2. Skagen, nhà thờ vùi trong cát
Tôi chào đời ở Toulouse, ngày 20 tháng Hai năm 1955, vào khoảng 22 giờ, tại trạm xá Teinturiers. Trong căn phòng được dành cho tôi, hai con người mà tôi chưa từng nhìn thấy ngắm tôi ngủ. Người phụ nữ trẻ nằm cạnh tôi, dường như cô vừa đi dạ hội về, một nhan sắc đáng kinh ngạc, cô tươi cười và thư thái bất chấp thử thách vượt cạn, đó là Anna Margerit, mẹ tôi. Mẹ hai mươi lăm tuổi. Người đàn ông ngồi cạnh mẹ, cố gượng nhẹ để không làm lún mép giường, và ta có thể đoán là có vóc dáng cao to, với mái tóc vàng và ánh mắt xanh trong trẻo thấm đẫm ân cần và dịu dàng, chính là Johanes Hansen, cha tôi. Cha ba mươi tuổi. Cả hai người đều có vẻ thỏa mãn với thành phẩm của họ, cái sản phẩm đã thành hình trong bối cảnh mà có lễ hồi ấy họ còn chưa hình dung hết tất cả các hậu quả nó sẽ kéo theo. Dù sao đi nữa, cha mẹ tôi cũng đã chọn tên cho tôi từ trước đó rất lâu. Vậy nên tôi tên là Paul Christian Frederic Hansen. Thật khó mà có cái tên nào đậm tính Đan Mạch hơn thế. Tuy nhiên, theo luật lãnh thổ, theo huyết thống, theo bất cứ thứ gì bạn muốn và nhất là do ngẫu nhiên, tôi sẽ mang quốc tịch Pháp.
Johanes - cũng giống như bốn người anh em của ông - chào đời tại Jutland thuộc Skagen, một thành phố nhỏ 8.000 dân nằm ở điểm cực Bắc của Đan Mạch, nơi người ta tuyệt đối chỉ nói về cá ngay từ khi chào đời. Là ngư dân từ thế hệ này đến thế hệ khác, dòng họ Hansen đã góp phần mình vào sự thịnh vượng êm đềm ở cái mẩu thành phố tí hin này, vốn dường như phải bấu vào đất liền để không bị trôi dạt về phía những bờ biển không xa Kristiansand của Na Uy hoặc Göteborg của Thụy Điển là mấy. Khi thế giới thay đổi thói quen và những ưu tiên của nó, một phần anh em nhà Hansen thích nghi theo và bán tàu cá của mình để chuyên tâm vào việc chế biến bột cá, trong khi Thor, người anh cả, vẫn tiếp tục lênh đênh giữa những bãi ngầm trong vùng biển nguy hiểm ấy, nơi các du khách thích đến để ngắm nghía mũi Grenen, nơi mỗi khi thời tiết xấu thì những xung đột truyền kiếp giữa các dòng chảy của biển Baltic và biển Bắc lại trỗi dậy.
Johanes thuộc về bộ phận thiểu số trong dòng họ Hansen, nhánh của các dem der bor inde i landet, tức là “những người sống trên đất liền”. Ngay từ rất sớm, cha tôi đã quay lưng với biển, ông thích ngắm nghía những luồng ánh sáng chỉ có duy nhất trên vùng bán đảo này, những luồng ánh sáng đã thu hút những họa sĩ vĩ đại nhất của đất nước, những người đã tạo nên trường phái Skagen nổi tiếng bằng phong cách và sự chuyên cần của riêng họ. Những bức tranh vẽ phong cảnh êm đềm, những người đàn ông và đàn bà thuần phác đang làm việc, biển Bắc mù mịt, những con tàu trên biển Baltic, không gì có thể thực sự xô đổ cánh cửa của các viện bảo tàng hoặc phá vỡ các luật lệ trong Mỹ thuật. Đơn giản chỉ là những bức tranh đẹp dụng công trau chuốt, được vẽ cho các cư dân của vùng đất này, những người không đòi hỏi gì hơn thế.
Không chỉ là một bor inde i landet, khoảng năm mười hai tuổi, cha tôi còn bị tiêm nhiễm đức tin tôn giáo, môn thể thao cho đến lúc ấy vẫn hoàn toàn xa lạ với cả dòng họ. Mãi sau này, ông mới kể cho tôi những hoàn cảnh khá đặc biệt đã đưa đẩy ông đến với nghề mục sư. Đó là một câu chuyện về cát, một thứ cát lún, bị xô đẩy bởi lịch sử và gió.
