← Quay lại trang sách

Phần bốn Tâm thần bất bình thường

5.11 Theo lẽ thường, những người không đủ năng lực trí tuệ vĩnh viễn bị coi là không đủ năng lực pháp lý để tham gia bầu cử, nhưng người tâm thần bất bình thường vẫn được quyền tham gia bỏ phiếu vào những lúc họ tỉnh táo.

Charles Arnold-Baker

Điều lệ Ban quản trị hội đồng địa phương

In lần thứ bảy.

❀❀❀

I

Samantha Mollison đã mua đủ ba đĩa DVD của nhóm nhạc Libby thần tượng. Cô giấu nó trong ngăn đựng vớ và quần áo nịt, cạnh mớ bao cao su cho nữ. Nếu Miles có nhìn thấy thì cô sẽ bảo đó là quà cho Libby, cô tính sẵn thế. Việc làm ăn chưa lúc nào ế ẩm thế này nên thỉnh thoảng lúc ở cửa hàng cô vẫn lên mạng tìm hình của Jake. Trong một lần tìm hình Jake-mặc-vest-không-sơ mi hay Jake-quần-jean-áo-bó kiểu thế, cô phát hiện ra hai tuần nữa ban nhạc sẽ đến trình diễn tại Wembley.

Cô có người bạn hồi đại học sống ở West Ealing. Cô có thể tới đó cùng Libby, viện cớ thưởng cho con bé, cũng là dịp để mẹ con gần gũi nhau. Với tâm trạng háo hức lâu lắm rồi mới có, Samantha xoay xở mua được hai chiếc vé cực đắt cho buổi diễn. Tối đó lúc về nhà, niềm vui thầm kín làm cô trông tươi tỉnh như mới đi hẹn hò về.

Miles đã về nhà, anh mặc nguyên bộ đồ đi làm ở trong bếp, tay cầm điện thoại. Anh nhìn chòng chọc vào cô vợ vừa bước vào, nét mặt lạ lùng khó đoán.

- Sao thế? - Samantha hỏi, thoáng dè chừng.

- Anh không gọi được bố - Miles đáp - điện thoại bố cứ bận suốt. Lại có thêm bài đăng mới.

Nhìn cô vợ ngẩn ra, Miles sốt ruột giải thích - Hồn ma của Barry Fairbrother! Thêm một bài đăng nữa! Trên website hội đồng khu ấy!

- À, ra thế - Samantha cởi khăn quàng.

- Ừ, anh vừa gặp Betty Rossiter ngoài đường, chị ta tuôn ra một tràng. Anh xem bảng tin rồi nhưng không thấy, chắc là mẹ xóa rồi. Mong là đúng thế, mụ Tai Cụp mà viện đến luật sư là mẹ có nguy cơ “hứng đạn” cao lắm.

- Tin về Parminder Jawanda phải không? - Samantha cố ý tỏ giọng thản nhiên. Cô không hề hỏi bài đăng có nội dung gì, trước nhất vì cô quyết không tự biến mình thành con quạ già quàng quạc thóc mách như Shirley và Maureen; thứ nữa là chắc bài đó chỉ loanh quanh chuyện Parminder làm bà Cath Weedon chết đó thôi. Im một lát ngắn, cô hỏi, giọng có phần thích thú - Anh nói mẹ có nguy cơ “hứng đạn” hả?

- Ừ, mẹ là quản trị website mà, cho nên sẽ phải chịu trách nhiệm nếu không gỡ bỏ những thông tin phỉ báng hoặc là có ngầm ý phỉ báng. Anh không chắc là bố mẹ ý thức được rõ vụ này nghiêm trọng cỡ nào đâu.

- Thì anh có thể đứng ra biện hộ cho mẹ, mẹ anh thích thế mà.

Miles không để ý, anh ta còn mải bấm nút redial, mặt mày cau có, nhưng di động của ông bố vẫn đang bận.

- Càng lúc càng lớn chuyện rồi đây - Miles nói.

- Hồi Simon Price bị công kích anh vui lắm mà, sao lần này khác thế?

- Vì đây là cả một chiến dịch chống lại những người trong hội đồng hay đang ứng cử hội đồng…

Samantha quay mặt đi giấu nụ cười thầm. Rõ ràng ông con đâu phải đang lo cho bà mẹ.

- Nhưng sao lại có người viết về cả anh làm gì? - Cô ra vẻ ngây ngô - Anh có tội lỗi bí mật gì đâu.

Anh mà có thì hấp dẫn hơn bây giờ nhiều.

- Thế còn lá thư thì sao?

- Thư nào?

- Trời đất ơi, bố mẹ có kể vụ đó rồi mà, cái thư nặc danh viết về anh đó! Nói anh không xứng thay vị trí của Barry Fairbrother.

Samantha mở tủ lạnh nhìn mấy món đồ lạnh chẳng lấy gì làm hấp dẫn bên trong, cô biết chắc mở cửa tủ thế này Miles không thể thấy biểu cảm trên mặt cô nữa.

- Anh cũng nghĩ chẳng ai moi ra được điều tiếng gì về anh mà, phải không? - cô hỏi.

- Ừ, nhưng anh là luật sư mà. Chắc cũng có người thù oán. Anh nghĩ cái thứ thư nặc danh này không... ý anh là giờ thì mấy tin đó toàn nhắm tới phe kia, nhưng có khi sẽ có trả đũa... Anh không thích mọi sự diễn ra theo kiểu này.

- Thì chính trị mà Miles - Samantha lộ hẳn vẻ khoái trá - Toàn trò bẩn mà.

Miles bỏ ra khỏi phòng nhưng cô không bận tâm, cô còn mải nghĩ tới chỗ xương gò má đẹp như tạc, cặp mày xếch và những múi cơ bụng săn chắc hoàn hảo của chàng ca sĩ. Giờ cô có thể ngâm nga hát theo được khôi khối bài của nhóm. Cô sẽ mua một chiếc áo thun in hình nhóm mà mặc, thêm cái nữa cho Libby. Jake sẽ nhún nhảy cách cô chỉ vài mét. Nhiều năm nay chưa khi nào cô vui vẻ thế.

Trong lúc đó Howard đang đi tới đi lui trong tiệm thực phẩm đã đóng cửa, chiếc di động dán chặt vào tai. Những tấm rèm đều đã buông xuống, đèn đã bật, ở phía bên kia cánh cổng hình vòm, Shirley và Maureen đang bận tháo hộp mấy món đồ sứ và thủy tinh cho quán café sắp mở và thấp giọng bàn tán đầy phấn khích trong khi vẫn lóng tai nghe mấy lời ừ hử cụt ngủn của Howard.

- Phải... ừm, ừm... ừ.

- Gào lên với tôi chứ - Shirley thì thào - vừa gào thét vừa chửi tục nhé. - Tháo ngay cái thứ chó chết đó xuống - cô ta nói thế đây, tôi thì bảo, tôi đang làm đây, bác sĩ Jawanda, nên cô đừng có nói tục với tôi thì tôi cảm ơn lắm.

- Nếu cô ta mà văng vào mặt tôi thế thì tôi còn để thêm vài tiếng nữa cho biết - Maureen đáp.

Shirley cười. Lúc biết chuyện xảy ra, bà bỏ đi pha tách trà, để mặc mẩu tin nặc danh về Parminder trên website thêm bốn mươi lăm phút nữa rồi mới xóa. Bà và Maureen đã tán suốt về vụ này tới nỗi câu chuyện bã xơ nhạt hoét, tất nhiên là còn khối thứ để mà bươi móc, nhưng cái háo hức tức thời đã bơn bớt. Thế là Shirley và Maureen chuyển sang ngồi đoán xem Parminder phản ứng thế nào khi chuyện riêng bị lộ.

- Dù sao vụ này chứng tỏ không phải cô ta đăng bài về Simon Price - Maureen bình luận.

- Phải, rõ ràng là thế rồi - Shirley đáp, tay lau mấy món đồ sứ xinh xắn màu xanh dương và trắng bà tự chọn, dù Maureen thích màu hồng hơn. Đôi khi, dù không tham gia vào việc kinh doanh, Shirley vẫn muốn tỏ cho Maureen thấy bà có tầm ảnh hưởng lớn với tư cách là vợ của Howard.

- Ừ - Howard nói qua điện thoại - nhưng chắc tốt hơn là nên…? ừm... ừm...

- Thế chị nghĩ là ai làm? - Maureen hỏi.

- Thực sự tôi cũng không rõ nữa - Shirley đáp vẻ cao kỳ, như thể mấy chuyện đồn đoán hay nghi ngờ người này người nọ không xứng tầm để bà nói đến.

- Chắc là người nào đó biết rành nhà Price với Jawanda - Maureen vẫn đoán.

