1. Nhà tù bên sông
Tuyết rơi suốt một tuần nay. Bên của sổ, tôi ngắm nhìn màn đêm và lắng nghe cái lạnh. Ở đây rất ồn. Một thứ tiếng ồn đặc biệt, khó chịu, khiến ta tin rằng tòa nhà này, bị kẹp trong một gọng kìm băng giá, đang thốt ra tiếng rên rỉ đầy sợ hãi như thể nó đau đớn rồi vỡ toác vì co rút. Vào giờ này, nhà tù thiếp ngủ. Sau một thời gian nhất định, khi đã quen với nhịp chuyển hóa của nó, ta có thể nghe thấy tiếng nó thở trong bóng tối chẳng khác nào một con vật to lớn, thỉnh thoảng húng hắng ho, thậm chí còn nuốt ừng ực. Nhà tù ngốn ngấu chúng tôi, tiêu hóa chúng tôi, và, co quắp trong bụng nó, ẩn nấp giữa những nếp gấp được đánh số của ruột gan nó, giữa hai cơn co bóp dạ dày, chúng tôi ngủ và sống được đến đâu hay đến đấy.
Nhà tù Montréal, còn gọi là nhà tù Bordeaux vì được xây trên phần lãnh thổ cũ của một khu phố mang tên ấy, nằm ở số 800 đại lộ Gouin Ouest, bên bờ sông Prairies. 1.357 tù nhân. 82 người đã bị xử tử bằng cách treo cổ cho đến năm 1962. Ngày xưa, trước khi người ta xây dựng cái vũ trụ giam cầm này, hẳn là nơi đây phải đẹp tuyệt, với những gì cần để tạo nên điều đó như bạch dương, phong, thường xuân và những vạt cỏ cao đổ rạp sau khi lũ thú hoang đi qua. Ngày nay, chuột cống và chuột nhắt là những loài duy nhất còn sống sót của quẩn thể động vật hồi đó. Và vốn là loài không mấy so đo, chúng sinh sôi nảy nở trong cái thế giới đóng kín hình thành từ nỗi đau bị giam hãm này. Dường như chúng thích nghi hoàn hảo với việc ở tù và thuộc địa của chúng không ngừng mở rộng ra tất cả các chái trong tòa nhà. Ban đêm, ta nghe rõ mồn một lũ động vật gặm nhấm ấy miệt mài lao động trong các xà lim và các hành lang. Để chặn lối chúng, chúng tôi cuộn báo và quần áo cũ chèn vào dưới cánh cửa hoặc đằng trước các cửa trập thông gió. Chẳng ích gì. Chúng vẫn chui lủi, luồn lách, len lỏi và làm những việc chúng phải làm.
Kiểu xà lim nơi tôi sống được đặt biệt danh là “condo”, có nghĩa là một “căn hộ”. Sở dĩ chúng tôi gán cho không gian này cái tên gọi mỉa mai đó là vì nó có diện tích nhỉnh hơn một chút so với mẫu xà lim chuẩn, thứ đã thành công trong việc bóp nghẹt nốt chút nhân tính còn lại trong chúng tôi giữa chừng vỏn vẹn sáu mét vuông.
Một giường hai tầng, hai cửa sổ, hai ghế đẩu gắn chặt xuống sàn nhà, hai bàn nhỏ, một chậu rửa và một bồn cầu.
Tôi chia sẻ cái chuồng giam ấy với Patrick Horton, một gã cao to gấp rưỡi người thường đã xăm câu chuyện cuộc đời gã lên khoảng da lưng - Life is a bitch and then you die[1] - cùng câu chuyện về tình yêu của gã dành cho những chiếc xe Harley Davidson trên hai bả vai và vồng ngực. Patrick đang trong thời gian chờ phán quyết, sau vụ sát hại một thành viên của Hells Angels[2] thuộc địa bàn Montréal, gã này bị đồng bọn hạ sát ngay trên xe mô tô vì bị nghi ngờ là hợp tác với cảnh sát. Patrick bị kết tội tham gia vụ hành quyết. Nhìn tầm vóc đáng phải dè chừng của Horton và việc gã là thành viên của băng đảng mô tô sở hữu một bảng thành tích giết chóc và sát hại đáng nể, ai nấy đều cung kính dạt sang hai bên như thể gã là một vị hồng y mỗi khi gã lang thang trong các hành lang ở khu B. Nhờ chung xà lim với gã, tôi được hưởng lây sự kính trọng mà các tù nhân dành cho gã sứ thần kỳ cục này.
