửa sổ mái vừa nhìn quanh quất mấy món đồ bếp. Cô vốn không thường đến đây.

- Em đoán Lisa chọn màu vàng này, phải không?

Cô lại thế, lại phạm vào chủ đề cấm kỵ, cứ như gần đây quan hệ giữa họ đã tiến gần thêm một mức. Gavin không bao giờ muốn nhắc tới Lisa trừ khi bất đắc dĩ, hẳn cô đã biết thế rồi chứ? Gã rắc nắm kinh giới lên chỗ thịt băm trong chảo, đáp - Không, mọi thứ đều do người chủ cũ để lại. Anh cũng định mà chưa có giờ thay.

- Ồ - cô nhấp thêm ngụm rượu vang - màu đẹp mà. Hơi nhạt chút.

Gavin bực mình, gã luôn nghĩ nội thất ở Nhà Thợ Rèn chỗ nào cũng đẹp hơn nhiều so với căn nhà số 10 trên đường Hope. Gã quay lưng lại cô, nhìn nồi mì sôi lục bục.

- Anh biết sao không? - Cô lại lên tiếng - Chiều nay em gặp Samantha Mollison đấy.

Gavin ngoảnh lại, làm sao Kay biết Samantha Mollison được?

- Ngay bên ngoài hiệu thực phẩm chỗ quảng trường đấy, lúc em đi mua cái này. - cô búng nhẹ vào chai rượu đặt cạnh - cô ấy hỏi em có phải bạn gái của Gavin không.

Kay nhấn mạnh, vẻ trêu chọc, nhưng thực tình cô rất vui sướng khi nghe cái từ ấy từ miệng Samantha, cô nghĩ chắc Gavin giới thiệu mình với các bạn anh như thế.

- Rồi em nói sao?

- Thì, thì em nói là phải.

Cô tiu nghỉu đáp. Gavin không định bật ra câu hỏi ấy với vẻ gay gắt thế. Hẳn giọng gã tỏ rõ không muốn Kay và Samantha gặp nhau chút nào.

- Dù sao thì - Kay nói tiếp, giọng hơi sượng lại - cô ấy mời chúng mình cùng ăn tối vào thứ Sáu tới. Tức là tròn một tuần kể từ hôm nay.

- Đúng là chết tiệt! - Gavin cáu kỉnh bật ra.

Vẻ phấn khởi của Kay hoàn toàn biến mất.

- Có chuyện gì sao?

- Không. Không có gì - Gã nói, tay quậy mì - Chỉ là anh gặp Miles suốt giờ làm đã phát ngán rồi, thực sự thế.

Đó đúng là điều mà gã luôn lo sợ, rằng cô sẽ tìm cách len lách vào mạng lưới quan hệ xã hội của gã, biến gã với cô thành cặp đôi Gavin-và-Kay, thế thì càng khó mà gạt cô ra khỏi cuộc sống của gã. Sao gã lại để chuyện xảy ra thế này? Sao gã lại để cô dọn về đây chứ? Nỗi giận mình nhanh chóng chuyển sang cô bạn gái. Sao cô không chịu hiểu rằng gã đâu có khao khát cô đến thế, sao không tự dứt ra trước khi gã phải chơi bẩn đi? Gã chắt ráo mì trong bồn, lầm bầm chửi thề vì bị nước sôi văng trúng.

- Thế thôi anh gọi cho Miles với Samantha bảo “không” đi - Kay nói.

Giọng cô đã mất vẻ mềm mại. Theo đúng cái thói quen ăn sâu bắt rễ trong mình, Gavin vội vàng đẩy mâu thuẫn sắp bùng ra đi chỗ khác, mặc cho sau này ra sao thì ra.

- Không, đâu có - gã vừa đáp vừa thấm thấm chỗ áo ướt bằng cái khăn lau bát - Ta cứ đi thôi. Ổn mà. Cứ đi thôi.

Cái vẻ kém nhiệt tình che đậy của gã đặt sẵn một dấu mốc để sau này gã có thể lấy đó làm cớ. Em biết mà, lúc trước anh đâu muốn đi. Không, anh đâu có thích. Anh không muốn chuyện đó lặp lại lần nữa đâu.

Cả hai cùng chìm vào im lặng. Gavin cứ ngỡ lại sắp cãi nhau trận nữa nếu Kay lại ép gã nói cho ra ngô ra khoai mấy lý do thật sự đằng sau. Gã loay hoay tìm gì đó để nói, rồi bắt đầu kể cho cô nghe chuyện Mary Fairbrother và công ty bảo hiểm nhân thọ.

- Đúng là lũ khốn - gã kể - ông ấy bảo hiểm đầy đủ hết, thế mà bọn luật sư bên đó đang tìm cách để không trả tiền bảo hiểm đấy. Chúng nó đang dựng chuyện ông ấy không khai thật hết tình trạng của mình.

- Như thế nào?

- À thì, cũng có một ông chú trong họ bị chứng phình mạch. Bà Mary thề là ông Barry có báo cho đại lý bảo hiểm chuyện đó khi ký hợp đồng, nhưng trong hợp đồng lại chẳng thể hiện chi tiết này. Chắc tay đại lý đó không biết chứng đó có khả năng di truyền. Anh không biết Barry...

Giọng Gavin vỡ ra. Hoảng hốt và xấu hổ với cơn xúc động bất ngờ, gã chúi gương mặt nóng bừng xuống đĩa. Cổ họng gã nghẹn tắc đau xót, cố nuốt mãi không trôi. Có tiếng ghế Kay dịch chuyển trên sàn, gã hy vọng cô sẽ vào nhà tắm, nhưng rồi bàn tay cô đã quàng qua vai kéo gã vào lòng. Không nghĩ ngợi, gã cũng quàng một tay qua người cô.

Được ôm thật dễ chịu. Ước gì mối quan hệ giữa hai bên có thể cô rút lại thành những cử chỉ đơn giản không lời mà dễ chịu này. Sao con người lại học nói làm gì chứ?

Gã dây cả nước mũi vào lưng áo cô.