- Hẳn thế - Shirley nhắc lại.

Cuối cùng Howard cũng ngắt máy.

- Aubrey đồng ý rồi - lão vừa nói vừa lạch bạch đi sang tiệm café, tay nắm chặt số báo hôm nay của tờ Yarvil và District Gazette. - Bài đó “yếu” lắm. Chẳng ăn thua gì đâu.

Phải mất một lúc hai bà mới nhớ lại rằng mọi người cứ nghĩ bài báo Barry viết trước khi chết đăng trên báo địa phương sẽ rất hấp dẫn. Hóa ra hồn ma của ông ta còn hấp dẫn hơn nhiều.

- À, vâng, lúc đọc bài đó em cũng thấy luận điểm nghèo nàn lắm - Shirley vội bắt lời.

- Bài phỏng vấn Krystal Weedon mới đúng buồn cười - Maureen cười khe khé - nói con bé đó thích nghệ thuật cơ đấy. Tui nghĩ chắc họ nói tới chuyện vẽ bậy lên mặt bàn.

Howard phá ra cười. Shirley nhặt ống EpiPen cho Andrew Price để trên quầy để lấy cớ quay đi, sáng đó Ruth ghé qua gửi nó ở tiệm thực phẩm cho con trai. Shirley đã tra thông tin về EpiPen trên trang y khoa ưa thích của bà, nên giờ hoàn toàn tự tin giải thích cơ chế tác động của adrenalin. Nhưng không ai hỏi đến, thế là bà bỏ cái ống trắng nhỏ đó vào tủ và sập cửa thật to để chặn mấy câu đùa của Maureen.

Chiếc điện thoại di động trong bàn tay khổng lồ của Howard lại réo lên.

- Alo? À Miles hả? Ờ... ờ, nhà biết vụ đó rồi... sáng nay mẹ con đọc thấy - lão cười ha hả - Ờ, mẹ con xóa rồi... Không biết nữa... chắc đăng ngày hôm qua... ờ, chắc rồi... bao lâu nay quá rành Tai-Cụp rồi mà…

Vẻ hài hước của Howard tắt dần khi nghe Miles nói. Lát sau lão nói - ừ, bố hiểu rồi. Ừ. Không, bố chưa xét tới góc độ... chắc là phải kiếm người coi lại phần bảo mật...

Tiếng xe chạy qua quảng trường tối đen bên ngoài chẳng làm ba người trong tiệm thực phẩm để ý, nhưng người lái xe nhìn thấy cái bóng khổng lồ của Howard Mollison đang di động sau tấm rèm màu kem. Gavin nhấn ga, háo hức được gặp Mary. Giọng cô qua điện thoại nghe hoàn toàn tuyệt vọng.

- Ai lại làm thế chứ? Ai mới được chứ? Ai mà ghét tôi đến thế?

- Không ai ghét chị đâu - gã an ủi - Ai lại thù ghét chị được cơ chứ. Chị cứ ở nguyên đấy... tôi đang qua.

Gã đậu xe bên ngoài nhà, sập cửa rồi bước vội vào. Bà chủ nhà ra mở trước khi gã kịp gõ cửa. Mắt Mary lại sưng mọng nước mắt, cái áo ngủ bằng len dài chấm đất mặc nhà càng làm cô trông bé nhỏ hơn. Xét ra nó hoàn toàn không quyến rũ như chiếc kimono tím của Kay, nhưng cái vẻ thoải mái xuề xòa của nó gợi lên cảm giác thân tình khác hẳn.

Bốn đứa con của Mary đều đang ngồi trong phòng khách. Cô giơ tay ra ý bảo gã vào thẳng bếp.

- Các cháu biết chuyện chưa? - gã hỏi.

- Fergus biết. Ở trường có người bảo với nó. Tôi có dặn nó đừng kể với mấy em. Thật sự đấy, Gavin... tôi sắp hết chịu nổi rồi. Thù oán gì mà...

- Có đúng đâu - Gã đáp, rồi không nhịn được hỏi lại - phải không?

- Tất nhiên là thế rồi - cô tức giận kêu lên - ý tôi là... tôi không biết… tôi đâu có quen thân với chị ấy. Nhưng để ông ấy nói ra mấy lời như vậy... đặt những lời như vậy vào miệng ông ấy… lẽ nào mấy người đó không thèm quan tâm đến cảm giác của tôi sao?

Nước mắt bà vợ góa lại rơi lã chã. Gã nghĩ cô đang mặc áo ngủ thế này thì không tiện ôm, may mà gã đã kìm mình vì ngay sau đó cậu cả Fergus mười tám tuổi bước vào bếp.

- Chào chú Gav.

Cậu thanh niên trông mệt mỏi và già hơn tuổi. Gavin nhìn cậu vòng tay ôm mẹ, Mary dựa đầu vào vai con, lấy cánh tay áo lồng phồng quệt mắt như đứa bé.

- Chắc không phải là cùng một người đâu - Fergus nói luôn không rào đón - Con đọc lại rồi.Văn phong hai bài này khác nhau.

Cậu mở bản lưu trên điện thoại rồi đọc to:

Ủy viên hội đồng khu, bác sĩ Parminder Jawanda luôn giả vờ rất nhiệt tâm giúp đỡ người nghèo và những người cần tương trợ trong vùng, nhưng thật ra có động cơ bí mật. Cho tới khi tôi chết...

- Thôi đừng Fergus - Mary nói, sụp xuống bên bàn bếp - mẹ không chịu nổi. Thật sự đấy. Hôm nay trên báo còn đăng bài của cha con nữa.

Cô vùi mặt vào tay nấc lặng lẽ. Gavin để ý thấy tờ Yarvil và District Gazette trên bàn. Gã không đọc báo này. Không hỏi ý trước cũng không chờ được nhờ, gã đứng dậy bước ra phía tủ làm cho Mary một ly.

- Cảm ơn Gav - cô nói giọng đặc nghẹt khi gã ấn cái cốc thủy tinh vào tay.

- Hay là Howard Mollison nhỉ - Gavin đoán phỏng, cũng ngồi xuống cạnh cô - Xét từ những gì Barry từng kể về ông ta thì chắc là phải.

- Tôi nghĩ không phải đâu - Mary chấm chấm mắt - Kiểu này thô thiển quá. Ông ta chưa từng làm gì kiểu thế khi Barry còn số... - bà nấc cụt -...ống. - Bà quay sang, hơi gắt cậu con trai - Vứt tờ báo đó đi Fergus.

Cậu con trông có vẻ bối rối và tổn thương.

- Nhưng trong đó có bài của bố.

- Vứt nó đi - Mary lặp lại, giọng chớm kích động - Nếu muốn mẹ sẽ đọc trên máy tính, tác phẩm cuối cùng ông bố con làm đó, ngay trong dịp kỷ niệm ngày cưới nữa chứ!

Fergus cầm lấy tờ báo trên bàn, đứng lặng nhìn bà mẹ đang vùi mặt vào tay một lát. Cậu liếc nhìn Gavin rồi cầm theo tờ báo bỏ ra ngoài.

Gavin ngồi thêm một lúc để chắc là Fergus không trở lại rồi xoa xoa cánh tay Mary an ủi. Hai người ngồi yên lặng một lúc, Gavin thấy dễ chịu hơn nhiều khi tờ báo không còn trên mặt bàn.

II

Parminder không có ca trực vào sáng hôm sau nhưng phải lên Yarvil họp. Lúc mấy đứa con đã đi học hết, bà cẩn thận đảo quanh một vòng trong nhà xem đã mang đủ những thứ cần thiết chưa. Đột nhiên điện thoại reng làm bà giật bắn người đánh rơi cả túi.

- Alố? - Giọng bà the thé, nghe gần như đang hoảng sợ. Tessa ở đầu dây kia giật mình.

- Minda, em đây, chị có sao không?

- À, không sao, điện thoại làm giật mình thôi - Parminder nói, nhìn sàn bếp vương vãi những chìa khóa với giấy tờ, xu lẻ và tampon. - Có chuyện gì?

- Không có gì - Tessa đáp - Em gọi nói chuyện cho vui thôi. Với hỏi thăm chị ấy mà.

Chuyện về bài viết nặc danh lơ lửng trên câu chuyện giữa hai người như con quái vật đùa dai. Parminder hầu như chẳng để Tessa hỏi han gì về chuyện đó trong cuộc gọi ngày hôm qua. Lúc đó bà quát vào máy Dối trá, bẩn thỉu, đừng có bảo tôi là Howard Mollison không làm chuyện này nữa đi.

Tessa chẳng dám nói thêm gì về chuyện đấy nữa.

- Giờ tôi không nói chuyện được - Parminder bảo - tôi phải đi họp ở Yarvil. Đánh giá về trường hợp một bé trai đang trong danh sách nguy cơ cao.