Đã hai đêm nay Patrick rên rỉ trong lúc ngủ. Gã có một cái răng sâu và đang phải chịu những cơn đau nhói đặc thù của một ổ áp xe. Gã đã nhiều lần phàn nàn vụ đau răng với viên lính gác, rốt cuộc anh ta cũng mang cho gã mấy viên Tylenol. Khi tôi hỏi tại sao gã không yêu cầu được ghi tên vào danh sách chờ nha sĩ khám, gã bảo tôi: “Không bao giờ. Nếu mày có một cái răng đau, lũ con hoang ở đây không chữa cho mày đâu, chúng sẽ nhỏ béng luôn. Nếu mày có hai cái răng đau thì cũng thế, chúng sẽ nhổ của mày cả hai cái.”
Chúng tôi ở chung từ chín tháng nay, và mọi việc diễn ra khá êm thấm. Một sự tương đồng về định mệnh đầy kỳ lạ đã đưa đẩy chúng tôi đến đây gần như vào cùng một thời gian. Patrick nhanh chóng muốn biết gã sẽ phải cùng chia sẻ bồn cầu với ai hằng ngày. Tôi liền kể cho gã nghe câu chuyện của mình, khác xa với câu chuyện của băng đảng Hells, những kẻ kiểm soát toàn bộ mảng buôn lậu ma túy trong tỉnh và không ngần ngại châm ngòi những cuộc chiến liên hồi như mấy vụ từng khiến 160 người thiệt mạng ở Québec từ năm 1994 đến năm 2002 khi phải đối đầu với kẻ thù truyền kiếp của họ là băng Rock Machines, băng đảng này sau đó lại tiêu tán dưới tay Bandidos, một băng đảng mặc dù có cái tên đầy lộ liễu[3] nhưng lại chẳng cướp đoạt được gì, thậm chí sau này tới lượt họ phải nếm trải vài cay đắng bởi vì người ta tìm thấy tám cái xác, tất cả đều là thành viên Bandidos, bị vứt bừa bãi trong bốn chiếc xe đậu sát nhau và mang biển đăng ký tại Ontario.
Khi Patrick biết được lý do khiến tôi phải ở tù, gã liền quan tâm đến câu chuyện của tôi với sự ân cần của một thành viên Hiệp hội Compagnon du Devoir[4] lúc nhận thấy những ý đồ ban đầu hết sức vụng về của người thợ học việc. Khi tôi kết thúc câu chuyện khiêm tốn của mình, gã gãi gãi vùng dái tai bên phải bị eczema ăn đỏ lựng. “Nhìn mày, tao không nghĩ mày lại có thể làm một việc như vậy. Mày đã hành động đúng. Chắc chắn luôn. Nếu là tao, tao đã giết nó.”
Xét cho cùng, có lẽ đó cũng là điều tôi hẳn đã muốn làm, và, theo các nhân chứng, đó hẳn là hành động mà có thể tôi đã phạm phải nếu sáu con người kiên quyết kia không liên kết với nhau để khống chế tôi. Sự thật là, ngoài những gì người ta kể lại, tôi chỉ giữ lại trong đầu vài hình ảnh liên quan đến chính sự cố đó, dường như tâm trí tôi đã tiến hành công việc chọn lọc trước khi tôi tỉnh lại trong phòng cấp cứu ở bệnh viện.
“Mẹ kiếp đúng vậy, là tao thì tao đã giết chết cái thứ rác rưởi ấy. Những kẻ như thế, đáng ra phải phanh chúng làm đôi.” Mấy ngón tay gã vẫn sục sạo trên cái tai đỏ lựng, còn thân hình gã nặng nề đung đưa, chuyển trụ từ chân này sang chân kia. Bị một cơn giận dữ khó hiểu xâm chiếm, Patrick Horton dường như đã sẵn sàng vượt qua các bức tường để hoàn tất công việc mà tôi đồng thời vừa khơi mào vừa theo một cách nào đó lại chỉ thực hiện quấy quá cho xong. Thấy gã vừa gầm gừ vừa gãi vùng da đỏ rực kia như thế, tôi nghĩ đến lời nhận xét của nhà nhân chủng học Serge Bouchard, chuyên gia về văn hóa của người da đỏ ở Mỹ: “Con người là một loài gấu tiến hóa sai hướng.”
Winona, vợ tôi, là một phụ nữ Anh điêng lai Algonquin. Tôi đã đọc rất nhiều tác phẩm của Bouchard để hiểu về nàng. Vì hồi ấy tôi mới chỉ là một gã người Pháp mê tốc độ, gần như không biết gì về những mánh khóe làm lều rung[5], những luật lệ xông hơi bí ẩn, huyền thoại căn bản về gấu mèo Mỹ, lý lẽ tiền Darwin theo đó “con người là hậu duệ của loài gấu” hay câu chuyện giải thích tại sao “tuần lộc lại chỉ có đốm trắng bên dưới mõm”.