- Xin lỗi em - Gã nói giọng đặc nghẹt, lấy khăn ăn lau vết bẩn đi.

Gã nhấc mình khỏi người cô rồi xì mũi. Cô kéo ghế xích lại ngồi cạnh, đặt tay lên cánh tay gã. Gã yêu biết bao những lúc cô im lặng thế này, gương mặt cô dịu hiền quan tâm như thế này, như lúc này.

- Anh vẫn không thể nào... ông ấy là một tay rất được - gã nói - Barry ấy. Thực sự là rất tốt.

- Vâng, ai cũng nói vậy về ông ấy - Kay nhẹ nhàng.

Cô chưa bao giờ được gặp ông Barry Fairbrother nổi tiếng ấy, nhưng cô ngạc nhiên trước cơn xúc cảm của Gavin và cái người khiến gã phải xúc động đến thế.

- Ông ấy có vui tính không? - Cô hỏi, bởi cô hình dung người như Gavin sẽ bị hút bởi người có khiếu hài hước mạnh hay kiểu thủ lĩnh khua chiêng gióng trống, đạp đổ mọi rào cản.

- Ờ... anh nghĩ thế. Mà không hẳn. Cũng bình thường, ông ấy thích cười… nhưng ông ấy là một... một tay tử tế. Ông ấy quý mến con người, em hiểu không.

Cô đợi nghe thêm nhưng xem ra Gavin không còn gì để nói về cái tử tế của Barry nữa.

- Rồi còn bọn trẻ... và bà Mary... bà Mary tội nghiệp... Chúa ơi, em không hiểu đâu...

Kay vẫn vỗ về tay gã nhè nhẹ, nhưng sự cảm thông của cô đã nguội đi đôi chút. Không biết gì à, cô nghĩ, lẽ nào cô không hiểu một mình là thế nào sao? Không biết đơn thân cáng đáng gia đình là vất vả thế nào à? Sao gã không tội nghiệp cho chính cô đây?

- Khi trước họ hạnh phúc lắm - Gavin run giọng - bà ấy tan nát cả cõi lòng.

Kay im lặng vỗ mạnh hắn, như thể nói cô chưa bao giờ có quyền suy sụp.

- Anh không sao - gã nói, lấy khăn ăn chùi mũi rồi lại cầm nĩa lên. Gã hơi rụt tay lại rất kín đáo, tỏ ý đến lúc cô nên bỏ tay ra.

IV

Samantha mời Kay đến ăn tối phần vì muốn trả đũa, phần vì buồn chán. Cô xem đó là để trả miếng Miles vì anh chàng lúc nào cũng bận với những kế hoạch này nọ, đã không bàn với cô lời nào lại đi mong cô hợp tác; rồi xem anh ta thấy thế nào khi cô xếp đặt mọi sự mà không bàn trước với anh ta. Vả lại làm thế cô cũng trên cơ được Maureen và Shirley, hai con quạ già thóc mách đó đều háo chuyện riêng của Gavin nhưng gần như chẳng biết gì về quan hệ của anh ta với cô bạn gái London. Rốt cục cô cũng có dịp thử móng vuốt với Gavin vì tội lần chần chết nhát trong chuyện tình cảm; cô sẽ đặt thẳng vấn đề đám cưới trước mặt Kay, hoặc sẽ vờ bình luận kiểu thật mừng là cuối cùng Gavin cũng có ý định nghiêm túc lâu dài.

Dù sao đi nữa, cái kế hoạch hạ bệ kẻ khác đó của Samantha không vui như cô mong đợi. Lúc sáng thứ bảy, khi kể với Miles chuyện này, anh chàng tỏ ra hào hứng một cách dè dặt.

- Hay thế, ờ, lâu lắm rồi chưa mời Gavin ăn tối chung. Em làm quen với Kay cũng hay đấy.

- Sao thế?

- À thì, khi trước em luôn vui vẻ với Lisa mà, phải không?

- Kìa Miles, em ghét Lisa mà.

- Ờ, thì thôi… nhưng có khi em thích Kay hơn thì sao.

Cô lườm anh chồng, không biết cái thói hài hước này từ đâu ra. Lexie và Libby cuối tuần về nhà chơi gặp trời mưa đành ru rú trong phòng khách xem DVD ca nhạc; bản ballad lấy tiếng guitar làm chủ đạo dội vào căn bếp chỗ bố mẹ chúng đang đứng nói chuyện.

- Em này - Miles vung vẩy chiếc điện thoại - Aubrey muốn nói chuyện với anh về vụ hội đồng. Anh vừa gọi cho bố, rồi nhà Fawleys mời nhà ta tối nay cùng ăn cơm tối ở Sweetlove...

- Thôi cảm ơn - Samantha ngắt lời. Đột nhiên cô thấy trào lên cơn giận mà chính cô cũng không hiểu nổi. Cô bỏ ra khỏi phòng.

Suốt ngày, hai người họ hạ giọng cãi vã nhau khắp nơi trong nhà, cố không làm hỏng kỳ nghỉ cuối tuần của các con. Samantha vẫn khăng khăng giữ nguyên ý định mà không giải thích lý do. Miles ngại nổi cáu với vợ bèn chọn chiến lược thương thuyết bình tĩnh.

- Thế em không đến thì còn ra thể thống gì nữa, em nghĩ mà xem? - Anh nói lúc tám giờ kém mười tối, khi đứng ở cửa phòng khách, người đã đóng bộ sẵn sàng chuẩn bị lên đường.

- Đâu liên quan gì tới em đâu, Miles - Samantha hờ hững - anh mới là người đang tranh cử mà.

Cô khoái nhìn anh chần chừ bất quyết. Cô biết anh rất sợ đến trễ, nhưng vẫn mong thuyết phục được cô đi cùng.

- Em biết là nhà họ mong hai vợ chồng cùng đến mà.

- Thật à? Đâu có ai ngỏ lời mời em đâu.

- Trời ơi thôi mà em, Sam, em biết ý họ thế mà, họ coi đó là điều hiển nhiên...