- Thế à, xin lỗi em không biết. Vậy nói sau nhé?

- Ừ - Parminder đáp - Được đấy. Tạm biệt nhé.

Bà gom lại mớ đồ đạc vương vãi rồi vội ra khỏi nhà nhưng lại phải chạy ngược từ cổng vườn vào để xem đã khóa cửa kỹ chưa.

Trên đường đi, cứ lúc lúc bà lại nhãng đi không nhớ mình vừa lái xe qua đoạn vừa rồi thế nào và nghiêm khắc buộc mình phải tập trung. Nhưng những lời lẽ hiểm độc trong bài đăng nặc danh đó cứ trở đi trở lại trong đầu. Bà đã thuộc nó nằm lòng.

Ủy viên hội đồng khu, bác sĩ Parminder Jawanda luôn ra vẻ rất nhiệt tâm giúp đỡ người nghèo và những người cần tương trợ trong vùng, nhưng thật ra có động cơ bí mật. Cho tới tận khi tôi chết, bà ta vẫn luôn yêu tôi, và chẳng giấu những lúc cứ nhìn tôi đăm đắm, và mỗi lần họp hội đồng khu, tôi nói gì bà ta cũng ủng hộ. Giờ tôi đã chết, bà ta chỉ là một ủy viên hội đồng vô dụng, vì bộ não của bà ta đã mất đi rồi.

Sáng hôm qua, bà đọc bài đăng đó lần đầu tiên khi mở website hội đồng xem lại biên bản cuộc họp vừa rồi. Cú sốc đánh mạnh cả vào thể xác: hơi thở bà vụt gấp gáp và nông, hệt như thời nhỏ lúc bà phải cố nâng mình vượt lên cao hơn nỗi đau để thoát khỏi thực tại khổ sở.

Giờ thì ai cũng đã biết. Không còn chỗ nào để náu mình nữa.

Bà thậm chí còn nảy ra những ý tưởng kỳ quặc nhất. Tỉ như bà nghĩ không biết bà nội sẽ nói gì khi biết Parminder bị cáo buộc trên một diễn đàn công cộng rằng bà yêu chồng của một phụ nữ khác, mà đó lại là một gora (đàn ông da trắng). Bà như thấy cảnh bebe lấy chéo sari che mặt, vừa lắc đầu vừa gập người tới lui như bà vẫn làm thế mỗi khi nhà gặp cơn sóng gió.

- Chắc cũng có những ông chồng muốn biết chuyện này có thật không đấy - Tối qua Vikram nói với kiểu cười mỉa mai khang khác ngày thường.

- Tất nhiên là không đúng - bà run rẩy đưa tay lên che miệng - sao anh có thể hỏi câu như thế? Tất nhiên là không đúng! Anh biết ông ấy mà! Đó là bạn của em, chỉ là bạn thôi!

Bà đã đi qua khỏi cả trung tâm cai nghiện Bellchapel. Sao bà chạy lố xa đến thế mà không nhận ra nhỉ? Giờ bà thành kiểu tài xế ẩu mất rồi.

Bà nhớ đến buổi tối cùng Vikram đến nhà hàng, cách nay cũng gần hai mươi năm rồi, tối đó hai người đồng ý kết hôn với nhau. Bà đã kể cho ông nghe gia đình đã làm ầm lên thế nào khi bà đi bộ về nhà cùng Stephen Hoyle, ông ấy khi đó cũng đồng tình là vụ đó chẳng có gì mà ầm ĩ. Khi đó ông ấy hiểu. Nhưng giờ thì ông không hiểu rằng giờ chính Howard Mollison đang buộc tội bà thay vì đám họ hàng thủ cựu nhà bà khi xưa. Rõ ràng ông ấy không hề thấy bọn gora đó nông cạn, giả dối và hiểm độc nhường nào...

Bà lại chạy lố khúc ngoặt. Phải tập trung, tập trung, tập trung.

- Tôi có bị trễ không? - Bà vừa bước vội qua bãi gửi xe tới chỗ Kay Bawden vừa hỏi với. Bà từng gặp cô nhân viên xã hội này một lần, lúc cô này đến khám để gia hạn đơn thuốc mới.

- Không đâu - Kay đáp - tôi định dẫn chị đi quanh văn phòng một chút, bố trí chỗ này khá là ngoắt ngoéo...

Trung tâm dịch vụ xã hội Yarvil đặt tại tòa nhà văn phòng xấu xí xây từ thập niên 70. Lúc cùng đi lên trong thang máy, Parminder tự hỏi liệu Kay có biết về bài đăng trên website hội đồng hay vụ họ hàng bà Catherine Weedon buộc tội bà hay không. Lát nữa khi cửa thang máy mở ra, có khi nào cả hàng người mặc vest đã chờ sẵn đó để lên án, kết tội bà. Nếu như vụ đánh giá về lợi ích của Robbie Weedon này chỉ là thủ đoạn dẫn bà tới thẳng phiên tòa xử mình thì sao…

Kay dẫn bà đi dọc hành lang tồi tàn tẻ ngắt dẫn tới phòng họp. Ba người phụ nữ khác đã ngồi đợi sẵn ở đó, họ mỉm cười chào Parminder.

- Đây là chị Nina tư vấn cho mẹ Robbie ở trung tâm Bellchapel - Kay nói, ngồi xuống xoay lưng về khung cửa sổ treo mành. - Còn đây là cấp trên của tôi, chị Gillian, đây là chị Louise Harper người phụ trách nhà trẻ Anchor Road. Đây là bác sĩ Parminder Jawanda, bác sĩ của Robbie.

Parminder nhận cốc café. Bốn người phụ nữ bắt đầu thảo luận với nhau, không hỏi gì đến bà.

Ủy viên hội đồng khu, bác sĩ Parminder Jawanda luôn ra vẻ rất nhiệt tâm giúp đỡ người nghèo và những người cần tương trợ trong vùng...

Giả vờ rất nhiệt tâm. Lão Howard Mollison khốn kiếp. Từ trước đến nay lão luôn nghĩ bà giả nhân giả nghĩa, Barry từng kể thế.

“Ông ta nghĩ tôi sinh ra ở khu Fields nên muốn để dân Yarvil tràn vào Pagford ở là phải thôi. Nhưng cô thì thuộc tầng lớp trí thức có chuyên môn cao nên ông ta nghĩ cô chẳng được lợi lộc gì khi đứng về phe khu Fields. Ông ấy nghĩ cô đạo đức giả hay bới việc làm vui thôi.”

- … hiểu vì sao gia đình lại đăng ký khám bác sĩ ở Pagford? - một trong ba cô nhân viên xã hội kia hỏi, Parminder đã quên bẵng tên cô.

- Nhiều gia đình tại khu Fields đăng ký khám chỗ chúng tôi - Parminder lập tức trả lời - nhưng có phải nhà Weedon khi trước có rắc rối với chỗ khám cũ…?

- Đúng thế, phòng khám ở Cantermill gạt tên họ ra - Kay đáp, chồng hồ sơ trước mặt cô dày hơn cả - Terri hành hung một y tá ở đó. Vậy là nhà đó chuyển sang đăng ký khám chỗ chị, đã được bao lâu rồi?

- Gần năm năm - Parminder đáp, bà đã chuẩn bị sẵn mọi thông tin dữ liệu phòng khám.

(Hồi đám tang của Barry, bà thấy Howard quỳ cạnh nhà Fawley, lão đan đôi tay to tướng trước ngực vờ cầu nguyện. Parminder biết dân Công giáo phải tin vào lời răn. Hãy yêu hàng xóm của mình như yêu chính mình... Howard mà thành thực hơn thì lão đã quay sang bên mà cầu nguyện cho Aubrey rồi…)

Cho tới tận khi tôi chết, bà ta vẫn luôn yêu tôi, và chẳng giấu những lúc cứ nhìn tôi đăm đắm...

Lúc trước bà thật sự không giấu nổi sao?

-... gặp cậu bé lần gần đây nhất là khi nào, chị Parminder? - Kay hỏi.

- Lúc cô chị đưa nó đến chích kháng sinh vì bị nhiễm trùng tai - Parminder đáp - khoảng tám tuần trước đây.

- Lúc đó tình trạng thể chất của cậu bé thế nào? - một nhân viên xã hội khác hỏi.

- Cậu bé không bị chậm phát triển về thể chất đâu - Parminder đáp, rút ta một xấp tài liệu photo mỏng từ trong túi - Tôi khám cho cháu rất kỹ vì, đấy, tôi cũng có biết tình hình cháu trước nay thế nào. Không thấy có chấy rận. Cân nặng tốt, dù tôi nghĩ chế độ ăn của cháu không lấy gì làm lý tưởng. Phần mông đít hơi bị hăm lở, nhưng cô chị nói thỉnh thoảng cháu vẫn còn bị tè dầm.