Thời ấy, nhà tù với tôi mới chỉ là một khái niệm lý thuyết, một trò đổ súc sắc bông phèng buộc ta phải qua lượt của mình bằng cách bị giam trong ô nhà tù của trò Monopoly. Và cái thế giới bó hẹp ngây thơ ấy dường như được xây nên để tồn tại mãi mãi, giống hệt như cha tôi, mục sư Johanes Hansen, mải mê với việc lay động trái tim mọi người và làm rung những bánh xe nắn tiếng của cây đại phong cầm Hammond trong giáo xứ Tin lành chìm ngập dưới những cơn mưa rào chứa đầy a-mi-ăng độc hại của ông; giống như Winona Mapachee và nét dịu dàng của người Algonquin ở nàng, khi nàng vòng tay đổi hướng chiếc máy bay-taxi Beaver để cả các khách hàng lẫn phao nổi đều được nhẹ nhàng đáp xuống mặt nước của tất cả các hồ ở miền Bắc; giống như cô chó Nouk của tôi, vừa mới chào đời đã tỏ ý quan sát tôi bằng đôi mắt to đen của nó, như thể tôi chính là khởi đầu và kết thúc của tất cả mọi điều.
Đúng thế, tôi yêu cái thời kỳ ấy, cái thời kỳ giờ đã quá xa xôi, cái thời mà ba người thân đã chết của tôi vẫn còn sống trên đời.
Tôi những muốn dỗ được cơn buồn ngủ biết bao. Không còn nghe thấy tiếng lũ chuột. Không còn ngửi thấy mùi con người. Không còn nghe mùa đông qua ô cửa kính. Không còn phải ăn thứ gà nâu luộc trong lớp nước nhầy mỡ. Không còn nguy cơ bị đánh đến chết vì một câu quá lời hoặc vì một nhúm thuốc lá. Không còn buộc phải đi tiểu vào chậu rửa vì sau một giờ nhất định nào đó, chúng tôi không còn được quyền giật cần xả nước bồn cầu. Không còn tối nào cũng phải thấy cảnh Patrick Horton tụt quần ngồi lên bệ cầu rồi vừa đại tiện vừa kể với tôi chuyện “những thanh truyền hình nạng” trên chiếc Harley của gã mỗi lần đi chậm lại sẽ “rung bần bật như run lên vì lạnh”. Lần nào gã cùng bình thản hành sự và trò chuyện cùng tôi với vẻ thư thái đáng ngạc nhiên, khiến người ta phải nghĩ rằng cái miệng và tâm trí gã hoàn toàn tách bạch với mối bận tâm của trực tràng. Thậm chí gã còn chẳng thèm tìm cách điều chỉnh cường độ những quả rắm. Vừa hoàn tất công việc đào thải, Patrick vừa tiếp tục khai sáng cho tôi về độ tin cậy của những động cơ đời mới nhất từ giờ được lắp “các Silentbloc[6] được gọi là isolastic”, trước khi chỉnh lại chiếc quần như một người vừa hoàn tất một ngày, rồi trải lên trên bồn cầu một tấm vải trắng tinh thay cho nắp, và với tôi hình ảnh đó có phần vừa giống đoạn kết của một nghi lễ, vừa giống một câu Ite missa est[7].
Nhắm mắt. Ngủ. Đó là phương cách duy nhất để thoát khỏi đây, để bỏ lại lũ chuột sau lưng.
Mùa hè, khi đứng vào góc cửa sổ bên trái, tôi có thể nhìn thấy thấp thoáng dòng nước của sông Prairies chảy hết tốc lực về phía đảo Bourdon, đảo Bonfoin, rồi sông Saint-Laurent vừa đón nhận vừa chôn vùi dòng nước ấy. Nhưng đêm nay, không gì hết. Tuyết đã bít kín mọi thứ, kể cả đêm đen.
Patrick Horton không biết chuyện, nhưng có những khi, vào khoảng giờ này, Winona, Johanes hoặc thậm chí cả Nouk đến thăm tôi. Họ bước vào, và tôi nhìn thấy họ rõ mồn một, giống y như tôi có thể tường tận toàn bộ nỗi thống khổ đóng cặn trong buồng giam này. Và họ trò chuyện với tôi, và họ ở đây, thật gần bên tôi. Suốt những năm qua, từ khi tôi mất họ, họ vẫn đi rồi đến trong suy nghĩ của tôi, tâm trí tôi là nhà của họ, họ sống trong tôi. Họ nói những gì cần nói, họ làm công việc của mình, miệt mài sắp đặt lại mớ hỗn độn trong cuộc đời tôi, và lúc nào cũng tìm ra những lời lẽ phù hợp để rồi cuối cùng dẫn dắt tôi đến với giấc ngủ và sự êm đềm của đêm. Mỗi người một cách, mỗi người một vai trò và quyền hạn của riêng mình, họ nâng đỡ mà không bao giờ phán xét tôi. Nhất là từ khi tôi ở tù. Không hơn gì tôi, họ không hề biết toàn bộ chuyện đó xảy đến như thế nào, cũng không biết tại sao tất cả lại đảo lộn nhanh chóng đến thế chỉ trong có vài ngày. Họ không ở đây để đào xới nguồn gốc bất hạnh. Họ chỉ cố sức tái lập gia đình chúng tôi.