- Thế thì họ càng vớ vẩn. Em đã nói rồi. Em không hứng vụ này đâu. Anh đi nhanh đi. Đừng có để Bố yêu với Mẹ yêu chờ.

Anh đi khỏi. Cô nghe tiếng xe de xuống đường rồi trở vào bếp, mở chai rượu và mang vào phòng khách kèm cái ly. Cô hình dung cảnh Howard, Shirley và Miles đang cùng ăn tối ở Dinh thự Sweetlove. Hẳn là nhiều năm rồi bà già Shirley mới được vài phút sung sướng thế.

Suy nghĩ của cô lại ngoặt sang chuyện viên kế toán lải nhải bên tai suốt tuần nay. Lợi nhuận đang sụt cho dù cô vờ vĩnh thế nào trước mặt Howard đi nữa. Bên kế toán còn nghiêm túc đề nghị đóng cửa tiệm và chuyển hướng tập trung kinh doanh qua mạng. Làm thế chẳng khác nào thừa nhận thất bại mà bây giờ Samantha không hề sẵn sàng tiếp nhận. Một phần vì bà Shirley sẽ tha hồ thích chí nếu cửa hàng bị dẹp. Lúc mới khai trương bà ta chê nó không tiếc lời. Mẹ rất tiếc, Sam, nhưng không phải gu của mẹ... kiểu cách hơi quá lố đấy... Nhưng Samantha yêu cái cửa hàng trang trí hai màu đen đỏ tại Yarvil, yêu cảm giác được đi khỏi Pagford hàng ngày, tán chuyện với khách hàng, buôn chuyện với cô trợ lý Carly. Nếu không còn cái cửa hàng cô đã bỏ công chăm sóc suốt mười bốn năm nay, thế giới của cô sẽ nhỏ bé đến đáng thương. Nói gọn lại là, chỉ còn quanh quẩn ở Pagford.

(Pagford. Pagford khốn kiếp. Samantha chưa khi nào định ăn đời ở kiếp tại đây. Cô và Miles đã bàn nhau dành hẳn một năm đi chơi trước khi bắt đầu cày cuốc, kiểu như du lịch vòng quanh thế giới. Hai người họ thậm chí đã vạch ra lộ trình, chuẩn bị xong Visa. Samantha đã mơ tới cảnh hai người tay trong tay dạo chân trần trên bờ biển Úc cát trắng. Rồi đột nhiên cô phát hiện mình có thai.

Cô đành phải hạ giá đi gặp anh ta ở nhà bố mẹ anh, chỉ một ngày sau khi thử que, một tuần sau ngày cô và anh tốt nghiệp. Họ đã định đi Singapore sau tám ngày nữa.

Samantha không muốn kể với Miles trong lúc ở nhà bố mẹ, cô sợ họ nghe được. Cô lúc nào cũng có cảm giác Shirley rình sau mọi cánh cửa mà Samantha mở ra tại căn nhà kiểu bungalow đó.

Thế nên cô đợi tới lúc họ cùng ngồi xuống góc bàn tối tại Black Canon. Cô nhớ quai hàm Miles cứng lại khi nghe cô kể; không hiểu sao anh trông già hẳn đi khi nghe cái tin đó.

Sau nhiều giây im lặng sững sờ, cuối cùng anh mở miệng: “Được. Vậy ta sẽ làm đám cưới.”

Anh bảo với cô anh đã mua sẵn nhẫn, rằng anh đã định tìm chỗ nào đó thật phù hợp, như đỉnh Ayers Rock chẳng hạn. Đúng là anh nói thật, khi họ trở lại nhà bố mẹ anh, anh moi ra trong balô ra cái hộp nhỏ giấu sẵn trong đó. Chiếc nhẫn nạm viên kim cương nhỏ mua tại hiệu kim hoàn ở Yarvil, anh mua nó bằng số tiền bà ngoại để lại. Samantha đã ngồi trên mép giường của Miles mà khóc, khóc mãi. Ba tháng sau, họ cưới nhau.)

Khi còn lại một mình với chai rượu, Samantha bật tivi. Màn hình hiện lên DVD ca nhạc mà Lexie và Libby xem khi nãy: Băng dừng tại cảnh bốn chàng trai trẻ mặc áo thun đang hát, trông họ đã hơi quá tuổi teen. Cô ấn nút play. Sau khi nhóm nhạc nam hát xong, DVD chuyển sang mục phỏng vấn, Samantha nhấp rượu, xem nhóm nhạc pha trò, trêu đùa nhau, rồi chuyển sang vẻ đứng đắn khi bày tỏ họ yêu quý người hâm mộ đến thế nào. Cô nghĩ giả mà có tắt âm thì cô vẫn nhận ra mấy cậu này là người Mỹ. Mấy hàm răng đẹp đến hoàn hảo.

Đã khá muộn. Cô tạm dừng đĩa, lên lầu bảo bọn trẻ thôi chơi Playstation và đi ngủ, rồi cô quay lại phòng khách, tiếp tục với chai rượu đã cạn ba phần tư. Cô không bật đèn, chỉ ấn nút play và tiếp tục uống. Khi đĩa DVD đã hết, cô lại bật từ đầu để xem đoạn chưa xem.

Có một cậu trong nhóm trông chững chạc hơn hẳn hai cậu kia. Cậu có vai rộng hơn, bắp tay nổi múi dưới tay áo thun ngắn, cái cổ dày khỏe và quai hàm vuông. Samantha ngắm nhìn cậu nhún nhảy, gương mặt điển trai tập trung hướng về phía ống kính toàn góc với cạnh, nổi lên cặp chân mày đen xếch.

Cô nghĩ tới chuyện làm tình cùng Miles. Lần gần đây nhất đã cách nay ba tuần rồi. Động tác của anh dễ đoán như cái điệu bắt tay của thành viên hội Tam điểm. Một trong những câu châm ngôn anh ưa thích là “cái gì không hỏng thì đừng sửa.”