- Nhà đó cứ đóng tã lại cho thằng bé mà - Kay nhận xét.

- Nhưng chị nhận thấy cháu không có vấn đề gì đáng lo về mặt sức khỏe chứ? - người hỏi Parminder câu đầu tiên khi nãy lại lên tiếng.

- Không có dấu hiệu bị ngược đãi - Parminder đáp - Tôi nhớ là có cởi áo lót của cháu ra xem kỹ, không có vết thâm tím hay thương tích gì.

- Nhà đó không có ai là đàn ông mà - Kay nói chen.

- Còn vụ nhiễm trùng tai thì sao? - bà quản lý của Kay nhắc.

- Đó là một ca nhiễm khuẩn khá bình thường do virus thôi. Không có gì lạ cả. Trẻ tuổi cháu vẫn thường bị.

- Vậy nói chung là...

- Tôi từng thấy nhiều ca nặng hơn cháu nhiều - Parminder kết luận.

- Chị nói là cô chị đưa cháu đi chứ không phải mẹ sao? Chị có đồng thời là bác sĩ của Terri không?

- Tôi nhớ là năm năm nay không thấy Terri đến phòng khám - Parminder đáp, bà quản lý quay sang hỏi thêm Nina.

- Việc điều trị bằng methadone của chị ta như thế nào rồi?

Parminder lại chìm trong suy nghĩ riêng, “Hồn ma” đó chắc là Shirley hay Maureen chứ không phải Howard, nhiều khả năng là mấy người đó theo dõi mình khi ở cạnh Barry, mấy cái đầu già nua bẩn thỉu đó chắc mong vớ thấy cái gì đó để còn dựng chuyện...

- … tham gia chương trình lâu nhất, cho đến nay - Nina đang báo cáo - chị ta thường nhắc về vụ đánh giá này. Tôi có cảm giác chị ta biết đây là cơ hội cuối, sau này sẽ không còn cơ hội nào khác nữa. Chị ta không muốn mất Robbie. Chị ta từng nói thế vài lần. Phải nói là chị đã điểm đúng huyệt, Kay ạ. Chị ta thực sự tỏ ra có chút trách nhiệm rồi, từ khi biết chị ta tới giờ lần đầu tiên tôi mới thấy chị ta được như vậy.

- Cảm ơn chị, nhưng tôi không dám mừng quá sớm đâu. Tình trạng ca này còn bấp bênh lắm - Nói vậy chứ Kay không kìm được nụ cười hài lòng - Thế bên nhà trẻ thì như thế nào hở chị Louise?

- À, cậu bé đã đi nhà trẻ lại - người nhân viên xã hội thứ tư lên tiếng - Ba tuần rồi đi học đầy đủ, đúng là thay đổi lớn. Cô chị chừng mười mấy tuổi đưa cháu đến. Quần áo của cháu đã chật, thường lấm bẩn, nhưng cháu có nói ở nhà được tắm với ăn.

- Còn hành vi thì sao?

- Cháu hơi chậm so với các bạn cùng tuổi. Ngôn ngữ cử chỉ rất nghèo nàn. Cháu không thích đàn ông tới nhà trẻ. Lúc mấy ông bố đến nhà trẻ là cháu cứ bám lấy các cô giữ trẻ chứ không lại gần, còn tỏ ra căng thẳng nữa. Với lại một đôi lần - chị cúi xuống lật một trang ghi chép - rõ ràng cháu bắt chước hành vi tình dục trên người hay bên cạnh các bé gái.

- Dù ta có quyết định tiếp theo làm thế nào, vẫn chưa thể đặt vấn đề đưa cháu bé ra khỏi danh sách nguy cơ cao được - Kay nói, cả bàn lầm rầm ra dấu đồng ý.

- Có vẻ mọi điều đều phụ thuộc vào chuyện Terri theo đúng chương trình của cô - bà quản lý nói với Nina - và bỏ nghề cũ.

- Tất nhiên, chuyện đó là cốt lõi nhất - Kay đồng ý - Nhưng ngay cả khi không dùng heroin, tôi vẫn lo là chị ta không chăm sóc Robbie được bao nhiêu với vai trò người mẹ. Xem ra chính cô chị Krystal mới là người chăm sóc thằng bé, năm nay em ấy mười sáu tuổi và tự em ấy cũng có vô khối vấn đề riêng rồi...

(Parminder nhớ lại những câu đã nói với Sukhvinder vài hôm trước đây.

Krystal Weedon! Cái con nhỏ ngu ngốc đó. Mày cùng đội với con nhỏ đó riết rồi muốn thành cái hạng như thế luôn hả?

Ngày xưa Barry quý Krystal. Ông nhìn thấy nơi con bé những phẩm chất người khác không thấy.

Có một lần, lâu lắm rồi, Parminder kể cho Barry nghe chuyện về Bhan Kanhaiya, người anh hùng của người Sikh đã giúp đỡ cho những người bị thương trong chiến tranh, bất phân địch ta. Khi có người hỏi ông tại sao lại hành xử như vậy, Bhan Kanhaiya đáp ánh sáng của Thượng Đế chiếu rọi tới mọi linh hồn, vì thế ông không thể nào phân biệt đối xử được.

Ánh sáng của Thượng Đế chiếu rọi tới mọi linh hồn.

Vậy mà bà gọi Krystal Weedon là con bé ngu ngốc và ngầm ý bảo nó thấp kém.

Barry không khi nào nói thế.

Thật đáng xấu hổ.)

-... bà cố của nhà đó giúp chăm sóc cậu nhỏ khi cần kíp, nhưng...

- Bà ấy đã qua đời - Parminder vội vàng tranh lời. - Bị khí thũng và đột quỵ.

- Phải - Kay vẫn đang đọc mớ ghi chép - Quay lại với Terri nào. Ngày xưa chị ta cũng lớn lên ở trung tâm xã hội. Chị ta có từng tham gia lớp học làm cha mẹ nào chưa?

- Chúng tôi có mời nhưng chị ta chưa khi nào đủ ổn định tỉnh táo để mà dự lớp cả - người phụ nữ từ nhà trẻ đáp.

- Nếu chị ta chịu nhận lời và thực sự đến lớp thì sẽ là bước tiến cực lớn đấy - Kay nói.

- Nếu họ buộc ta phải đóng cửa - Nina, người làm việc ở Bellchapel thở dài nói với Parminder - E là chị ta phải đến chỗ chị nhận tiếp methadone đấy.

- Tôi sợ là chị ta không đến đâu - Kay nói trước khi Parminder kịp đáp.

- Cô nói vậy là ý gì? - Parminder nổi giận.

Tất cả những người khác đều quay lại nhìn bà.

- Thì Terri đâu có giỏi đón tuyến xe buýt và nhớ đúng lịch hẹn - Kay giải thích - Còn muốn đến Bellchapel thì chỉ cần đi vài bước chân thôi.

- Ra thế - Parminder đâm ngượng - Phải rồi, xin lỗi. Vâng, chắc là vậy.

(Bà cứ nghĩ Kay ám chỉ Terri không tin bà vì cái chết của Catherine Weedon.

Phải tập trung nghe họ nói gì chứ. Mình bị làm sao thế này?)

- Vậy nhìn chung, - người quản lý nhìn xuống tập ghi chép - Thằng bé không được mẹ quan tâm, và có phần không được chăm sóc đúng mực - bà thở dài, nhưng giọng lại có phần bực mình hơn là buồn - Trước mắt thì cơn khủng hoảng đã qua, chị ta ngừng dùng thuốc, Robbie đi nhà trẻ, lúc cậu bé mà ở đó thì ta có thể trông chừng được, và hiện tạm thời chưa có gì phải lo ngay về sự an toàn của bé. Như Kay nói, ta sẽ giữ cậu bé trong danh sách nguy cơ cao một thời gian nữa… Tất nhiên ta cần phải họp thêm lần nữa sau bốn tuần tới.

Phải bốn mươi phút sau cuộc họp mới kết thúc. Kay đi cùng Parminder xuống bãi giữ xe.

- Chị thật tốt quá, đích thân đến dự cuộc họp, các bác sĩ khác thường chỉ gửi báo cáo tới thôi.

- Sáng nay tôi nghỉ làm mà - Parminder đáp. Bà định giải thích đến họp vẫn hơn là ngồi nhà không có việc gì làm, nhưng hình như Kay lại hiểu bà muốn được ghi nhận công sức bỏ ra nhiều hơn, thế là cô lại nói thêm vài lời có cánh.