Những năm đầu, tôi vô cùng chật vật mới chấp nhận nổi ý nghĩ phải sống với những người thân đã chết. Phải lắng nghe giọng nói của cha tôi mà không phản ứng gì y như khi tôi còn nhỏ, hồi chúng tôi còn sống ở Toulouse và mẹ còn yêu thương chúng tôi. Đối với Winona, cảm giác bối rối nhanh chóng tan biến, bởi nàng đã chuẩn bị tinh thần từ trước cho tôi, với huyền thoại về thế gới trung gian của người Algonquin, nơi người sống cận kề người chết. Nàng thường nói rằng chẳng có gì bình thường hơn việc chấp nhận cuộc đối thoại với những người quá cố hiện đang sống trong một vũ trụ khác. “Tổ tiên chúng ta đang tiếp tục một cuộc đời khác. Và sở dĩ ta chôn cất họ cùng tất cả đồ đạc của họ, thì chính là để họ có thể tiếp tục công việc của mình ở nơi ấy.” Tôi rất thích cái logic mong manh về thế giới được vá víu bằng hy vọng và tình yêu đó. Ta gửi đi những công cụ gắn bó với chủ sở hữu quá cố của chúng, những công cụ được coi là có thể hoạt động với mọi loại điện áp và mọi loại ổ cắm ở các thế giới vô hình, miễn chúng là công cụ chạy điện. Còn về Nouk, cô chó của tôi, con vật biết rõ mọi điều về thời gian, về con người và những quy luật của mùa đông, con vật hiểu chúng ta đến chân tơ kẽ tóc, nó chỉ đến nằm dài bên cạnh tôi như vẫn làm trước đây. Không cần các thầy bà nào giúp, chỉ tin tưởng vào ký ức về mùi của chủ, nó đã tìm lại được tôi. Sau khi đi một vòng trong bóng tối, đơn giản là nó quay về nhà mình và nằm xuống bên tôi, tiếp tục cuộc sống chung của chúng tôi đúng từ điểm cuộc sống ấy bị ngắt quãng.
Tôi bị đưa đến nhà tù Bordeaux đúng vào ngày Barack Obama đắc cử, ngày 4 tháng Mười một năm 2008. Đối với tôi, đó là một ngày dài và khủng khiếp, nào là bị đưa đến tòa án, chờ đợi trong hành lang của tòa, xuất hiện trước mặt thẩm phán Lorimier, người dường như trong đầu chỉ rặt một mớ những bận tâm cá nhân mặc dù ông tỏ ra khá ân cần với tôi trong màn xét hỏi, nào là màn biện hộ ma quái của vị luật sư trầm cảm luôn gọi tôi là “Janssen”, người đã biến tôi thành một “ca tâm thần thụ động dạng nặng”, khiến người ta có cảm giác ông ta đang khám phá hồ sơ của tôi hoặc biện hộ cho hồ sơ của một người khác, nào là thời gian chờ đợi bản án, được thẩm phán Lorimier lúng búng tuyên như ngậm hột thị, nào là tổng mức án phạt, hai năm tù giam, nhòa đi trong ký ức về phòng xử án, nào là cơn mưa như trút trên chặng đường về, những đoạn tắc đường, lúc đến nhà tù, thủ tục xác nhận, màn lục soát đầy khó chịu, ba người trong một xà lim chỉ rộng bằng cái kho để xe đạp, “câm mồm, đã vào đây thì câm mồm”, một tấm đệm vứt trên sàn, phân chuột, những tờ giấy Kleenex đã dùng vứt khắp nơi, mùi nước tiểu phảng phất, cái khay đồ ăn, thịt gà màu nâu, đêm đen.