Samantha trút nốt phần rượu còn trong chai ra cốc rồi tưởng tượng cảnh làm tình với cậu trai trên màn hình. Mấy hôm nay ngực cô khi đóng áo vào trông khá hơn, nhưng khi nằm xuống nó cứ chảy ra làm cô thấy mình phẳng lì và kỳ cục. Cô mơ tới cảnh mình bị ép vào tường, một chân co lên, váy vén lên tận bụng, cậu trai mạnh mẽ đó quần tụt tới đầu gối, háo hức khám phá...

Trong cảm giác lâng lâng gần như là hạnh phúc, cô nghe tiếng xe rẽ vào nhà, làn sáng đèn pha quét qua căn phòng khách tối om.

Cô dò dẫm mãi một lúc mới tóm được cái điều khiển chuyển kênh tin tức; cô nhét bừa chai rượu rỗng xuống dưới ghế sofa rồi nắm chặt lấy chiếc ly còn chút ít như điểm tựa. Cánh cửa trước mở ra rồi khép lại. Sau lưng cô, Miles bước vào nhà.

- Sao em ngồi trong bóng tối thế?

Anh bật đèn, cô ngẩng lên nhìn. Trông anh ta vẫn bảnh chọe như hồi mới ra khỏi nhà, chỉ có vai áo khoác lấm mấy giọt nước mưa.

- Bữa tối thế nào?

- Tốt đẹp mà - anh đáp - em không đi tiếc quá. Ông bà Aubrey và Julia đều lấy làm tiếc là em không đến được.

- Ờ, chắc chắn rồi. Cá là mẹ anh đến òa khóc vì thất vọng đấy nhỉ.

Anh ngồi xuống chiếc ghế bên phải cô, nhìn vợ chằm chằm. Cô gạt món tóc vương vào mắt.

- Chuyện này là thế nào vậy hả Sam?

- À, nếu anh còn chưa biết...

Nhưng chính cô cũng không biết chắc thật ra có chuyện gì, hay ít nhất, cô không biết làm sao diễn đạt cho mạch lạc cái cảm giác ức chế vì bị đối xử không ra sao này.

- Anh thấy vụ anh ra ứng cử hội đồng khu không...

- Ôi trời ơi, Miles! - Cô gào lên, hơi giật lui vì chính tiếng hét của mình.

- Thế em giải thích cho anh nghe đi - anh hỏi - anh ứng cử thì có ảnh hưởng gì tới em chứ?

Cô trừng trừng nhìn anh, cố tìm cách giải thích cho cái đầu óc luật sư mô phạm chỉ giỏi vạch ra chỗ hớ hênh trong lời nói mà không thấy nổi bức tranh toàn cảnh. Sao có thể nói cho anh hiểu được? Rằng cô thấy mấy cuộc nói chuyện vô tận giữa bố mẹ chồng về hội đồng khu chán như quỷ? Rằng chưa cần khoác thêm chuyện khu Fields (mà thật ra chẳng biết gì), thì bản thân con người anh bây giờ đã chán ngắt ra rồi, suốt ngày cứ nhai lại vinh quang từ hồi còn tham gia câu lạc bộ bóng bầu dục và khoe mẽ thành tích công việc.

- Đại để, em có cảm giác là - Samantha cất tiếng giữa căn phòng khách sáng lờ mờ - nhà ta đã đổi kế hoạch khác.

- Như thế nào kia? - Miles hỏi - Em định nói gì thế?

- Ta đã thống nhất là - Samantha chọn từ thật kỹ càng sau miệng ly run bần bật - khi các con đã học xong, ta sẽ cùng đi du lịch. Vợ chồng mình đã hứa với nhau điều đó, anh nhớ không?

Cơn điên giận và đau đớn từng xâm chiếm người cô khi Miles tuyên bố ý định ứng cử vào hội đồng khu chưa khi nào gợi cho cô nhớ tiếc năm du lịch từng bỏ lỡ ấy, nhưng vào lúc này, nó có vẻ đã trở thành vấn đề thực sự đối với cô; hay ít ra, nó là lý do gần nhất để nổ bùng nỗi phản kháng lẫn khát khao trong lòng.

Miles xem ra hoàn toàn bối rối.

- Em đang nói chuyện gì thế?

- Khi em mang bầu con Lexie - Samantha lớn tiếng - mình không đi du lịch được, rồi bà mẹ già nhà anh ép mình vội vội vàng vàng đám cưới, rồi ông bố kiếm được cho anh một suất ở hãng Edward Colllins, rồi anh nói “ta thỏa thuận thế”, rằng khi mấy đứa nhỏ trưởng thành, ta sẽ làm chuyện đó; ta sẽ đi thật xa và làm mọi thứ hồi xưa bỏ lỡ.

Anh chầm chậm lắc đầu.

- Đúng là chuyện mới đối với anh. Em đào từ chỗ quái nào ra thế?

- Miles, lúc đó mình ở Black Canon mà. Em báo với anh là em có bầu, rồi anh, trời ơi Miles, em nói với anh là em có bầu, rồi anh hứa với em, anh đã hứa...

- Em muốn đi nghỉ? - Miles ngắt lời - phải thế không? Em muốn đi chơi phải không?

- Không Miles, em không muốn đi nghỉ nghiếc gì hết, em muốn, anh không nhớ gì hết hả? Mình đã nói là sẽ dành hẳn một năm đi du lịch cùng nhau, khi các con đã trưởng thành.

- Ờ, thế được thôi - anh sốt ruột muốn kết thúc cho xong - Được thôi. Khi Libby mười tám tuổi, nghĩa là bốn năm nữa, ta lại bàn về chuyện này nhé. Anh thấy việc làm ủy viên hội đồng đâu có ảnh hưởng gì đâu.

- Thế hả, ngoài chuyện phải buồn chán như quỷ khi suốt ngày nghe anh với bố mẹ anh lải nhải về khu Fields trong khi hưởng nốt phần tuổi thọ trời cho còn lại...

- Tuổi thọ trời cho à - anh cười mỉa - thế trái với nó là...

- Nhảm nhí - cô nhổ toẹt - đừng có ra vẻ thông thái tởm đặc thế. Miles, chỉ bịp được bà mẹ anh thôi...