Ở điểm cực Bắc của bán đảo, hơi tách biệt với thành phố, vào thế kỷ thứ 14, một nhà thờ dành cho các ông chủ của đám thủy thủ được xây dựng cách biển vài bước chân. Với chiều dài 45 mét, tháp chuông đầu hồi với các bậc thang dẫn lên độ cao 22 mét, 38 hàng ghế, đó là một công trình đồ sộ và độc nhất vô nhị trong khắp vùng Tutland. Hẳn là vì tiếp xúc quá nhiều với bụi nước, quá gần với hơi thở của những cơn bão, trơ trọi trước những trận gió thốc, tòa nhà nhanh chóng phải chịu những cơn “say cát”, và khoảng năm 1770, cát dần dần xâm chiếm khoảng sân trước nhà thờ rồi tràn vào gian giữa, những đụn cát háu đói miệt mài đêm ngày gặm nhấm và đẩy lùi các bức tường của nhà thờ. Năm 1775, một trận bão khủng khiếp bít kín tất cả các lối vào, và người dân đã phải đào đường hầm để đi vào bên trong nhà thờ và hành lễ ở đó. Họ làm thế thêm hai mươi năm nữa, hết tuần này đến tuần khác, họ dọn sạch cát khỏi các bức tường và các lối ra vào. Nhưng gió vẫn không ngừng thổi, và cát mỗi ngày một chất chồng thêm. Và thế là, một ngày kia, nhà thờ bị chìm lấp, Chúa Trời đành thừa nhận thất bại và từ bỏ đấu tranh, vị giáo sĩ đóng cửa nhà thờ vĩnh viễn sau khi bán đấu giá toàn bộ đồ đạc bên trong. Ngày nay, cát đã chôn vùi, bao phủ toàn bộ công trình. Chỉ còn 18 mét của tháp chuông nhô lên khỏi các đụn cát.
Chính là khi nhìn thấy nhà thờ bị chôn vùi ấy, cái phần sót lại của đức tin ấy, mà cha tôi mong muốn trở thành mục sư. “Con biết không, cha tin rằng hồi ấy cha không hề có chút đức tin nào, thậm chí cha còn chẳng biết từ đó có nghĩa là gì. Cha cảm thấy một nỗi xúc động thuần túy duy mỹ trước cảnh tượng độc nhất vô nhị và khiến người ta choáng váng ấy, cảnh tượng mà con chỉ thấy có một lần trong đời. Một bức vẽ theo trường phái Skagen thực thụ. Nếu ngày ấy, ở nơi ấy cha nhìn thấy một nhà ga bị cát vùi lấp và chỉ còn nhìn thấy đầu hồi cùng chiếc đồng hồ, có lẽ sau đó cha đã trở thành nhân viên đường sắt cũng nên.” Cha tôi là thế, một bor inde i landet thì hẳn nhiên rồi, nhưng cha còn ý thức được rằng mình phải không ngừng lèo lái trong nỗi ngờ vực thường trực, khi thì bị thu hút bởi tháp chuông mong manh của một nhà thờ hoang phế, lúc lại bị quyến rũ trước nhịp sống mạnh mẽ và đầy phiêu lưu của ngành đường sắt.
Anna Madeleine Margerit, mẹ tôi, đã đến Skagen hai lần. Ở đó, mẹ gặp gỡ tất cả các thành viên của gia tộc Hansen, cả đàn ông lẫn đàn bà đều có vóc dáng giống hệt nhau để có thể chống chọi với khí hậu khắc nghiệt và sống như thế trong suốt nhiều thế kỷ. Mọi người nấu đãi mẹ món cá bơn phúc bồn tử và mứt việt quất, món cá chình cuốn, món pramdragergryde[1], mẹ uống một chút rượu akvavit rồi hành hương đến nhà thờ bị cát phủ, nơi mẹ chụp ảnh cha và tất cả các thành viên còn sống của gia tộc Hansen xếp hàng đằng trước phần còn lại của tháp chuông. Trong hành trình trở về, mẹ nói với cha về cảm nhận của mẹ khi nhìn thấy bộ xương của đức tin tôn giáo nhô lên khỏi mặt đất ấy. “Làm sao anh có thể nảy ra mong muốn trở thành mục sư sau khi đi thăm một thứ như vậy nhỉ? Tất cả chỉ gợi lên nỗi bất lực, sự bỏ mặc và đầu hàng của Chúa Trời cùng Giáo hội. Nếu là anh, em tin mình sẽ nhập bọn với các anh em trong gia đình, cưới một cô gái trong vùng giống như họ và dành toàn bộ thời gian để nghiền bột cá.” Có vẻ như lúc ấy, theo lời kể của Anna mẹ tôi, cha tôi đã gục gặc đầu hồi lâu trước khi thổ lộ với mẹ, cùng nụ cười mục sư của cha: “Anh đồng ý với em, trừ việc cưới một phụ nữ giống với những người anh em của anh.”