Một tháng trước khi Barack Obama chính thức chuyển vào sống trong Nhà Trắng, tôi được chuyển đến chỗ ở mới, căn “condo” nơi Patrick Horton và tôi đang cùng sống hiện nay. Việc chuyển phòng này cho phép tôi thoát khỏi địa ngục trần gian ở khu A, nơi bạo lực và những trận ẩu đả diễn ra đều đặn mỗi giờ trong ngày, thậm chí đôi khi cả trong đêm. Ở đây, dù không thoát khỏi cảnh bê tha, nhưng nhờ lai lịch và vóc dáng của Horton, cuộc sống có chút ổn thỏa hơn. Với lại, khi nỗi bế tắc của bản thân và sức nặng của thời gian trở thành một gánh nặng quá lớn, chỉ cần từ bỏ và buông thả chính mình theo cái nhịp điệu chậm chạp và cứng đầu của chiếc đồng hồ trong nhà tù, tuân thủ theo lịch trình của “chế độ sống”: “7 giờ, mở cửa xà lim. 7 giờ 30, phát đồ ăn sáng. 8 giờ, sinh hoạt chung. 11 giờ 15, ăn trưa. 13 giờ, sinh hoạt chung. 16 giờ 15, ăn tối. 18 giờ, sinh hoat chung. 22 giờ 30, đi ngủ và đóng cửa xà lim. Cấm hút thuốc bên trong và bên ngoài các phòng giam. Các tài sản bị cấm: máy chơi game, máy vi tính, điện thoại di động, tranh ảnh có tính chất khiêu dâm. Giường phải sắp xếp gọn gàng trước 8 giờ, và dọn dẹp xà lim trước 9 giờ vào tất cả các buổi sáng.”
Tôi có một cảm giác rất đỗi lạ lùng khi vừa bị giam hãm lại vừa được rũ bỏ mọi trách nhiệm đến mức này. Suốt hai mươi sáu năm, trong khu phố Ahuntsic, cách nhà tù này chưa đầy một ki lô mét - thời gian đầu, tôi bối rối khủng khiếp khi thấy mình bị giam gần nhà đến thế -, tôi làm công việc hết sức khắt khe của một viên quản lý, một kiểu gác cổng kiêm ảo thuật gia, một quản gia trực tiếp có khả năng lập lại trật tự và sửa chữa cả một thế giới nhỏ bé chính xác, một vũ trụ phức tạp tạo bởi những dây cáp, những vòi, những ống, những mối nối, những nhánh rẽ, những cột, những ống thoát, những đồng hồ tính giờ đậu xe, cả một thế giới nhỏ bé tinh nghịch chỉ tìm cách thoát khỏi tầm kiểm soát, làm nảy sinh những vấn đề, gây ra những sự cố phải giải quyết gấp rút bằng rất nhiều trí nhớ, hiểu biết, kỹ thuật, khả năng quan sát và đôi khi cả chút may mắn. Trong tòa nhà L’Excelsior, tôi là một thứ deus ex machina[8] được người ta giao phó việc phụ trách, bảo trì, giám sát và chăm lo cho cái condo gồm sáu mươi tám đơn nguyên kia hoạt động trơn tru. Tất cả các cư dân đều là chủ sở hữu căn hộ của họ và cùng tận hưởng một khu vườn được tô điểm bằng cây cổ thụ và những khóm cây bụi, một bể bơi nước nóng chứa 230.000 lít nước được lọc bằng muối, một bãi đỗ xe ngầm sạch như lau kèm khu rửa xe, một phòng thể thao, một cổng vào có phòng chờ kiêm lễ tân, một phòng họp được gọi là “Diễn đàn”, hai mươi tư camera giám sát cùng ba thang máy rộng nhãn hiệu Kone.
Suốt hai mươi sáu năm, tôi thực hiện một công việc khổng lồ, đầy kích thích nhưng cũng khiến tôi kiệt sức vì nó không bao giờ kết thúc, hầu như vô hình bởi tất cả chỉ nhằm giữ sao cho trạng thái bình thường của sáu mươi tám đơn nguyên phải đối mặt với sự bào mòn của thời gian, thời tiết và sự lỗi thời luôn được cân bằng. 9.500 ngày canh chừng, rình rập, can thiệp, 9.500 ngày điều tra, kiểm chứng, đi tuần trên mái, ngao du giữa các tầng, và cả 104 mùa đôi khi phải bứt ra khỏi những đặc quyền của mình để giúp đỡ những người cao tuổi, an ủi những bà góa, thăm nom những người ốm hoặc thậm chí là tháp tùng người chết, như chuyện đã xảy ra đến hai lần.
Tôi tin rằng nền giáo dục mà Johanes Hansen, mục sư Tin lành chuyên nghiệp, đã truyền lại cho tôi, không xa lạ gì với sự hy sinh mà tôi đã chứng tỏ trong suốt những năm tháng ấy, để giữ cho toàn bộ công việc được ổn định. Hành nghề như thế, đảm đương tất cả trong âm thầm, hằng ngày hoàn tất những nhiệm vụ thấp kém một cách nghiêm túc và tỉ mỉ, theo tôi những việc đó không hề trái ngược với tinh thần Cải cách mà Johanes vẫn ra sức gìn giữ ở nhà thờ.