- Này, thật tình là anh vẫn chưa thấy vấn đề là ở đâu...

- Vấn đề hả - cô gào lên - vấn đề ở chỗ đây là tương lai của chúng ta đó Miles. Tương lai của chúng mình. Em không muốn chờ bốn năm nữa mới bắt đầu nói về chuyện đó, chết tiệt, em muốn nói ngay bây giờ.

- Anh nghĩ em nên ăn cái gì đi - Miles đứng dậy - em uống đủ rồi đấy.

- Chết toi nhà anh đi Miles.

- Thôi nhé, nếu em cứ chửi rủa cái kiểu đó...

Anh quay người bước khỏi phòng. Suýt chút nữa cô ném ly rượu trên tay vào lưng chồng.

Cái hội đồng đó, hễ đã vào là anh ta sẽ không bao giờ xin ra, anh ta sẽ không bao giờ từ bỏ cái ghế của mình, có cơ trở thành nhân vật tai to mặt lớn như ông bố mà. Anh ta sẽ lại tái nhiệm, lại long trọng thề hứa với thị trấn quê hương anh ta, lại cam kết gắn bó với cái tương lai hoàn toàn khác với tương lai anh từng hứa với vị hôn thê rối trí nức nở trên mép giường ngày xưa.

Lần cuối cùng họ bàn chuyện du lịch vòng quanh thế giới cùng nhau là khi nào? Cô không chắc. Lâu rồi, nhiều năm trước, chắc thế, nhưng tối hôm nay, Samantha đã quyết ý ít ra cô sẽ không thay đổi ý định. Phải, cô luôn trông đợi cái ngày họ có thể đóng gói hành lý và ra đi để tìm lại những nồng nàn và tự do, để cách thật xa Pagford, bà mẹ chồng, cửa hiệu Mollison và Lowe, những cơn mưa và cuộc sống tủn mủn lặp đi lặp lại. Có lẽ đã lâu rồi cô không còn quá khát khao khi mơ đến bãi biển cát trắng ở Úc hay Singapore, nhưng dù cặp đùi đã hóa nặng nề còn bụng nhão ra vì sinh đẻ, cô vẫn muốn tới đó hơn là ở đây, hơn là bị cầm tù trong cái thị trấn Pagford này để nhìn Miles từ từ biến thành người như bố anh.

Cô vật ra ghế sofa, mò tìm cái điều khiển rồi lại bật dĩa DVD của Libby. Vẫn nhóm nhạc ấy nhưng đã đổi thành trang phục đen trắng, đang vừa đi vừa hát dọc bãi biển dài vắng ngắt. Chiếc áo sơ mi của cậu trai vai rộng phật mở trong gió. Một vệt lông mỏng kéo dài từ rốn xuống mất hút trong quần jean cậu ta.

V

Alison Jenkins, phóng viên tờ Yarvil và District Gazette cuối cùng cũng tìm thấy căn nhà Krystal sống trong nhiều hộ mang họ Weedon khác. Chuyện này chẳng dễ dàng gì, vì địa chỉ này chẳng có ai đãng ký bầu cử và cũng không có số điện thoại bàn.

Hôm chủ nhật, Alison tự tìm đến đường Foley, nhưng lúc đó Krystal ra ngoài, còn Terri vì nghi ngờ và bất hợp tác không chịu nói khi nào con bé về, cũng không thừa nhận nó đúng là sống tại đây.

Krystal về nhà chỉ sau khi cô phóng viên đánh xe đi độ hai mươi phút, con bé lại cãi một trận với mẹ.

- Sao mẹ không nói cổ chờ hả? Cô đó sẽ phỏng vấn tui về khu Fields với mấy chuyện liên quan.

- Phỏng vấn mày ấy hả? Láo toét. Để làm cái quái gì chứ?

Vụ cãi cọ càng lúc càng to, Krystal lại bỏ ra ngoài sang nhà Nikki, chiếc di động của Terri nhét trong túi áo ấm. Con bé thường xoáy chiếc điện thoại này, và nhiều cuộc cãi vã giữa hai mẹ con bắt đầu chỉ vì mẹ nó đòi lại cái điện thoại, còn Krystal cứ vờ như không biết nó ở đâu. Krystal hơi hơi hy vọng cô phóng viên biết số điện thoại và sẽ gọi thẳng cho nó.

Điện thoại réo lên khi nó đang ngồi trong một quán café đông nghẹt ồn ào trong trung tâm mua sắm, kể với Nikki và Leanne nghe về vụ phóng viên.

- Lô? Cô là phóng viên hả?

- … ô... erri?

- Krystal đây. Ai đấy?

-… chị... mẹ... của cháu...

- Lô? - Krystal hét to. Nó lấy ngón tay bịt tai kia, len lỏi giữa mấy bàn café đông chật để ra chỗ yên tĩnh hơn.

- Dì Danielle đây - giọng phụ nữ đầu dây kia đã nghe rõ hơn - dì là chị của mẹ cháu.

- À thế - Krystal thất vọng.

Đồ quỷ cái hợm hĩnh - Mẹ nó lúc nào cũng nói thế khi nhắc tới tên dì Danielle. Krystal còn không nhớ đã từng gặp bà dì này chưa.

- Dì muốn báo tin về bà cố.

- Sao?

- Bà cố Nana Cath của cháu đấy mà - giọng Danielle có vẻ sốt ruột. Krystal bước ra chỗ ban-công nhìn ra sân trước trung tâm thương mại, đứng chỗ này tín hiệu rất rõ. Nó dừng lại.

- Bà bị làm sao? - Krystal hỏi. Nó nghe dạ dày hẫng sốc, hệt như hồi còn nhỏ nó nhảy lộn qua cái lan can y như cái trước mặt bây giờ. Độ chục thước dưới chân nó, đám đông vội vã đi lại, xách theo túi nhựa, đẩy xe nôi hay dắt theo con cái.

- Bà đang nằm ở bệnh viện Trung tâm Tây Nam. Bà đã nằm đó cả tuần rồi. Bà bị đột quỵ.