Đến chỗ xe Parminder, Kay hỏi - Chị là ủy viên hội đồng khu phải không? Colin có gửi chị các số liệu về trung tâm Bellchapel mà tôi chuyển cho ông ấy không?

- Vâng, có - Parminder đáp - Lúc nào bàn thêm về vụ này thì tốt quá. Tôi đã đề nghị đưa vấn đề này vào chương trình cuộc họp kế tiếp.

Nhưng lúc Kay đưa bà số điện thoại, cảm ơn lần nữa rồi rời đi, tâm trí bà lại quay về chuyện Barry, hồn ma, và nhà Mollison. Lúc lái xe xuyên qua khu Fields trở về, một ý nghĩ mà bấy lâu nay bà cố chôn vùi che giấu cuối cùng cũng thoát ra được qua những lớp phòng thủ đã suy yếu của bà.

Có lẽ mình thực sự yêu Barry.

III

Andrew mất hàng mấy giờ để chọn bộ cánh mặc vào ngày đầu tiên đi làm ở tiệm Ấm Đồng, vắt sẵn trên lưng ghế trong phòng ngủ. Giờ nốt mụn đỏ nhất trên mặt đã biến thành “đỉnh núi lửa” sáng bóng căng nhức trên má phải, Andrew đã phải thử dùng tới món kem nền trang điểm trộm từ bàn phấn của mẹ.

Tối thứ sáu đó, Andrew đang dọn bàn ăn dưới bếp, đầu mải nghĩ tới Gaia và bảy tiếng đồng hồ liên tục được gần sát bên nàng thì ông bố đi làm về. Andrew chưa khi nào thấy bố mình có vẻ bại trận và hoang mang đến thế.

- Mẹ mày đâu?

Ruth vội vã chạy ra từ phòng để thực phẩm.

- Chào anh Si yêu! Anh... có chuyện gì à?

- Công ty đưa tôi vào diện cắt giảm nhân sự rồi.

Ruth kinh hoảng ụp hai tay vào mặt rồi chạy vội đến ôm ghì lấy cổ ông chồng.

- Sao thế? - cô thì thầm.

- Cái bài đăng đó - Simon nói - trên cái website chết toi đó. Jim với Tommy cũng bị lôi vào vụ này. Hoặc là vào nhóm nhân sự bị cắt giảm, hoặc là chịu sa thải. Thương lượng kiểu chết tiệt.

Andrew đứng im như tượng, người từ từ đông cứng lại vì cảm giác tội lỗi.

- Mẹ nó - Simon nói bên vai Ruth.

- Anh sẽ kiếm được việc khác thôi - cô thì thầm.

- Mấy chỗ quanh đây thì đừng hòng - Simon đáp.

Gã mặc nguyên áo khoác ngồi xuống chiếc ghế trong bếp nhìn trừng trừng vô định, có vẻ choáng váng không mở mồm nổi. Ruth lượn lờ xung quanh ông chồng, hết âu yếm an ủi lại sụt sùi khóc lóc hoảng hốt. Andrew khoái trá nhận ra vẻ khoa trương điệu bộ trong cái dáng ngồi nhìn trừng trừng của ông bố. Cảm giác đó làm nó thấy đỡ áy náy đôi chút. Nó tiếp tục im lặng dọn bàn.

Bữa tối diễn ra êm xuôi. Paul sau khi nghe tin trông sợ khiếp vía, như thể ông bố sẽ đổ tội cho nó về mọi chuyện. Trong suốt lúc ăn món đầu tiên, Simon trông vẻ như kẻ tử vì đạo vinh quang vì phải chịu hành hạ thương đau, nhưng chỉ lát sau - Tôi sẽ thuê người đấm nát cái mặt mập của thằng khốn đó - Gã vụt nói khi xúc bánh hấp táo, cả nhà đều biết gã đang ám chỉ Howard Mollison.

- Anh biết không, trên website hội đồng lại có thêm bài đăng đấy - Ruth vội vã nói, hụt hơi. - Không phải chỉ mình anh bị nói đâu Si. Shir... có người ở chỗ làm kể với em thế. Cùng cái tên đó, Hồn ma của Barry Fairbrother, đăng một bài kinh khủng về bác sĩ Jawanda. Nên Howard và Shirley đã mời người kiểm tra website, người đó phát hiện ra có ai đó dùng thông tin đăng nhập của Barry Fairbrother để đăng bài, cho nên để đảm bảo an toàn, họ xóa... gỡ nó khỏi cơ sở dữ liệu hay sao đó…

- Thế có gì trong mớ chuyện của cô giúp tôi lấy lại việc làm không?

Ruth không nói gì nữa suốt một lúc.

Chuyện bà mẹ nói làm Andrew phát sốt. Nó lo người ta sẽ điều tra Hồn ma của Barry Fairbrother và lần theo manh mối là mình.

Mà còn ai lại nghĩ tới chuyện dùng thông tin đăng nhập của Barry Fairbrother ngoài Fats cơ chứ? Nhưng sao Fats lại nhắm vào bác sĩ Jawanda? Hay là thêm một cách để nó hành hạ Sukhvinder? Andrew không thích thế chút nào...

- Mày làm sao đấy? Simon sủa lên.

- Đâu có gì - Andrew lúng búng trong miệng - đúng là sốc quá, công việc của bố...

- À mày sốc cơ đấy, hả? - Simon quát, Paul đánh rơi cả thìa làm kem vấy lên người (lau sạch đi thằng gà ướt!). Đời thực là thế đấy, Mặt Pizza! Khắp nơi toàn bọn khốn cố dìm đầu mà thôi! Cho nên mày! - gã chỉ tay vào cậu con lớn - mày phải moi được chuyện gì thối tha về nhà Mollison, không thì mai đừng có nghĩ tới chuyện về nhà nữa.

- Kìa anh Si...

Simon xô ghế ra, vứt thìa xuống bàn làm nó rơi xuống sàn đánh cách, rồi hùng hổ bỏ ra khỏi phòng sập cửa. Andrew đợi cái phản ứng thường lệ của bà mẹ. Quả nhiên.

- Bố con sốc quá đấy mà - Ruth run run nói nhỏ với các con - Sau bao nhiêu năm cống hiến cho công ty… Bố con không biết sau này làm thế nào chăm sóc mẹ con mình...

Sáu giờ rưỡi sáng hôm sau, chuông đồng hồ vừa réo lên là Andrew đập tắt ngay rồi nhảy bật khỏi giường. Rồi với tâm trạng háo hức như ngày lễ Giáng Sinh, nó rửa mặt thay đồ thật nhanh rồi dành trọn bốn chục phút chăm chút mặt mũi và mái tóc, khẽ chấm chút xíu phấn nền lên mấy điểm mụn thấy rõ nhất.

Lúc nhón chân đi ngang phòng bố mẹ, Andrew chuẩn bị tinh thần là ông bố sẽ chực sẵn đó, nhưng không có ai. Nó nuốt vội bữa sáng rồi lôi chiếc xe đạp đua của Simon trong garage ra phóng như bay xuống Pagford.

Sáng nay trời mù sương, báo hiệu lát nữa sẽ có nắng. Tiệm thực phẩm vẫn còn buông rèm nhưng cánh cửa kính cong mở ra ngay khi cậu đẩy.

- Không phải lối này - Howard kêu to, lạch bạch chạy ra - Cậu vòng ra sau mà vào! Dựng xe đạp chỗ mấy cái thùng rác ấy, đừng có để trước cửa hiệu!

Một lối đi hẹp dẫn vào sân sau cửa tiệm, đó chỉ là mảnh sân bé tí tối tăm bao quanh bởi mấy bức tường cao, thêm vài thùng kim loại kiểu thùng rác công nghiệp và cánh cửa lật với cầu thang dốc đứng dẫn xuống hầm.

- Cậu cứ khóa nó ở chỗ này, miễn đừng vướng đường là được - Howard mặt mày ướt đẫm, mũi mồm tranh nhau vừa thở khò khè vừa dặn. Lúc Andrew đang còn loay hoay với cái khóa xích, Howard quẳng vào mặt nó tấm tạp dề.

- Rồi, bắt đầu từ tầng hầm - lão chỉ cho Andrew cánh cửa lật khi nó đã khóa xong cái xe. - Xuống xem một vòng đi.

Lúc Andrew leo xuống hầm, lão chỉ cúi người nhìn qua cửa. Nhiều năm nay lão không còn tự leo xuống nổi nữa. Tuần nào Maureen cũng phải xiêu vẹo bò lên bò xuống hầm lấy hàng vài ba bận, nhưng giờ hầm còn chất thêm đầy đồ cho quán café mới nên không thể thiếu được một đôi chân trẻ trung hơn.