Tôi không biết gì về người tiếp nối mình thực hiện nhiệm vụ đó và chấp nhận sống trong ruột gan của tòa nhà. Cũng không biết bây giờ trong lòng L’Excelsior trông ra sao. Tôi chỉ biết rằng tôi nhớ khủng khiếp cái thế giới tưởng tượng nhỏ bé với sáu mươi tám đơn nguyên ấy, cái thế giới có khả năng gây ra một tổ hợp bất tận những sự cố, phiền toái và thách đố để tôi phải giải quyết.
Đã có khi tôi trò chuyện với những đồ vật và máy móc, và yếu lòng tin rằng thỉnh thoảng chúng cũng hiểu được tôi. Giờ thì tôi có Horton, cái răng và mớ thanh truyền của gã.
Đã từng cai quản và chăm lo cho L’Excelsior vận hành trơn tru trong từng ấy năm trời, thế mà nay tôi buộc phải tuân thủ cái “chế độ sống” uể oải trong “condo” mới, 8 giờ: sinh hoạt chung, 16 giờ 15: ăn tối, 21 giờ: các loại yên nhãn hiệu Hells, 22 giờ 30: đi ngủ và đóng cửa xà lim.
Sáng nay, vừa ngủ dậy, Patrick đã gọi viên lính gác và đòi gặp nha sĩ khẩn cấp. Gã sợ nha sĩ hơn cả một cuộc tập kích dã man của băng Bandidos. Má gã sưng phồng lên trong đêm, và cơn đau khiến gã như bị điện giật. Gã cuống cuồng đi đi lại lại trong phòng giam chẳng khác nào một con côn trùng bị giam trong lọ. “Mày không ngại dọn giường cho tao sáng nay chứ? Cái răng khốn kiếp này làm tao đau muốn chết. Tao thừa hưởng món này từ ông già tao. Răng ông ấy cũng sâu hết cả. Có vẻ đấy là gen di truyền. Cái gì? Tao biết đâu đấy, đừng có hỏi những câu ngớ ngẩn ấy nữa, không phải hôm nay. Tay nha sĩ chó chết này. Mà trông mặt hắn điên rồ chẳng khác gì tay Nicholson. Mấy giờ rồi? Đồ khốn ấy chắc vẫn đang ở nhà tự sướng trước đống ngũ cốc ngô tởm lợm của hắn. Tao nói với mày chuyện này, tay Nicholson ấy nên biết điều mà chữa cho tao như khách VIP, nếu không thì tin tao đi, tao sẽ chẻ nó ra làm đôi, cái thằng con hoang ấy. Mấy giờ rồi? Mẹ kiếp.”
Với Patrick, nhất là khi gã bị đau răng hàm, thế giới chia làm hai loại người hoàn toàn khác biệt. Những người biết và ưa chuộng âm thanh do những thanh truyền bắt tréo của xe mô tô Harley Davidson tạo ra. Và những kẻ khác, đông đảo hơn, mù tịt về các “isolastic”, những kẻ chỉ đáng bị “chẻ làm đôi”.
Sáng nay, tôi phải thực hiện cuộc phỏng vấn với một gã Gaëtan Brossard nào đó, một công chức quản lý nhà tù chịu trách nhiệm thẩm cứu các hồ sơ ân xá trước khi chuyển lên cho thẩm phán. Tôi đã gặp Brosard khoảng ba, bốn tháng trước. Ngoại hình của Brossard toát ra một thứ gì đó khiến ta an lòng, và khuôn mặt như được đổ ra từ cùng một khuôn với Viggo Mortensen[9] càng củng cố thêm vai trò giám sát viên ân cần của anh ta.
Cuộc phỏng vấn đầu tiên của chúng tôi diễn ra rất chóng vánh. Thậm chí anh ta còn không mở bìa hồ sơ chứa giấy tờ về vụ án của tôi.
“Cuộc gặp của chúng ta hôm nay chỉ thuần túy là thủ tục, anh cứ xem như đây chỉ là một động tác tiếp xúc sơ bộ, anh Hansen ạ. Xét những sự việc nghiêm trọng mà anh đã gây ra, đáng tiếc là ở giai đoạn này, tôi không thể xem xét hay dự kiến bất cứ đề nghị trả tự do nào cho anh, cho dù có kèm theo biện pháp giám sát đi chăng nữa. Vài tháng nữa chúng ta sẽ gặp lại nhau, và nếu các báo cáo hành vi của anh đều tốt cả, ta có thể nghĩ đến một điều gì đó.”