- Bà nằm cả tuần rồi hả? - Krystal hỏi lại, bụng nó hãy còn thốn lên - chẳng nghe ai nói gì cả.

- Thì bà không nói năng gì được rõ ràng nữa, nhưng bà có gọi tên cháu hai lần.

- Tên tui ấy hả? - Krystal hỏi, tay nắm chặt cái điện thoại.

- Phải. Dì nghĩ bà muốn gặp cháu. Bà bị nặng lắm. Bác sĩ ở đó nói có thể không hồi phục được đâu.

- Bà nằm khu nào? - Krystal hỏi, đầu óc lùng bùng.

- Mười hai. Khu bệnh nặng không tự phục vụ được. Giờ thăm bệnh là từ mười hai giờ đến bốn giờ, sáu giờ đến tám giờ, cháu nghe kịp chưa?

-Vậy...

- Dì phải đi cái đã. Dì chỉ báo cháu biết để có ghé thăm thì ghé. Thôi chào cháu.

Đường dây im bặt. Krystal nhìn sững khung kính, hạ điện thoại xuống. Nó dùng ngón cái bấm liên tục vào một phím cho đến khi cho đến khi thấy hiện lên chữ “khóa”. Dì nó đã từ chối không nhận cuộc gọi từ nó.

Krystal quay lại với Nikki và Leanne. Hai đứa lập tức biết có chuyện xảy ra.

- Đi thăm bà đi - Nikki nói, mở điện thoại xem giờ - Tới đó là độ hai giờ. Đi xe buýt ấy.

- Ờ - Krystal bần thần đáp.

Nó nghĩ tới chuyện về nhà tìm mẹ rồi cùng bà với Robbie đi thăm bà cố, nhưng mới năm ngoái mẹ với bà cố cãi nhau to một trận rồi tuyệt không liên hệ gì nữa. Krystal biết chắc phải tốn cả đống công thuyết phục mới kéo được bà mẹ vào bệnh viện, mà cũng không chắc bà cố có muốn gặp mẹ không nữa.

Bà bị nặng lắm. Bác sĩ ở đó nói có thể không hồi phục được đâu.

- Mày còn đủ tiền mặt không? - Leanne vừa hỏi vừa lục túi khi cả ba đang đi bộ ra trạm xe buýt.

- Có - Krystal cũng lục túi - Đáp xe tới bệnh viện chỉ cần một “tờ” thôi phải không?

Ba đứa vẫn đủ thời gian chia nhau điếu thuốc trước khi chiếc xe số hai mươi trờ tới. Nikki và Leanne vẫy vẫy tay, như thể nó đang đi tới chỗ nào vui vẻ lắm. Tới phút chót, đột nhiên Krystal phát hoảng, nó những muốn gào lên “đi với tao đi”, nhưng chiếc buýt đã rời trạm và hai đứa kia cũng đã quay đi, vừa đi vừa tám chuyện.

Chiếc ghế xe buýt phủ lớp vải cũ bốc mùi cọ vào người ran rát. Chiếc xe lăn bánh trên con đường dọc khu mua sắm đi bộ rồi rẽ phải vào phố lớn có những cửa hiệu đình đám nhất thị trấn.

Nỗi sợ vẫn đánh nhoi nhói trong bụng Krystal như có một bào thai nghịch ngợm. Nó biết bà cố Nana Cath ngày càng già yếu đi, nhưng vẫn mơ hồ mong bà có thể lột xác trở lại thời kỳ mạnh khỏe ngỡ như kéo dài vô tận; để tóc bà lại đen, lưng bà lại thẳng và trí nhớ của bà sắc sảo lại như miệng lưỡi bà. Con bé chưa khi nào nghĩ bà cố sắp chết, hễ nhớ tới bà là nó nghĩ tới sự dẻo dai không gì tổn thương nổi. Nếu có nghĩ tới chăng nữa, Krystal chỉ coi bộ ngực nhẽo và vô số nếp nhăn dọc ngang trên mặt bà là những vết sẹo đầy vinh quang trong suốt cuộc đấu tranh để tồn tại của bà. Trước giờ chưa có ai gần gũi Krystal chết vì tuổi già cả.

(Những người trong vòng quan hệ với mẹ đều chết trẻ, thậm chí có người chết trước khi gương mặt và cơ thể của họ kịp héo mòn đi vì thời gian. Cái xác mà Krystal tìm thấy trong nhà tắm năm lên sáu là của một người đàn ông trẻ tuổi, trắng ngần và đáng yêu như pho tượng, ít ra là trong ký ức con bé anh ta trông như vậy. Nhưng đôi lúc nó cảm thấy trí nhớ cũng hỗn loạn và không tin vào đó nhiều nữa. Thật khó mà biết phải tin vào điều gì. Khi còn nhỏ, nó thường nghe nhiều điều mà sau này người lớn chối biến. Nó thậm chí dám thề Terri từng nói rằng: “Đây là bố mày”. Nhưng rồi, rất lâu sau, bà lại nói “Đừng có ngớ ngẩn thế, bố mày đã chết đâu, chả ở Bristol, nghe chưa?” Thế là Krystal phải cố gắng nhồi lại vào đầu ý niệm về Banger, tên gã đàn ông họ cho là bố của nó.

Nhưng dù có thế nào thì sau lưng nó vẫn còn có bà cố Nana Cath. Nó từng trốn khỏi nhà bố mẹ nuôi để về với bà, bà lúc nào cũng dang tay chờ nó tại Pagford này, tấm lưới đỡ chắc chắn dù không lấy gì làm êm ái. Khi đó vừa trút xuống đầu Terri lẫn các nhân viên xã hội cơn thịnh nộ với hàng tràng chửi rủa, bà vừa dắt đứa chắt cũng đang gào thét cáu kỉnh hệt như thế về nhà.

Chính Krystal cũng không chắc nó yêu hay ghét căn nhà nhỏ trên phố Hope. Trong nhà xám bẩn và nồng mùi thuốc tẩy, làm người trong đó có cảm giác như bị giam cầm. Nhưng đồng thời nó rất an toàn, hoàn toàn an ổn. Không ai được bước chân qua cửa nếu Nana Cath chưa cho phép. Có mấy miếng xà phòng thơm loại cũ trong cái bình thủy tinh đặt góc cuối nhà tắm.)