Anna Margerit sinh ra ở Toulouse. Cha mẹ của bà, những người tôi chưa từng quen biết, khai thác một rạp chiếu phim nhỏ, được đặt cái tên khiêm tốn là Le Spargo - tiếng La tinh, tức “Tôi gieo hạt” -, hồi đó được ghi danh bằng cái nhãn hiệu mới toanh “nghệ thuật và thử nghiệm”, và là nơi sau đó chỉ giới thiệu những bộ phim được mệnh danh là quý tộc như Les Gauloises bleues[2], Blow Up[3], Teorema[4] hoặc Zabriskie Point[5]. Ngay từ thuở ấu thơ đã chìm đắm trong những hình ảnh ấy, lớn lên giữa những khúc nhạc nền không dứt, những giai điệu thai nghén, những nụ hôn vô luân và những bi kịch không thể hiểu nổi ấy, mẹ tôi trở thành một cuốn bách khoa từ điển về điện ảnh, bà hiểu tường tận mọi ngóc ngách, các kẽ hở của thế giới này, và có thể nhắc tên người dựng một phim của Pabst, người soạn nhạc trong một phim của Hawks hoặc kỹ thuật viên ánh sáng trong một phim của Epstein. Tựu trung lại, mẹ quan tâm nhiều đến các nghề nghiệp trong lĩnh vực điện ảnh, các chủ hãng phim, các đạo diễn, các nhà sản xuất hơn là kỹ năng quá dễ đoán của các diễn viên.
Vào tháng Tư năm 1960 ấy tại Toulouse, gia đình Hansen giống với một gia đình tốt đẹp nhất và truyền thống nhất của thời đại. Một người chồng chừng mực và biết quan tâm, cuốn hút đến mức khiến người ta bối rối, đã nói được một thứ tiếng Pháp rõ ràng và sát nghĩa mặc dù vẫn thấp thoáng chút âm sắc ngoại lai của vùng biển Bắc, người đã tìm được chỗ đứng đầu tiên với tư cách mục sư phụ trợ tại ngôi giáo đường cũ trên phố Pargaminières và luôn thể hiện sự thống nhất giữa những lời thuyết giảng với cách ứng xử hằng ngày. Một người vợ dường như yêu chồng đến say đắm, biết kết hợp nhan sắc tự nhiên mà mọi người đều thống nhất đánh giá là tuyệt đẹp với những nét duyên dáng đầy tri thức cũng gây ấn tượng mạnh không kém, dành thời gian để dạy dỗ con trai và lên chương trình cho một rạp chiếu phim danh giá mà bà tham gia quản lý cùng ông bà ngoại tôi cho đến tận năm 1958. Còn về cậu bé Paul Christian Frédéric, tuy vẫn còn quá sớm để đánh giá về cặp giò và đôi cánh tay khẳng khiu gầy guộc, nhưng cậu đã biết thực hiện vào những giờ cố định những gì mọi người yêu cầu cậu làm, thể hiện cả một danh mục những quy tắc về phép lịch sự, và Chủ nhật nào cũng đi cùng cha cậu đến giáo đường để lắng nghe ông thuyết giảng về sự vận hành của thế giới cũng như những điểm yếu tội lỗi của nó.
Chỉ có một khoảng tối mờ trên bức tranh tĩnh vật, khoảng tối mà hẳn là trường phái Skagen đã xem nhẹ ấy, đó là mẹ tôi, vốn hoàn toàn khép kín với những gì liên quan đến Giáo hội và đức tin, thậm chí còn ương bướng cả với ý niệm về tội lỗi, không bao giờ đặt chân hay đặt gót đến giáo đường. Nếu đã như vậy, tại sao mẹ lại chấp thuận chung sống với một mục sư Tin lành trẻ tuổi? Sau này, khi có đôi lúc tôi dò hỏi mẹ về điều ấy, bà luôn dành cho tôi một câu trả lời khiến tôi vừa thấy an tâm lại vừa tò mò: “Cha con đẹp trai quá.”
Cũng có lúc mẹ nổi nóng trước mặt chúng tôi, khi mọi người cao giọng một chút bên bàn ăn, và cha tôi ném cho mẹ câu châm ngôn cay độc mà ông rất ưa chuộng và tôn sùng: “Cầu mong em được sống dù chỉ vài giờ trong sự hoàn hảo của đức tin.” Sau này tôi mới hiểu khi ấy Anna Madeleine cảm thấy thế nào. Đó là một sự ân cần vừa ngọt ngào đến không thể chịu nổi vừa hạ cố đến thống thượt, mà bà thường đáp lại bằng một câu trả lời bất di bất dịch: “Làm sao anh có thể nói ra những điều ngu ngốc đến thế?”
Tôi thực lòng tin rằng khi đảm nhiệm chức vụ đầu tiên ấy, vì lo lắng muốn làm vui lòng và gợi lên một sự đồng thuận rộng khắp dù chỉ trên bề mặt, mục sư Hansen, tức cha tôi, đã tỏ ra mực thước và tẻ nhạt đến mức khiến người ta phải thất vọng. Nhưng người ta có thực sự đòi hỏi một thứ gì đó khác ở ông không?
Tôi có thể nói rằng hồi ấy, bất chấp những rạn nứt nhỏ nhoi hằng ngày đó, cha mẹ tôi vẫn hạnh phúc cùng nhau chia sẻ cuộc sống lứa đôi. Tôi đã luôn và vẫn không biết họ lấy đâu ra cái sự đồng thuận độc đáo ấy. Mặc dù đã hỏi họ vài câu mà tôi nhanh chóng cảm thấy là chúng khiến họ khó xử và bối rối, tôi không bao giờ biết cha mẹ đã gặp nhau ở đâu cũng như trong hoàn cảnh nào, và cũng không biết vì trò đùa nào của định mệnh yêu đương mà một anh chàng gốc Skagen được lôi ra khỏi vùng cát lún quê hương và một thành viên của dòng tu điện ảnh giàu có lại có thể vượt qua 2.420 ki lô mét ngăn cách giữa họ vào năm 1953, vượt qua cả rào cản về ngôn ngữ, để hoàn toàn thích thú với việc chơi xỏ lại cuộc đời một cú ra trò.