Brossard không thay đổi gì. Tôi để ý thấy một chi tiết mà mình đã không nhận ra trong lần gặp đầu. Khi không nói, Gaëtan có thói quen hít ngửi các đầu ngón tay. Cứ mỗi lần hít, hai bên cánh mũi anh ta nở ra, rồi, hẳn là an tâm vì đã nhận ra mùi hương của những phân tử quen thuộc, chúng quay trở lại với hình dạng ban đầu.
“Tôi sẽ nói chuyện thẳng thắn với anh, anh Hansen ạ. Tất cả các nhận xét về anh đều rất tốt, và đương nhiên là thuyết phục tôi chuyển hồ sơ của anh lên thẩm phán kèm kiến nghị có lợi cho anh. Tuy nhiên, trước đó anh phải thuyết phục được tôi rằng anh nhận thức được mức độ nghiêm trọng trong hành vi của mình, và anh thực sự hối tiếc về hành vi ấy. Anh có hối tiếc vì đã làm thế không, anh Hansen?”
Hẳn là lẽ ra tôi nên nói những gì anh ta chờ đợi, rối rít xin lỗi, thể hiện những dằn vặt sâu sắc và chân thành, tuôn ra cả tràng những lời hối tiếc, thú nhận rằng những gì xảy ra ngày hôm ấy vẫn là điều mà chính tôi cũng không hiểu nổi, xin lỗi nạn nhân vì những đau đớn mà tôi gây ra cho ông ta, và để kết thúc màn diễn xuất ăn năn ấy, tôi nên gục đầu, như bị nỗi hổ thẹn đè nặng.
Ấy thế nhưng, tôi chẳng hề làm bất cứ điều gì như thế. Không có lời nào thốt ra từ miệng tôi, không gì hết, khuôn mặt tôi vẫn vô cảm như một cái mặt nạ bằng sắt, thậm chí tôi còn phải khó khăn lắm mới không thú nhận với Viggo Mortensen rằng nỗi hối tiếc chân thành nhất đời tôi chính là đã không có thêm thời gian, hoặc không có đủ sức lực để bẻ gãy tất cả xương trên thân hình cái kẻ cao ngạo, tự mãn và đáng ghê tởm ấy.
“Xin thú thực là tôi đang trông đợi một thứ khác từ anh, anh Hansen ạ. Một phản ứng thích hợp hơn. Hiển nhiên là, khi đọc hồ sơ của anh, khi nghiên cứu cuộc đời và quá khứ của anh, tôi thấy rất rõ rằng chỗ của anh không phải ở đây. Tuy nhiên, tôi e rằng do cứ khăng khăng không muốn xem xét lại chính bản thân mình, anh sẽ phải ở đây thêm một thời gian nữa. Điều này quả là đáng tiếc, anh Hansen ạ. Mỗi ngày trôi đi trong tù là một ngày phí hoài. Ở ngoài kia có ai chờ đợi anh không?”
Làm sao để giải thích cho anh ta hiểu được rằng ngay lúc này, ở bên ngoài kia chẳng có ai chờ đợi tôi, nhưng ngược lại, trong chính căn phòng nơi chúng tôi đang ngồi - và tôi có thể cảm nhận được hơi thở của họ -, Winona, Johanes và Nouk vẫn lịch sự chờ đợi từ nãy bên cạnh tôi với hy vọng anh ta sớm rời đi.
Vẫn còn chịu tác dụng của mũi thuốc tê, nước dãi đỏ lòm nhỏ ra những nếp gấp của một chiếc khăn giấy, Patrick đã quay về phòng sau màn chăm sóc răng. Rõ ràng là cuộc gặp gỡ giữa gã với Nicholson đã kết thúc theo cách tồi tệ. “Thằng khốn ấy nhổ mất cái răng của tao. Tao biết ngay mà, mẹ kiếp, người ta đã cảnh báo tao. Nhưng cái thứ khốn nạn đó không cho tao được lựa chọn. Hắn bảo tao rằng hắn chẳng thể làm gì để cứu cái răng của tao nữa, và rằng hơn thế, tao có một ổ áp xe to tướng. Hắn cho tao xem một thứ ngu ngốc trên tấm phim chụp và bảo: ‘Đây này, anh thấy không, đúng là một ổ nhiễm trùng rồi.’ Đừng lằng nhằng nữa, tao trả lời, mày cứ làm việc của mày đi, nhưng tao báo trước, mày mà làm tao đau thì mày tiêu đời đấy. Hắn liền tống vào nướu tao một đống thứ đủ để khiến cả cái làng chết tiệt nơi tao đã sinh ra phải ngủ chỏng gọng. Mày thấy đấy, tao không biết khi nào thì được ra, nhưng tao có thể thề với mày rằng, một khi đã ra đến bên ngoài, tao sẽ đến thẳng nhà thằng khốn ấy và chẻ nó làm đôi.”