Nếu cạnh giường bà cố lúc này có ai khác nữa thì sao nhỉ? Con bé không biết phân nửa họ hàng nhà mình, nó sợ gặp phải người lạ hoắc nào đó cùng chung máu mủ. Mẹ Terri có rất nhiều chị em cùng cha khác mẹ, kết quả những mối tình lăng nhăng chằng chịt của ông bố mà chính bà cũng chưa từng thấy mặt; nhưng Nana Cath vẫn cố kiên trì giữ mối liên lạc với đại gia đình xa cách mà con trai bà đã tạo ra. Lâu lắm rồi, thảng hoặc vài người họ hàng mà Krystal không quen xuất hiện ở nhà bà cố khi con bé có ở đó. Krystal nhớ họ nghiêng mắt nhìn nó ngờ vực và thì thầm gì đó về nó với bà cố; khi đó nó vờ như không nghe và đợi họ biến đi, khi đó bà cố sẽ lại là của mình nó. Nó đặc biệt ghét nghĩ rằng bà cố còn có những đứa cháu khác ngoài nó.

(Chúng nó là ai thế? Năm lên chín, Krystal vừa hỏi vừa ghen tị trỏ tay vào tấm ảnh lồng khung hình hai đứa bé trai mặc đồng phục trường Trung học Paxton đặt trên tủ ly nhà bà cố.

- Hai đứa chắt trai của bà đấy mà. - Bà Nana Cath nói - Đây là Dan, đây là Ricky. Anh họ cháu đấy.

Krystal không muốn đám anh em họ đó, cũng không muốn chúng xuất hiện trên nóc tủ ly nhà bà cố.

- Còn đó là đứa nào? - Nó chỉ tay vào con bé gái tóc vàng xoăn.

- Con gái của thằng Michael nhà bà, nó tên Rhiannon, trong hình là lúc nó năm tuổi đấy. Xinh nhỉ. Nhưng nó lại đi cưới một thằng mọi đen.

Chưa khi nào hình thằng Robbie xuất hiện trên tủ ly nhà bà.

Mày thậm chí không biết thằng cha nó là ai, phải không hả con đĩ? Tao không muốn dính gì tới mày nữa đâu. Tao quá đủ rồi, Terri, mày tự đi mà chăm sóc nó đi.)

Chiếc xe tiếp tục xuyên qua thị trấn, qua đám đông đi mua sắm chiều Chủ Nhật. Khi Krystal còn nhỏ, hầu như cuối tuần nào mẹ cũng dẫn nó lên khu trung tâm Yarvil, ấn nó vào xe đẩy dù nó đã quá tuổi cần ngồi xe từ lâu, đơn giản vì xe đẩy có khối chỗ giấu hàng ăn cắp, ví như nhét dưới chân đứa bé hay bỏ sau túi đặt trong giỏ dưới gầm xe.

Có khi Terri bắt tay Cheryl, người chị mà chị ta chịu nói chuyện, để cùng đi “ăn hàng” trong mấy cửa hiệu. Bà dì này cưới Shane Tully, nhà bà cũng ở khu Fields, cách nhà Terri bốn phố. Hai chị em gấu ó suốt, và cứ mỗi lần thế lại khiến xung quanh phát hoảng với mớ ngôn từ họ tuôn ra. Krystal không biết liệu nó với thằng Tully có phải “tham chiến” không, dù sao từ lâu nó cũng không màng để ý mấy vụ cãi cọ đó và vẫn nói chuyện với Dane mỗi khi hai đứa chạm mặt. Hai đứa từng ngủ với nhau một lần sau khi cưa hết chai rượu táo ở sân chơi năm mười bốn tuổi. Sau đó không đứa nào từng nhắc tới chuyện đó nữa. Krystal không chắc làm tình với anh họ có hợp pháp hay không, nhưng theo vài điều Nikki nói, con bé thấy có lẽ câu trả lời là không.

Xe buýt rẽ lên tuyến đường dẫn tới cổng chính bệnh viện Trung tâm Tây Nam rồi dừng cách chiếc tòa nhà khổng lồ hình hộp xám ốp kính độ hai mươi thước. Trước tòa nhà có vài mảng cỏ cắt tỉa gọn gàng, mấy cây nhỏ và cả rừng biển chỉ dẫn.

Krystal theo chân hai bà cụ cùng xuống xe buýt ở trạm này rồi đứng đó nhìn quanh, tay đút túi. Nó đã quên béng dì Danielle bảo bà nó nằm khoa nào, chỉ nhớ mỗi con số mười hai. Nó ra vẻ thờ ơ bước lại biển báo gần nhất rồi liếc mắt đọc ra vẻ nhân thể giết thời gian. Tấm biển dày đặc những dòng chữ khin khít với những từ phức tạp dài bằng cả cánh tay Krystal và hàng đống mũi tên chỉ trái chỉ phải chỉ chéo. Krystal đọc không thạo lắm, đứng trước cả đống chữ thế này làm nó thấy bị đe dọa và phát khùng. Sau nhiều cú liếc ngấm ngầm về phía mấy mũi tên, cuối cùng nó gút lại là chả có con số nào cả, thế là nó theo chân hai bà cụ tiến tới cánh cửa đôi bằng kính ở mặt tiền tòa nhà chính.

Phòng chờ đông đặc và còn rối hơn cả đám bảng chỉ dẫn. Có một cửa hiệu rộn rịp người ra vào ngăn cách với sảnh chính bằng tấm cửa sổ kéo dài từ trần lên sàn. Có mấy hàng ghế nhựa đầy người đang ngồi nhai bánh kẹp và quán café chật ních chỗ trong góc; giữa phòng có một quầy hình lục giác, mấy phụ nữ ngồi đó vừa kiểm tra trên máy tính vừa trả lời câu hỏi. Krystal tiến tới đó, tay vẫn đút túi.