Năm năm sau, năm 1958, thần chết lần đầu tiên bước vào gia đình tôi. Giữa một đêm hè, sau khi chịu một cú va chạm cực mạnh, chiếc DS 19 màu đen của cha mẹ Anna vỡ tan nát trên một trong những quốc lộ đẹp nhất của xứ này, con đường miền Nam với hai hàng tiêu huyền uy nghiêm chạy dọc hai bên, ngả đầu vào nhau tạo thành một thứ mái vòm, tán lá sum sê dệt thành một chiếc ô xinh xắn đầy che chở bảo bọc.
Hôm ấy ông bà ngoại tôi đang trên đường trở về từ lễ hội Thành phố Carcassonne. Trong bầu không khí ấm áp của buổi tối bị cầm tù đằng sau những tháp canh và thành lũy, họ đi xem Trường ca Roland, một sử thi anh hùng ca với 9.000 câu thơ, được Jean Deschamps đóng vai và dàn dựng. “Vua Charles, hoàng đế Magne của chúng ta, Bảy năm tròn ở lại Tây Ban Nha.” Có thể họ qua đời khi những câu chữ đó vẫn vang vọng trong đầu, chúng nảy lên trong hộp sọ của họ do tác động của những cú va chạm liên tiếp, những câu ngân nga nhấn nhá bíu chặt vào trí nhớ của họ, xoay vòng lộn xộn như âm thanh phát ra từ một chiếc đĩa hát bị xước.
Khoảng một giờ sáng, điện thoại reo vang và một làn sóng đau đớn, u buồn đột ngột tràn vào căn hộ. Hiển nhiên là tất cả những gì tôi đang kể ở đây đều do sau này cha mẹ tôi kể lại, bởi vì tôi chẳng còn lưu giữ trong đầu bất kỳ hình ảnh nào, bất kỳ âm thanh nào đặc trưng cho những khoảnh khắc ấy, mặc dù đó là những khoảnh khắc đã làm gia đình chúng tôi đảo lộn.
Tại Naurouze, nơi chia dòng của con kênh Midi, chiếc DS trệch khỏi đường đi và đâm trực diện vào một cây tiêu huyền rồi vỡ tung theo đúng nghĩa, nóc xe bằng sợi thủy tinh văng xuống hố sâu ở cánh đồng bên cạnh, còn xác ông bà tôi thì ngược lại, văng sang một khoảnh đất ở phía bên kia quốc lộ.
Ở cái nơi những dòng nước đổ dồn về rồi lại tách dòng ấy, ở cái điểm chung nhau giữa các thế giới ấy, có hai khối đá khổng lồ, chỉ cách nhau vài xăng ti mét. Huyền thoại kể rằng thời điểm hai khối đá này hợp nhất làm một cũng sẽ là ngày thế giới này chấm dứt.
Đêm ấy, hai khối đá vẫn giữ khoảng cách với nhau, thế nhưng vợ chồng nhà Margerit đã chạm đến ngày tận thế. Họ được chôn cất theo nghi thức Cơ đốc, sau một buổi lễ được cử hành tại giáo đường Saint-Étienne với sự tham gia của cha tôi, tất nhiên, hẳn là ông rất xúc động nhưng nhất là vẫn chăm chú để ý tới vẻ long trọng khoa trương, màn lễ nghi gian xảo và những trò lừa khéo trong ganh đua.
Rạp chiếu phim Le Spargo đã mất hai người sáng lập, nhưng lại được thừa kế bởi một nữ quản lý toàn thời gian mới, mẹ tôi, người dường như đã sẵn sàng đồng thời đã được vũ trang đầy đủ để viết một câu chuyện mới cho điện ảnh nơi đây.
1958 là một năm tốt lành với Le Spargo. Chú tôi[6], Vertigo[7], Touch of Evils[8] và Cat on a Hot Tin Roof[9] kéo khán giả đến đông nghịt phòng chiếu trong suốt nhiều tuần và giúp họ chịu đựng được những chiếc ghế bọc nhung cũ kỹ cùng những tay vịn cứng quèo. Anna cho lắp thêm một máy chiếu Philips mới có trang bị đèn xenon, hệ thống âm thanh được cải tiến cùng một màn hình có độ phản xạ tốt hơn. Với công cuộc cập nhật này, rạp chiếu phim Le Spargo nhỏ bé đã được làm đẹp hơn từ bên trong. Những chăm chút bề ngoài sẽ được tiến hành sau.