Người ta thông báo rằng đêm nay, nhiệt độ là âm 28 độ; thêm hệ số gió nữa là âm 34 độ. Bốn ngày nữa là 25 tháng Mười hai. Nicholson sẽ quây quần ăn mừng Giáng sinh với đông đủ gia đình, ai nấy đều có hàm răng trắng tinh không chê vào đâu được nhờ bàn tay chăm sóc của người cha. Cô con gái út vẫn còn đeo bộ niềng, và mẹ cô bé sẽ hứa rằng đây là mùa đông cuối cùng cô bé phải mang cả cái mớ sắt ấy trong miệng. Vô số quả châu và đủ loại đèn nực cười sẽ sáng lên lấp lánh, nhấp nháy trong ngôi nhà ấy cũng như mọi ngôi nhà khác trong thành phố, những cửa hàng lớn sẽ mở loa bài Christmas carols để người ta rút thẻ tín dụng ra dễ dàng hơn, và trong một vũ điệu hỗn loạn, đủ thứ vật dụng vô ích và tốn kém, được lôi ra khỏi chốn hư vô để rồi chẳng bao lâu sau lại quay trở lại đó, sẽ được chuyền tay từ người này sang người khác, trong khi nhân dịp đó, các kênh truyền thanh hoan hỷ sẽ lên kế hoạch phát ca khúc All I want for Christmas is you.
Ở đây, khi đêm xuống, một cha xứ bị giáng cấp sẽ đến thực hiện chớp nhoáng một lễ mi xa lấy lệ cho những tù nhân ưa quỳ gối, và hứa với mỗi người dù không mấy tin tưởng là một ngày nào đó họ sẽ được ngồi bên tay phải của đấng Sáng thế, trước khi nhanh chóng chuồn đi hít hà mùi tươi trẻ của một ca đoàn lễ sinh. Về phần chúng tôi, những kể vô thần, đám người nghịch đạo, lũ côn đồ vặt và những tên tội phạm vai u thịt bắp, chúng tôi được hưởng một suất đúp thịt gà nâu rưới nước xốt ăn kèm một thứ mềm mềm phủ kem xi rô phong để lâu. Trước khi tấn công đĩa đồ ăn của mình, tôi sẽ chúc Patrick Giáng sinh vui vẻ bằng giọng nghiêm trang nhất trần đời. Và dù đang nhai món gà nhũn nhừ, gã vẫn sẽ đáp lời tôi: “Đừng có gây phiền phức bằng mấy cái trò ngu ngốc đó nữa.”
***Line Note Zone***
Chú thích:
[1] Tiếng Anh trong nguyên bản, tạm dịch: “Cuộc đời như một con điếm, thế rồi ta chết”. (Mọi chú thích nếu không có lưu ý gì thêm đều là của người dịch)
[2] Được thành lập vào năm 1948, Hells Angels nhanh chóng trở thành băng đảng mô tô lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, băng đảng này đã bị Bộ Tư pháp Mỹ liệt vào danh sách các nhóm tội phạm có tổ chức.
[3] Bandido trong tiếng Tây Ban Nha chỉ những người thường làm các hoạt động bất hợp pháp như trộm cắp, vẽ graffiti, v.v.
[4] Một phường hội ở Pháp, thành lập từ thời Trung cổ, nhằm giúp các thanh niên từ mười lăm tuổi trở lên được đào tạo các ngành nghề truyền thống.
[5] Lều rung là một nghi lễ rất phổ biến ở các tộc người Ojibwe, người Innu, người Cree, người Penobscot và người Abenaki. Trong nghi lễ này, pháp sư dựng một căn lều rồi chui vào đó khi đêm xuống. Ông ta vừa gõ trống vừa cầu nguyện để kêu gọi các thần linh trợ giúp chữa bệnh hoặc phá bỏ lời nguyền nào đó. Sự xuất hiện của các vị thần được báo hiệu bằng tiếng động vật kêu hoặc làm chiếc lều rung lên.
[6] Tiếng Anh trong nguyên bản, tạm dịch là “khối im lặng”.
[7] Câu nói của chủ tế khi kết thúc thánh lễ, tương đương với: “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an,” trong tiếng Việt.
[8] Tiếng Latin trong nguyên bản, tạm dịch là “vị thần trong cỗ máy”. Deus ex machina thường được dùng để ám chỉ một thế lực bất ngờ, không có vai trò gì đột nhiên xuất hiện để giải quyết các vấn đề nan giải.
[9] Diễn viên, đạo diễn, biên kịch, nhà sản xuất người Mỹ gốc Đan Mạch.