- Xem xét cho kỹ đi - lão gào với xuống dù không thấy Andrew nữa - Thấy chỗ để bánh gatô với bánh nướng chưa? Mấy túi hạt café to cạnh hộp đựng trà gói đấy? Trong góc có giấy vệ sinh và túi đựng rác, thấy chưa?

- Có - giọng Andrew vang dội từ dưới sâu.

- Gọi là ông Mollison - lão khò khè gắt.

- Vâng... thưa ông Mollison.

Nghe có vẻ châm biếm sao đó. Andrew vội vàng lễ phép hỏi câu khác để lấp liếm.

- Mấy cái tủ lớn này đựng gì vậy ạ?

- Cứ mở ra mà nhìn - Howard sốt ruột đáp - Cậu xuống đó để xem xét cho rõ mà, để còn biết phải cất chỗ nào lấy ở đâu.

Howard lờ mờ nghe tiếng Andrew mở mấy cánh cửa dày nặng, bụng chỉ mong thằng nhỏ này đừng quá ngốc hay phải cầm tay chỉ việc quá nhiều. Hôm nay cơn suyễn của lão đặc biệt nặng, đang không phải mùa mà sao lượng phấn hoa trong không khí dày thế, lại còn bao nhiêu việc phát sinh và mọi sự phấn khích có phần chộn rộn trong ngày khai trương. Sao mà đổ mồ hôi lắm thế, chắc phải gọi cho Shirley mang cho lão cái áo sơ mi mới để thay trước khi mở cửa.

- Xe tải đến rồi kia - Howard gào lên khi nghe tiếng động cơ rồ rồ rẽ vào tiệm - Lên đây! Cậu mang hàng xuống xếp dưới hầm nghe không? Rồi mang mấy lít sữa sang tiệm café cho tôi. Cậu hiểu không?

- Vâng... thưa ông Mollison - Andrew đáp vọng lên từ dưới hầm.

Howard chậm chạp quay lại phòng cho nhân viên phía sau quầy để lấy ống thuốc xịt trong túi áo khoác. Sau nhiều hơi hít sâu, lão đã thấy dễ chịu hơn. Rồi lão lấy tạp dề chùi mặt, ngồi phịch xuống một cái ghế ọp ẹp mà nghỉ.

Sau lần đi khám viêm da, Howard nhiều lần nghĩ tới câu bác sĩ Jawanda nói: cân nặng là nguồn gốc mọi vấn đề về sức khỏe của lão.

Đúng là vớ vẩn. Cứ nhìn thằng nhóc nhà Hubbard mà xem, gầy như cái que mà vẫn hen lên suyễn xuống đó thôi. Theo lão nhớ, cơ thể lão từ hồi trẻ đã đồ sộ thế này rồi. Trong vài tấm ảnh hiếm hoi chụp chung với bố lão (ông này đã bỏ nhà đi lúc con trai bốn, năm tuổi) thì cậu nhóc Howard khi đó mới ở mức mũm mĩm thôi. Sau khi ông bố bỏ đi, mẹ cậu đặt cậu ngồi ngay đầu bàn giữa bà với bà nội, và cứ hễ cậu không lấy thêm đồ ăn là bà lại buồn. Thế rồi cậu từ từ béo phĩnh ra lấp đầy khoảng trống giữa hai người phụ nữ, đến năm mười hai tuổi thì đã nặng bằng ông bố lúc bỏ đi. Howard dần gắn chuyện ăn uống ngon miệng với bản lĩnh đàn ông. Vẻ ngoài cao to cũng là một nét đặc trưng của lão. Hình thể đó được âu yếm bồi đắp bởi hai người phụ nữ yêu quý lão, chỉ có con mụ Tai-Cụp khoái phá thối người khác mới tính chuyện tước đi cái vẻ đặc trưng đó của người ta.

Nhưng thỉnh thoảng, khi yếu mệt vì khó thở hay không đi lại nổi, Howard cũng thấy sợ. Shirley luôn rất giỏi cư xử như thể lão chưa bao giờ gặp hiểm họa gì về sức khỏe, nhưng lão vẫn nhớ những đêm dài trong bệnh viện sau khi phẫu thuật tim nhân tạo, lúc đó lão mất ngủ vì lo trái tim mệt mỏi quá rồi ngừng đập. Cứ nỗi lần nhìn thấy Vikram Jawanda, lão lại nhớ những ngón tay nâu thon dài đó từng thực sự chạm vào trái tim trần trụi còn đang đập của lão; cái vẻ thân thiện quá mức với ông bác sĩ mỗi lần chạm mặt cũng là một cách che giấu nỗi khiếp sợ nguyên sơ và bản năng đó nơi lão. Hồi còn ở bệnh viện sau ca phẫu thuật, người ta cũng có khuyên lão giảm cân, lão chẳng làm gì cũng đã giảm được gần 13kg khi phải ăn mấy món dở tệ trong bệnh viện, thế rồi Shirley ra sức bồi dưỡng cho lão khi xuất viện...

Howard ngồi thêm một lát, tận hưởng cảm giác hít thở dễ dàng sau khi dùng thuốc xịt. Ngày hôm nay rất có ý nghĩa với lão. Ba mươi lăm năm trước, lão giới thiệu đến người dân Pagford những món ăn làm sẵn tinh tế với khí thế rừng rực như tay thám hiểm thế kỷ mười sáu mang về tinh hoa ẩm thực từ nửa kia thế giới; và dân Pagford, sau những e dè ban đầu, chẳng bao lâu đã tò mò lẫn rụt rè sán lại gần những hộp nhựa đựng đồ ăn của lão. Lão rầu rầu nhớ bà mẹ đã quá cố, khi trước bà luôn tự hào về cậu con trai và việc kinh doanh phát đạt của cậu ta. Giá mà giờ bà còn sống để chứng kiến tiệm café khai trương. Howard ì ạch nhấc người đứng dậy, với lấy cái mũ hai vành trên móc rồi cẩn thận chụp lên đầu như đội mũ miện đăng quang.

Các cô phục vụ mới cùng đến lúc tám rưỡi. Lão đã sẵn món bất ngờ chờ hai cô.

- À các cô đây rồi - lão lôi ra hai bộ đồng phục: đầm liền đen và tạp dề trắng viền đăng đen, đúng như lão hình dung. - Hẳn là vừa thôi. Maureen nói biết cỡ của các cô. Bà ấy cũng đang mặc một bộ giống thế này.

Gaia cố nhịn cười khi Maureen từ tiệm café đi qua cười chào hai đứa. Bà ta đang đi đôi sandal Dr Scholl và vớ đen. Chiếc váy đen cách hai đầu gối nhăn nheo độ ngón tay.

- Các cháu vào phòng nhân viên mà thay đồ - bà chỉ tay vào căn phòng Howard vừa ló ra.

Gaia đứng cạnh cửa toilet và đã kịp cởi xong quần jean mới để ý thấy vẻ mặt của Sukhvinder.

- Sao thế, cô nàng mắc cỡ?

Cái biệt hiệu mới mẻ làm Sukhvinder có can đảm nói ra điều cô vẫn giấu bấy nay.

- Mình không mặc cái này được - cô thì thầm.

- Sao thế?- Gaia hỏi - trông bồ O.K mà.

Chiếc đầm liền đen ngắn tay.

- Không được đâu.

- Nhưng vì... Ôi trời ơi - Gaia thốt lên.

Sukhvinder đã vén cao ống tay chiếc áo lạnh dài tay đang mặc. Má trong cánh tay chằng chịt vết sẹo xấu xí ngang dọc, những vết cắt mới còn đỏ tươi chạy suốt dọc từ cổ tay lên cánh tay.

- Cô nàng mắc cỡ - Gaia khẽ hỏi - Chơi trò gì thế hả bạn mình?

Sukhvinder lắc đầu, mắt ầng ậc nước.

Gaia ngẫm nghĩ một lát rồi nói - mình biết rồi, lại đây.

Cô bé kéo tuột cái áo thun dài tay đang mặc khỏi người.

Cánh cửa bị húc mạnh, cái then cài lỗng lẻo bật tung, Andrew ròng ròng mồ hôi khiêng hai thùng giấy vệ sinh nặng trịch dợm bước vào, tiếng hét tức giận của Gaia làm cậu sững lại rồi vội vàng giật lui, đâm luôn vào Maureen.

- Các cô đang thay đồ trong đó mà - bà ta cau có mắng.

- Ông Mollison bảo cháu mang giấy vệ sinh vào phòng nhân viên...

Chết tử chết tiệt! Cô nàng còn mỗi đồ lót trên người. Cậu kịp thấy gần hết.

- Xin lỗi nhé - cậu nói vọng qua cánh cửa đóng kín. Mặt cậu nóng ran vì ngượng.

- Đồ đầu đất - Gaia lầm bầm. Cô bé đưa cái áo cho Sukhvinder. - Mặc vào dưới đồng phục ấy.