Giống như những rạp chiếu phim nhỏ, những địa điểm tín ngưỡng cũng đang trải qua những ngày tươi đẹp cuối cùng. Thế giới đang thay đổi, và cho dù quá trình đảo lộn này mới chỉ bắt đầu, cha tôi đã phải vật lộn, viết đi viết lại những bài thuyết giáo của mình để giữ chân một cử tọa chỉ đòi hỏi được khám phá và trải nghiệm những thú giải trí khác, bớt ước lệ nhưng lại thoải mái hơn.
Khoảng năm tôi lên mười, bất kỳ người nào biết để ý đều đã nghe thấy tiếng răng rắc phát ra từ những khớp bản lề của thế giới cũ. Hồi ấy chúng tôi sống trên kè Lombard, trong một căn hộ cũ có trần cao thoáng mát. Những ô cửa sổ rộng bên trên có cửa chớp bằng gỗ nhìn ra dòng sông có mặt nước đổi màu theo từng mùa. Vào mùa hè, những cây tiêu huyền cổ thụ tỏa bóng mát rợp mỗi buổi chiều tà, và vào ban đêm, chúng tôi mơ hồ nghe thấy tiếng ầm ì từ sông Garonne vọng đến.
Trường trung học Pierre-de-Fermat cách sông và nhà chúng tôi không xa, nhưng theo ý tôi, nó lại nằm quá gần giáo đường nơi cha tôi làm việc. Và trong bất kỳ trường hợp nào, tôi cũng không muốn người ta biết rằng cái gã trông như tay chơi cao lớn vẫn lao chạy rầm rầm trên các bậc thang của cái nhà thờ kỳ cục ở đầu phố kia, cái gã vận bộ trang phục màu xám không tì vết của mục sư kia, chính là cha tôi. Ở trường, đối với mọi người, cha tôi là “thương nhân nhập khẩu bột cá”. Amen. Tôi đã thú nhận với cha về lời nói dối nhỏ nhặt này, và cầu xin ông đừng cải chính nếu chẳng may có ai đó hỏi ông về chủ đề ấy. “Lẽ ra con không nên xấu hổ về nghề nghiệp của cha mình. Chẳng có gì là nhục nhã ở đây cả. Thậm chí còn ngược lại. Ở Đan Mạch, con cái của các mục sư rất tự hào về cha họ.”
Kể từ ngày đó, mẹ tôi là người chịu trách nhiệm quản lý việc học hành của tôi và gặp gỡ giáo viên để giải quyết những sự vụ hằng ngày. Còn Johanes, ông không bao giờ nhắc lại chủ đề ấy. Nhưng một tối, tôi bắt gặp trên bàn mình một mẩu giấy nhắn mà cha đặt ở đó cho tôi đọc. Khi ấy, tôi vẫn còn là một đứa trẻ, và khi đọc xong, tôi cảm thấy vô cùng phân vân, đồng thời phảng phất một nỗi buồn man mác mà tôi khó lòng biết được nó bắt nguồn từ đâu. Trên mẩu giấy nhắn, cha tôi viết: “Tôi chỉ là một cậu bé con thích chơi đùa, kiêm một mục sư Tin lành khiến cậu bé con kia chán ngán. André Gide.”
Ngày 31 tháng Mười hai, khoảng 20 giờ, một vụ ẩu đả dữ dội có sự tham gia của khoảng chục tù nhân thuộc các băng đảng đối địch đã nổ ra trong các hành lang ở khu chúng tôi, thành ra toàn bộ tù nhân trong khu phải thực hiện quy trình cách ly trong xà lim. Những chiếc xe cấp cứu đi vào sân chính của nhà tù để đón hai gã hiếu chiến bị thương nặng do dao đâm. Những hoạt động vui vẻ nho nhỏ để ăn mừng đêm cuối năm này đương nhiên bị hủy bỏ sạch.
Đến nửa đêm, trong lúc đa số tù nhân đều đã lên giường, chúng tôi nghe đâu đây có tiếng một vật kim loại nện vào cửa xà lim. Đó là một âm thanh nặng nề, trầm đục, đều đặn, vang vọng trong các hành lang trống trải. Thế rồi một tiếng đập khác hùa vào với tiếng đập ban đầu. Và tiếng đập thứ ba. Chỉ trong vòng một phút, toàn bộ khu phòng giam cùng hòa vào âm thanh ầm ĩ ấy, rồi đến lượt tất cả các chái của nhà tù. Cứ như thể nhịp đập của một quả tim khổng lồ bằng thép đang trồi lên, vươn về phía bầu trời. Bài thánh ca gồm những lời thỉnh cầu của những kẻ bị ruồng bỏ. Tôi chưa từng nghe thấy âm thanh nào như thế. Patrick chẳng khác gì một con quỷ, có thừa sức lực, khăng khăng muốn đập vỡ bức vách dù biết rõ là nó rất chắc chắn. Gã nhìn nó chằm chằm, mỉm cười với nó rồi vận hết sức mà đập. Nhìn gã miệt mài như thế, nghe âm thanh ầm ĩ ấy, tôi nổi hết cả da gà. Trên thực tế, chúng tôi đang nhất loạt giáng đòn vào rất nhiều thứ khác nhau. Vào những nỗi đau khổ vốn là của riêng mỗi cá nhân. Vào sự khinh ghét mà chúng tôi phải chịu đựng. Vào những người thân vắng mặt. Vào những lão thẩm phán ung dung thư thái, những tay nha sĩ vội vàng, và toàn bộ cái thế giới khó xác định mà Patrick Horton, dù sớm hay muộn, cũng sẽ đảm đương việc “chẻ làm đôi”. Trong đêm đầu tiên của năm 2010 ấy, chúng tôi đơn giản là đã trở thành một lũ tù nhân giống hệt những chiếc trống, trong vùng bụng mệt mỏi của cái nhà tù đông cứng giữa băng giá này, ngay bên bờ một dòng sông băng giá.