- Khu mười hai ở đâu? - Krystal hỏi một nhân viên nữ bằng giọng không lấy gì làm thân thiện.

- Tầng ba - chị nhân viên đáp cộc lốc bằng giọng điệu tương tự.

Krystal tự ái không hỏi thêm gì nữa, nó quay người đi lòng vòng cho tới khi nhìn thấy thang máy đặt tận góc xa cuối phòng chờ và len vào một chiếc đang lên.

Con bé mất gần mười lăm phút để tìm khu cần tới. Sao họ không đặt con số kèm mũi tên chỉ dẫn mà lại ghi hàng đống chữ ngu ngốc làm quái gì nhỉ? Lúc đang miết giày thể thao ken két trên hàng lang phủ vải son xanh bạc màu, có người gọi tên nó.

- Ê Krystal?

Bà dì Cheryl dềnh dàng trong cái váy vải jean và áo nịt trắng chật căng, tóc nhuộm màu vàng chuối nhưng chân tóc đen đã lộ ra. Dì ta xăm mình từ đốt tay đến tận bắp tay trên dày mập, mỗi tai đeo hàng đống khuyên to như vòng treo rèm cửa. Tay dì cầm một lon Cô-ca.

- Đâu có buồn tới, hả? - Bà dì đứng dạng cặp giò không mang tất nom như lính gác.

- Ai chớ?

- Thì Terri. Mẹ mày không muốn tới hả?

- Mẹ còn chưa biết. Tui thì mới nghe. Dì Danielle gọi tới báo tui.

Cheryl giật khoen lon, hớp một hớp Cô-ca, cặp mắt nhỏ tí chìm lút trong gương mặt rộng bèn bẹt đầy đốm nám như miếng thịt bò muối của dì ta chòng chọc nhìn Krystal qua lon nước.

- Tao nói Danielle gọi mày khi biết chuyện. Bà nằm ba ngày trong cái nhà đó mà không ai biết cái mẹ gì. Tình trạng bây giờ. Chả mong nước mẹ gì nữa.

Krystal không hỏi Cheryl sao không chịu bước vài bước từ đường Foley tới nhà nó để báo tin cho Terri. Rõ ràng mấy chị em lại cãi cọ gì đó. Không cách gì mà hòa hảo được lâu.

- Bà nằm đâu rồi? - Krystal hỏi.

Cheryl dẫn đường, lê dép loẹt xoẹt trên cầu thang.

- Nè - Dì vừa đi vừa cất tiếng - có con nhà báo gọi tao hỏi về mày.

- Thiệt hả?

- Có cho tao số đây.

Krystal còn muốn hỏi thêm nhưng cả hai đã bước vào một khu cực kỳ yên tĩnh đến độ đột nhiên nó phát rét. Nó không ưa cái mùi này.

Hầu như chẳng thể nào nhận ra bà cố Nana Cath. Một bên mặt của bà dúm dó kinh khủng tới nỗi tưởng như các bắp thịt bị dây quấn kéo. Miệng bà nhệch về một phía, cả một bên mắt cũng xệ xuống. Khắp người bà nối ống, tay cắm kim. Khi nằm, bộ ngực biến dạng của bà nom càng lộ rõ. Tấm đắp người nhấp nhô ở những chỗ kỳ quặc như thể cái đầu biến dạng cắm trên cần cổ khẳng khiu kia ló ra từ cái thùng ton-nô.

Khi Krystal ngồi xuống bên cạnh, bà cố không nhúc nhích. Bà chỉ nhìn nó chằm chằm. Một bên tay khẽ run.

- Bà không nói gì, nhưng có gọi tên mày hai lần, hồi tối qua - Cheryl bảo, u ám nhìn qua vành lon nước.

Ngực Krystal thắt lại. Nó không biết nắm tay bà cố có làm bà đau không. Nó vươn tay ra chỉ còn cách tay bà độ gang tay, nhưng cuối cùng chỉ sờ vào tấm đắp.

- Rhiannon có ghé - dì Cheryl kể - John với Sue cũng ghé. Con Sue đang ráng tìm cách báo với Anne-Marrie.

Tim Krystal nảy lên.

- Đang ở đâu? - nó hỏi bà dì.

- Đâu đó chỗ đường Frenchay. Giờ nó có một đứa con rồi, mày biết chưa?

- Có, có nghe nói - Krystal đáp - nó tên gì?

- Đâu biết - Cheryl lại nốc nước ngọt.

Trong trường có đứa từng bảo nó: Ê Krystal, chị mày úp thúng rồi kìa! Hồi nghe tin đó nó rất vui. Nó sắp lên chức dì rồi, dù chưa bao giờ được thấy mặt đứa nhỏ. Từ trước đến nay nó luôn yêu quý Anne-Marrie, cô chị bị đưa đi trước khi Krystal ra đời. Cô chị sống động trong một chiều kích khác, như kiểu nhân vật cổ tích, cũng xinh đẹp và bí ẩn như người thanh niên chết trong phòng tắm nhà mẹ Terri.

Cặp môi Nana Cath mấp máy.

- Sao ạ? - Krystal hỏi, nó cúi gần xuống, vừa mừng vừa sợ.

- Bà muốn gì không hả bà? - Dì Cheryl nó hỏi to tới nỗi mấy vị khách thăm bệnh khác đang rì rầm trò chuyện phải ngoảnh lại nhìn.

Krystal nghe tiếng rít khò khè trong họng bà cố, nhưng dường như bà đang cố nói rõ một từ nào đó. Cheryl cũng cúi người phía bên kia giường, tay bám vào mấy thanh kim loại phía đầu giường.

- Ờmm... - Bà lắp bắp.

- Sao ạ? - Krystal và dì Cheryl đồng thanh hỏi.

Cặp mắt bà chuyển động vài milimét, cặp đồng tử kéo màng ướt át nhìn gương mặt trẻ trung nhẵn mịn của Krystal, miệng nó hé mở khi chồm người tới cạnh bà cố, vừa bối rối vừa mừng, vừa sợ.

- Chè.. è... - bà rặn giọng lào khào.

- Vẫn chả hiểu bà nói c