- Thế trông kỳ lắm.

- Kệ không sao đâu. Tuần sau mang áo đen đi, thế giống như bồ mặc đầm liền dài tay thôi. Tụi mình sẽ nghĩ ra cớ gì đó để nói với ổng...

- Bạn cháu bị chàm - Gaia nói lúc hai đứa ra khỏi phòng, áo váy chỉnh tề. - Suốt dọc cánh tay, trông hơi ghê.

- À - Howard liếc mắc nhìn tay áo thun trắng của Sukhvinder rồi quay sang Gaia, cô bé trông hoàn mỹ từng tấc một, đúng như lão mong đợi.

- Tuần sau cháu sẽ mang theo áo đen - Sukhvinder cụp mắt lí nhí.

- Được rồi - lão nói, phát vào eo lưng Gaia một cái lúc đưa hai đứa sang tiệm café - cố lên nhé - lão nói to với mọi người. - Sắp rồi đây... nào, mời chị mở cửa đi Maureen.

Bên ngoài vỉa hè đã có vài khách hàng đợi sẵn. Tấm biển bên ngoài tiệm đề:

Quán Ấm Đồng, khai trương hôm nay - Ly café đầu tiên miễn phí!

Mấy tiếng sau đó, Andrew không có lúc nào gần được Gaia. Howard khiến nó chạy lên chạy xuống cầu thang dốc đứng khuân sữa và nước trái cây, lại còn phải lau sàn căn bếp nhỏ phía sau. Nó nghỉ ăn trưa sớm hơn hai cô phục vụ. Lần thứ hai Andrew được thấy Gaia trong ngày là lúc Howard gọi nó ra chỗ quầy, hai cô cậu đi lướt qua cách nhau chưa đến gang tay rồi cô nàng rẽ vào phòng phía sau.

- Chúng ta bị ngập lụt rồi đây, ngài Price - Howard đùa, lão đang rất phấn chấn. - Cậu thay cái tạp dề sạch đi rồi lau dọn mấy cái bàn kia trong lúc Gaia ăn trưa.

Miles và Samantha Mollison đang ngồi cùng hai cô con gái và Shirley ở cái bàn sát cửa sổ.

- Mọi chuyện có vẻ đang trôi chảy thật đấy nhỉ? - Shirley nhìn quanh - Nhưng con gái nhà Jawanda mặc cái gì dưới đồng phục thế kia?

- Băng tay à? - Miles liếc mắt nhìn, cố đoán.

- Hi, Sukhvinder - Lexie gọi, hai cô học với nhau hồi tiểu học.

- Đừng nói to thế cưng - Shirley nhắc nhở cô cháu gái, Samantha lập tức xù lông lên.

Maureen xuất hiện sau quầy trong bộ đầm đen ngắn tay và tạp dề viền đăng ten, Shirley chúi vào ly café cố nhịn cười.

- Ôi trời ơi - bà ta lẩm bẩm, Maureen đang toe toét cười tiến lại bàn.

Tất nhiên rồi, Samantha nghĩ, Maureen mặc thế trông chẳng ra làm sao, nhất là khi đứng cạnh hai cô bé mười sáu tuổi ăn mặc y hệt, nhưng cô quyết không hưởng ứng cho bà mẹ chồng đắc chí. Cô cố tình quay đi chỗ khác, nhìn cậu nhỏ đang lau bàn gần đó. Trông cậu gầy người nhưng vai khá rộng. Dưới lớp áo thun rộng, cô thấy được cơ bắp trên người cậu chuyển động khi làm việc. Tấm lưng nung núc của Miles mà được thon gọn thế thì còn gì bằng - rồi cậu bé quay ra chỗ sáng làm lộ rõ đám mụn trên mặt.

- Không tệ nhỉ? - Maureen quang quác bảo Miles - Suốt ngày nay sẽ kín bàn đây.

- Được rồi các quý nương - Miles bảo cả nhà - mình gọi món gì để tăng lợi nhuận cho ông ngoại nào?

Samantha gọi bừa tô xúp lúc Howard lạch bạch từ hiệu thực phẩm chạy sang; suốt ngày cứ mười phút là lão lại chạy ra chạy vào tiệm café, hết đón khách lại kiểm tra mớ tiền trong ngăn thu ngân.

- Khách vô ào ào - lão bảo Miles rồi chen vào ngồi chung. - Con thấy chỗ này thế nào Sammy? Con chưa từng thấy mấy thứ này, hả? Tranh tường này, rồi đồ sứ nữa?

- Ừm - Samantha đáp - đẹp lắm ạ.

- Bố đang định tổ chức mừng thọ sáu lăm tuổi ngay trong tiệm này luôn - Howard nói, lơ đãng gãi gãi vết ngứa đã bôi kem Parminder kê cho nhưng chưa kịp lành - không đủ chỗ rồi. Thôi chắc cứ phải mượn sảnh nhà thờ.

- Hôm nào hở ông? - Lexie nói lớn - con có được dự không?

- Ngày hai chín, giờ cháu năm nay bao lớn đấy nhỉ, mười sáu à? Tất nhiên là cháu cũng đến chứ - Howard vui vẻ đáp.

- Ngày hai chín à? - Samantha hỏi lại - ồ, nhưng mà...

Shirley liếc con dâu một nhát sắc như dao cạo.

- Bố con dự tính chuyện này cả mấy tháng rồi. Cũng đã nói với các con từ lâu rồi.

- Nhưng đó là đêm có buổi diễn ca nhạc Libby muốn xem - Samantha nói.

- Buổi diễn ở trường ấy à? - Howard hỏi.

- Không ạ - Libby đáp thay - mẹ mua cho cháu vé xem nhóm nhạc cháu thích. Ở London.

- Con cũng cùng đi với cháu - Samantha nói thêm - không thể để con bé đi một mình được.

- Mẹ của Harriet nói cô ấy...

- Mẹ sẽ đích thân đi cùng con, Libby, nếu con đi London.

- Ngày hai mươi chín à? - Miles trừng mắt nhìn vợ - ngay hôm sau buổi bầu cử?

Samantha bật cười chế nhạo, cô đã nhịn cái cười này từ nãy lúc nhìn thấy Maureen.

- Hội đồng khu thôi mà Miles. Đâu phải anh sắp tổ chức họp báo.

- Ờ, nhưng cả nhà sẽ nhớ con đấy Sammy - Howard bảo, chống tay vào lưng ghế nhấc mình dậy - Tiếp thôi… thôi được rồi đấy Andrew… xuống hầm xem có cần gì không đi.

Andrew phải đứng chờ một lát bên quầy vì hàng người liên tục ra vào nhà vệ sinh chắn lối. Maureen đang trao cho Sukhvinder mấy đĩa bánh mì kẹp.

- Mẹ cháu thế nào? - Bà ta đột nhiên hỏi, như chợt nghĩ tới.

- Khỏe ạ - Sukhvinder đỏ mặt đáp.

- Không quá buồn về vụ bài đăng trên website hội đồng chứ?

- Không ạ - Sukhvinder đáp, mắt đã có nước.

Andrew bỏ ra khoảng sân sau nhớp nháp, mới đầu buổi chiều, trời còn nắng và ấm áp. Ước gì Gaia cũng ra đây hít thở chút không khí trong lành, nhưng chắc cô ấy lại vào phòng nhân viên rồi. Nó thất vọng châm điếu thuốc rồi suýt nuốt luôn ngụm khói khi Gaia đột nhiên ló ra từ tiệm café, đang uống lon nước có ga sau bữa trưa.

- Chào - Andrew lên tiếng, miệng khô khốc.

- Chào - cô đáp, im một thoáng rồi nói tiếp - Này, sao bạn cậu làm trò như cứt với Sukhvinder thế hả? Do thù riêng hay nó là thằng phân biệt chủng tộc?

- Cậu ta không phân biệt chủng tộc - Andrew rút điếu thuốc khỏi môi, cố giữ tay không run, nhưng không nghĩ ra câu gì khác mà nói nữa. Ánh mặt trời phản chiếu trên mấy thùng rác rọi lên tấm lưng đẫm mồ hôi của nó âm ấm. Khủng quá, nó đứng ngay gần nàng lúc nàng mặc váy ôm sát thế này, mà nó lại còn thấy thân hình dưới lớp áo váy đó rồi nữa chứ. Andrew rít thêm hơi nữa, từ trước đến giờ chưa khi nào nó thấy mình vừa sững sờ vừa rạo rực đến thế.

- Thế bạn tôi đã làm gì cậu ta?