Dần dần, như thể có một bàn tay vô hình vặn nhỏ chiết áp âm thanh, những cú đập trở nên yếu ớt rồi tắt lịm trong đêm tối.
Đêm đó, lính gác không đi tuần lượt nào. Các quản ngục tụ họp với nhau, còn chúng tôi cũng sum vầy với số năm ở tù của mình. Bớt một năm.
Hôm nay là ngày 3 tháng Một năm 2010. Ngày mai sẽ là tròn mười bốn tháng tôi bị giam trong tòa nhà này. Patrick đang vẽ. Nhìn từ sau lưng, trông gã chẳng khác nào một đứa trẻ đang cúi người trên tác phẩm của mình, mải miết tái tạo một mảnh của thế giới với tất cả những hình khối và màu sắc của nó. Patrick vẽ rất thường xuyên. Những bố cục ngây ngô, những phong cảnh, những khuôn mặt, và tất nhiên, những chiếc xe mô tô mà gã ra sức tái hiện càng theo chủ nghĩa hiện thực càng tốt. Thỉnh thoảng, giống như một học sinh trung học, gã tô phóng lại các chủ thể và sau đó có thể dành một, hai giờ đồng hồ liền để chép lại rồi dùng bút chì tô màu. Nhìn gã sát nhân lực lưỡng đó cố gắng thể hiện phần tốt đẹp nhất của con người mình trong những công việc trẻ con như thế khiến ta cảm thấy có chút mủi lòng, đồng thời cũng vô cùng kinh hãi vì băn khoăn về những quanh co lắt léo tồi tệ trong tâm hồn con người.
“Tao nhớ đến câu chuyện của mày hôm trước với gã giám sát viên tâm lý. Mày đã hành động sai.” Vừa vô cùng cẩn trọng đưa bút theo nét vẽ nhỏ xíu trên tờ giấy, Patrick vừa chỉ bảo tôi về cách thức hành xử trước mắt một giám sát viên. “Chẳng phức tạp gì đâu. Mày nói với hắn chính xác những gì hẳn muốn nghe. Những câu rất đơn giản. Tôi hối hận muốn chết vì những gì mình đã làm. Và tôi thừa nhận là mình đã vượt quá giới hạn. Hơn nữa tôi không có gì để biện hộ. Ông bà bố tôi cực trong sạch, họ không dạy dỗ tôi thành người thế này. Anh thấy đấy, tôi tin rằng nhà tù đã rất hữu ích với tôi. Ở đây tôi học được sự tôn trọng, và mọi người đã giúp tôi sáng mắt trở lại, trước đây đó chỉ là hai cái hốc tối. Tôi tin rằng mình đã sẵn sàng ra ngoài và theo một khóa đào tạo nghề thực thụ. Tôi rất muốn lái xe buýt. Nếu không thích xe buýt thì mày cứ việc thay bằng thứ gì mày thích. Cái cần thiết là phải làm cho gã kia hài lòng, khiến hắn có cảm giác là mày đã lột truồng bản thân trước mặt hắn, và mày sẵn lòng phụng sự. Mày hiểu rõ chưa? Nguyên tắc vô cùng đơn giản: mày phải thuyết phục hắn rằng mày không có tính toán mưu đồ gì. Đưa cho tao cục tẩy. Mẹ kiếp, tao cứ nói chuyện là lại tô chệch ra ngoài.”
Tính tổng cộng các hình phạt, trong cái tuổi đời vẫn còn rất trẻ của gã, Patrick Horton đã ở tù năm năm. Về phần mình, tôi không biết khi nào mình sẽ ra khỏi đây. Đối với tôi, hai năm tù cho sai lầm tôi đã mắc phải có vẻ là một hình phạt tương xứng, căn cứ theo mức độ của sai lầm ấy. Một sai lầm không nghiêm trọng cũng không phải là vô hại, theo ý tôi. Nhưng trong trường hợp của tôi, một vấn đề quan trọng không cho tôi áp dụng cái định lý của Horton. Mặc dù tôi không có vướng mắc gì nếu phải thẳng thắn bày tỏ nỗi tiếc nuối hay hối hận về hành vi của mình nếu thực hiện nó với một công dân bất kỳ nào đó, thì ngược lại, tôi thấy hành vi ấy hoàn toàn thích đáng khi được áp dụng cho nạn nhân cụ thể mà tôi đã tấn công. Dù có chuyên gia đánh giá hay không, thì đối với người đàn ông ấy, tôi sẽ không bao giờ nói lời cảm ơn hay xin lỗi nào hết.