Vòng hông uốn lượn lên cái eo nhỏ xíu, cặp mắt to xanh lấp lánh ánh vàng hoàn hảo sau lon Sprite. Andrew chỉ muốn đáp, không gì cả, nó là thằng khốn, cậu để mình sờ một cái là mình sẵn lòng nện nó ngay...

Sukhvinder cũng bước ra sân, chớp chớp mắt vì nắng; trông cô bé có vẻ nóng bức và không thoải mái trong cái áo của Gaia.

- Ông ấy gọi bồ vào kìa - Sukhvinder nói với Gaia.

- Cứ để ông ấy đợi một lát - Gaia lạnh lùng đáp - mình phải chấm dứt cho xong vụ này. Mình mới nghỉ trưa có bốn mươi phút thôi mà.

Andrew và Sukhvinder nhìn sững cô bé bình thản nhấp nước ngọt, hâm mộ vẻ đẹp lẫn sự ngạo mạn của cô nàng.

- Con mụ già kia vừa hỏi gì về mẹ bồ hả? - Gaia hỏi Sukhvinder.

Sukhvinder gật đầu.

- Tôi nghĩ chính là thằng bạn của cậu ta - cô nhìn thẳng vào Andrew, nó nghe cái chữ của cậu ta nhấn mạnh đó sao mà khêu gợi, dù cô bé cố tình tỏ ý khinh bỉ - đăng bài về mẹ của bồ trên website.

- Không thể nào - Andrew nói ngay nhưng giọng không lấy gì làm chắc - Người làm trò đó cũng nhắm tới ông già tớ mà. Vài tuần trước.

- Cái gì?- Gaia hỏi - Cũng cái tay đó đăng bài về bố cậu hả?

Andrew gật đầu, sung sướng vì nàng tỏ ra quan tâm.

- Về vụ ăn cắp gì đó, phải không? - Sukhvinder hỏi với vẻ táo bạo hiếm có.

- Ờ - Andrew đáp. - Hôm qua bố tớ bị sa thải vì vụ đó. Vì thế mẹ bạn ấy - Andrew cố nhìn thẳng lại Gaia - không phải người duy nhất khốn khổ đâu.

- Quỷ tha ma bắt - Gaia uống cạn lon nước rồi quẳng vào thùng rác - mấy người ở đây thần kinh cả lũ rồi.

IV

Bài đăng về Parminder trên website hội đồng làm những cơn ác mộng của Colin càng thêm trầm trọng. Ông phỏng đoán nhà Mollison đang tìm cách moi thông tin về họ, nếu đến chuyện của Parminder mà nhà đó cũng biết...

- Ôi trời ơi Colin - Tessa phải kêu lên với ông chồng - mấy lời mách lẻo độc địa thôi mà. Có gì đáng để ý đâu chứ!

Nhưng Colin không dám liều tin vợ. Ông luôn tin rằng người ta sống với quá nhiều bí mật đến nỗi đâm ra dở điên dở dại. Dù những thảm họa ông lo lắng suốt hơn nửa đời người chưa từng thành hiện thực, nhưng không vì thế mà ông đỡ lo hơn; theo quy luật trung bình thì sớm muộn cũng có chuyện xảy ra thôi.

Hai rưỡi chiều, trên đường từ hiệu bán thịt về nhà, ông mải lo nghĩ đến lúc bị vạch trần sau này nên tới khi nghe tiếng ồn ào vọng ra từ hiệu café mới, ông mới sực tỉnh nhận ra mình đang ở đâu. Đúng ra ông định băng qua phía kia quảng trường, nhưng chân đã bước ngang cửa sổ hiệu Ấm Đồng, sát với đám người nhà Mollison đáng sợ. Liếc mắt qua cửa sổ, ông ngạc nhiên đến ngẩn người.

Mười phút sau lúc ông bước vào bếp, Tessa đang gọi điện thoại cho bà chị. Colin bỏ túi thịt cừu vào tủ lạnh rồi đi thẳng lên gác xép chỗ Fats ngủ. Ông đẩy tung cửa, đúng như dự đoán, căn phòng trống không.

Không biết lần gần đây nhất ông lên đây là khi nào nữa. Sàn phòng vương vãi đầy quần áo bẩn. Có mùi gì khăng khẳng dù Fats đã mở cửa sổ mái. Colin để ý thấy một hộp diêm lớn trên bàn bèn mở ra, bên trong đầy ắp điếu giấy cuốn xoắn. Một hộp giấy quấn Rizlas nằm lộ liễu trơ tráo ngay cạnh chiếc máy vi tính.

Colin giận tới mức tim đập thình thình muốn văng khỏi lồng ngực.

- Anh Colin? - Giọng Tessa vẳng lên từ dưới nhà - Anh ở đâu thế?

- Trên này - Colin gầm lên.

Cô xuất hiện trước cửa phòng, trông lo lắng và sợ hãi. Không nói tiếng nào, ông mở hộp diêm chìa cho vợ xem.

- Trời ơi - cô nói yếu ớt.

- Hôm nay nó bảo đi chơi với Andrew Price - Colin nói. Tessa sợ hãi nhìn quai hàm ông chồng nghiến lại trợn trừng trợn trạo vì tức giận. - Tôi mới đi ngang tiệm café mới mở chỗ quảng trường, thằng Andrew đang lau bàn trong đó. Thế thằng Stuart đâu?

Nhiều tuần nay, Tessa luôn vờ tin lời Fats mỗi lần nó bảo đi chơi với Andrew. Cô tự phỉnh mình rằng Sukhvinder nhầm lẫn đó thôi, làm gì có chuyện Fats đi chơi (hay sau này có khi nào chịu hạ cố đi chơi) với Krystal Weedon.

- Em không biết - Cô xoa dịu - thôi anh xuống lầu uống cốc trà đi, em sẽ gọi cho nó.

- Tôi sẽ chờ ở đây - Colin dứt khoát ngồi xuống cái giường chưa dọn của thằng Fats.

- Thôi mà anh, xuống nhà đi - Tessa năn nỉ.

Cô sợ để ông chồng ngồi đây một mình. Trời mới biết ông sẽ còn tìm thấy thứ gì trong ngăn kéo hay cặp đi học của Fats nữa. Cô cũng chẳng hề mong ông lục lọi máy tính hay dòm xuống gầm giường. Tránh né những góc tối tăm vốn là chiêu quen thuộc duy nhất của cô từ trước đến nay.

- Xuống đi nào Colin - Cô giục.

- Không - Colin đáp, khoanh chéo tay trước ngực như đứa trẻ con cáu kỉnh, quai hàm vẫn trợn trạo - Nó có ma túy. Con trai của phó hiệu trưởng đấy.

Tessa ngồi xuống chiếc ghế trước máy tính của Fats, cảm giác bực bội quen thuộc lại bùng lên. Cô biết cái thói lo sợ cho bản thân đó là do căn bệnh tâm lý của Colin, nhưng đôi khi...

- Tụi trẻ cỡ nó nhiều đứa vẫn thử cho biết mà - cô nói.

- Cô vẫn còn bênh nó hả? Có khi nào cô nghĩ cứ bênh riết rồi nó nghĩ có giết người cũng thoát được tội không?

Tessa cố nén giận, cô biết mình phải làm đệm đỡ giữa hai cha con.

- Xin lỗi nhé Colin, nhưng mà đâu phải mọi thứ chỉ xoay quanh anh và công việc của anh…

- Ờ rõ rồi, cho nên nếu tôi bị đuổi việc...

- Sao anh lại nghĩ mình bị đuổi cơ chứ?

- Trời ơi là trời - Colin gào lên - Cái gì cũng chĩa vào tôi mà, vốn đã tệ hại lắm rồi, nó trước giờ luôn là đứa cá biệt nhất trong…

- Không đúng - Tessa quát lại - Ai cũng nghĩ Stuart là cậu thiếu niên bình thường thôi. Nó có phải Dane Tully đâu!

- Giờ nó theo đường thằng Tully rồi đó, ma túy….

- Lúc trước em đã bảo anh là phải gửi nó đi học trường Paxton rồi mà. Em thừa biết nó mà học ở Winterdown thì nó làm gì thì anh cũng nghĩ nó nhằm vào anh hết! Lúc nào cũng nghĩ thế thì trách sao mà nó không nổi loạn? Em đâu bao giờ muốn nó vào học ở trường anh đâu!

- Còn tôi ấy hả - Colin nhảy bật dậy rống lên - chưa bao giờ muốn có nó hết!

- Đừng có nói thế - Tessa hổn hển - em biết anh đang bực nhưng đừng có nói những lời đó!

Dưới lầu có tiếng cửa trước đóng sập. Tessa hoảng hốt ngó quanh như thể Fats lập tức hiện ra ngay bên cạnh họ. Cô không phải chỉ giật mình vì tiếng động lớn mà còn vì Stuart không bao giờ có thói sập cửa