Ổ áp xe đau đớn của Patrick chỉ còn là một kỷ niệm đáng ghét. Nhưng tối nào cũng vậy, trước khi đánh răng, gã luôn nhiệt tình cho tôi xem cái hố còn lại trên vùng nướu sau khi chiếc răng kia bị nhổ bỏ. “Tao tự hỏi không biết bây giờ cái răng chết tiệt ấy đang ở đâu. Dù sao, nó cũng từng là răng của tao. Dù có sâu hỏng thì cũng là răng của tao. Hơn nữa, trên đó còn có phần răng chụp. Lẽ ra tay nha sĩ phải trả nó cho tao. Tao đã trả cả mớ tiền cho cái mẩu sứ chết tiệt ấy. Biết đâu chúng chẳng nhặt lại nó để chụp những cái răng khác hoặc thậm chí là những thứ khác. Mày nghĩ sao?”
Tôi quý Patrick. Nhưng gã là người thất thường khó đoán và đôi khi có thể đưa ra những ý tưởng kỳ cục hoặc bị ám ảnh với những khái niệm hoàn toàn rồ dại. Vài ngày trước Giáng sinh, tôi thấy gã trò chuyện nghiêm túc hồi lâu với một lính gác, người dường như cũng cùng hệ suy nghĩ với gã, giải thích rằng gã có một anh bạn có khả năng uốn cong dĩa từ xa. Và trước vẻ mặt của anh chàng thính giả dường như đã hoàn toàn bị chinh phục, gã vừa diễn tả lại cảnh tượng đó vừa khẳng định rằng chính gã đã tận mắt trông thấy chiếc đĩa xoắn vặn trên bàn giống hệt một sợi mì ống. “Cái đó gọi là siêu năng lực. Tôi đã tra cứu nhiều tài liệu về chủ đề này. Thằng bạn tôi ấy, hắn làm thế nhiều năm rồi. Thật ra, hắn không thể di chuyển các thứ, ý tôi là khiến chúng xê dịch sang phía này hay phía khác. Chuyện đó thì không thể. Nhưng hắn có thể uốn cong bất cứ thứ gì. Thật ra thì thứ đó cũng không được quá dày. Thìa hoặc dĩa thì không vấn đề. Nhưng tuốc nơ vít chẳng hạn, thì hắn không uốn được đâu. Tôi đã nhiều lần chứng kiến hắn tập trung tâm trí vào một cái tuốc nơ vít chết tiệt. Hắn có thể dành ra nguyên một, thậm chí hai giờ đồng hồ. Chẳng tích sự gì. Hơn nữa, rốt cuộc rồi hắn kiệt sức, mệt bã người, mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Rồi vợ hắn giấu chúng đi để hắn khỏi nhìn thấy, cái mớ tuốc nơ vít ấy. Tôi từng đọc được rằng ở Ấn Độ cũng có một gã như thằng bạn tôi, gã có khả năng mở cánh cửa tủ lạnh và làm quay bánh xe đạp.”
Thời gian dần trôi, rốt cuộc tôi cũng quen với những cơn cao hứng kỳ quặc của Horton, những lần tỏa sáng không thể đoán trước cũng có thể lụi tắt nhanh chóng do thiếu nhiên liệu phù hợp hoặc do không có người đối thoại xứng tầm.
Vào mùa này, cứ tầm 16 giờ 30 là trời tối. Cũng gần như trùng khớp với thời điểm người ta phục vụ chúng tôi bữa tối, thời điểm chúng tôi ăn số thực phẩm ít ỏi, không nói gì nhiều với nhau. Sau đó là một màn sương mù u buồn buông xuống, mỗi người dường như tự cô lập mình bên trong lớp sương mù bảo bọc ấy. Đó là những giờ phút tồi tệ trong ngày, những xế chiều khi người bên ngoài vui mừng được trở về nhà sau khi rời nơi làm việc, hiên ngang thách thức cả băng tuyết lẫn cái lạnh. Ở L’Excelsior, đó là thời điểm tôi kết thúc công việc và chờ Winona trở về căn hộ. Rồi chúng tôi thường đi dạo bộ cùng Nouk trong công viên Ahuntsic. Được giải thoát khỏi mọi ràng buộc, chúng tôi liền có cảm giác mình đang bồng bềnh trong thời gian, được sở hữu hoàn toàn cuộc sống của chính mình, mỗi bước chân chúng tôi đều tỏa ra sự vô tư lự và những phân tử hạnh phúc, trong khi cô nàng chó lăn tròn bộ lông trắng của nó trong những lớp áo choàng bằng tuyết. Có những lúc tôi nhắm mắt và cố tái hiện những buổi dạo chơi buổi tối trong vườn Địa đàng ấy, nhưng lần nào cũng vậy, những giọng nói hoang dại cất lên trong các hành lang và các xà lim lại làm đổ sụp cái công cuộc tái hiện kiên nhẫn và mong manh mà tâm trí tôi đang cố gắng thực hiện. Đó chính là khi người ta ý thức được thế nào là một án tù. Sự bất lực kinh niên trong việc tự giải thoát, dù chỉ là trong khoảng thời gian đủ cho một buổi đi dạo cùng những người đã chết.
Tôi đã kể rằng họ có thể đến thăm tôi ở đây. Nhưng tôi chưa bao giờ sum họp được với họ ở bên ngoài.
Đó là giờ của Patrick, cái thói quen hằng ngày mà tôi không thể nào quen nổi. Gã nhắc mảnh vải đậy trên nắp bồn cầu, kéo khóa quần, ngồi xuống rồi vừa chăm chú nhìn tôi vừa ra sức rặn đến mức những mạch máu trên mặt gã phồng lên. Âm thanh của một viên cuội mà ta ném xuống làn nước sâu thông báo đã kết thúc lô hàng đầu tiên. “Tao vẫn không biết khi nào thì tao phải ra tòa vì chuyện của mình. Tao tự hỏi không biết có nên thay luật sư không. Tao không thích cái tay đang cãi cho tao. Cái loại kép hát đi giày tua rua. Tao thề với mày. Lần vừa rồi, đồ ngu ấy mò mặt đến phòng xử, chân đi giày tua rua, lại còn xỏ tất cheer-leader[10] nữa chứ.” Một khoảng im lặng đi kèm một đợt rặn mới, tiếng viên sỏi rơi xuống nước, gã thở ra, khuôn mặt lộ rõ vẻ thư thái. “Tao sẽ cho dẹp tay này, tao không cảm nổi cái thể loại ấy. Không, thứ tao cần ấy, phải là một tay tàn bạo, kiểu luật sư mafia chỉ cần bước vào phòng xử là đã khiến thẩm phán phải e ngại rồi. Mày từng thấy đấy, một tay điên khùng như Javier Bardem hoặc tay kia, cái tay ấy đấy... Tommy Lee gì đó. Chứ không phải một ả vũ nữ đi giày múa như tay này.”
Patrick đứng dậy, xoay người lại, xem xét độ tương hợp giữa những viên sỏi, kích hoạt cơ chế rồi bằng một đợt xả nước, gửi những viên sỏi song sinh vào hầm giam dành cho sự lãng quên.
Ngồi trên mép giường, tôi cố gắng nghĩ đến chuyện khác, cố gắng quên đi tình trạng xâm phạm cuộc sống riêng tư mà người ta áp đặt lên chúng tôi, tình trạng mà dường như Patrick rốt cuộc đã quen. Tôi cố gắng tự thuyết phục bản thân rằng tất cả những chuyện này sẽ sớm kết thúc, và rằng trong lần phỏng vấn tới, tôi sẽ chỉ cần đưa ra những câu trả lời đơn giản cho những câu hỏi phức tạp, thế rồi, với sự ngây thơ của một kẻ đạo đức giả lão luyện, đưa ra lời thú tội rõ ràng nhất.
Trong lúc chờ đợi, tôi quan sát Horton trải tấm vải nhỏ màu trắng lên trên nắp bồn cầu. Tôi những muốn được như gã. Nhưng tôi không làm được. Bất chấp thời gian, đó vẫn là điều bất khả thi.
Trong các hành lang, vẫn còn nhiều chuyện xảy ra. Có thể đoán được âm thanh ồn ào của một vụ xô đẩy, những tiếng la hét giận dữ, những lời chửi rủa, rồi tất cả tĩnh lặng trở lại. Màn đêm và những viên thuốc ngủ, được phân phát một cách rộng rãi, bắt đầu thực hiện công việc của chúng. Chẳng bao lâu nữa, cái bụng của nhà tù sẽ có thể tiến hành công cuộc tiêu hóa chậm rãi của nó, và cũng chậm rãi như thế, tất cả những con người đang sống ở cái nhà tù này, cả họ nữa, trong một đêm ngắn ngủi, cũng sẽ biến mất trong hầm giam dành cho sự lãng quên.
***Line Note Zone***
Chú thích:
[1] Món ăn truyền thống của nông dân Đan Mạch, bao gồm thịt lợn, thịt bò, các loại rau thái to và thịt lợn hun khói.
[2] Phim của đạo diễn người Pháp Michel Cournot, công chiếu năm 1968.
[3] Phim của đạo diễn người Ý Michelangelo Antonioni, công chiếu năm 1966.
[4] Phim của đạo diễn người Ý Pier Paolo Pasolini, công chiếu năm 1968.
[5] Phim của đạo diễn người Ý Michelangelo Antonioni, công chiếu năm 1970.
[6] Phim của đạo diễn Pháp Jacques Tati, công chiếu năm 1958.
[7] Phim của đạo diễn Mỹ Alfred Hitchcock, công chiều năm 1959.
[8] Phim của đạo diễn Mỹ Orson Welles, công chiếu năm 1958.
[9] Phim của đạo diễn Mỹ Richard Brooks, công chiếu năm 1958.
[10] Người cổ vũ trong các hoạt động thể thao - tiếng Anh trong nguyên bản.