← Quay lại trang sách

11. Trở lại Skagen

Ở L’Excelsior, mỗi giờ, mỗi ngày làm việc đã trở thành một gánh nặng đối với tôi. Tôi tiếp tục leo lên mái nhà, thực hiện những chuyến đi tuần, lắng nghe những chiếc rotor, và cân muối bằng cân tiểu ly đúng theo cách người ta vẫn làm ở sân sau của các nhà hàng cao cấp. Sedgwick vẫn khăng khăng đòi kiểm tra cuốn sổ chi tiêu rồi soạn thảo và rải khắp chỗ này chỗ kia những tờ nhận xét của ông ta. Kieran Read, lúc này đã nghỉ hưu, thỉnh thoảng lại dành một buổi tối ở cùng tôi, để cố gắng kéo tôi đến tận một nhà hàng Anh điêng hoặc đi xem một bộ phim Argentina. Nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy được xoa dịu đến thế khi gặp lại cô nàng chó Nouk của mình, mỗi lần tôi về nhà, nó đều đón chào tôi như thể tôi vừa xong một chuyến thám hiểm dài ngày.

Đôi khi tôi nghĩ đến ông Seligman, tự hỏi liệu đâu đó trong thành phố này có tồn tại một giáo đường nơi ta có thể cải thiện khả năng thực hành cảnh góa bụa, cũng giống như trong môn đánh gôn hay chơi quần vợt, một giáo đường nơi vị giáo trưởng sẽ tuân thủ triết lý cơ bản của anh bạn Horton: “Cuộc đời cũng giống như đám nghẽo tồi, con trai ạ: nếu nó ném con xuống đất, hãy ngậm miệng rồi lập tức cưỡi lên lưng nó một lần nữa.”

Trái với mọi dự đoán, vào năm 2007, chính công việc đã giúp tôi gượng dậy, giành lại đôi chút phẩm giá, đấu tranh với những ý tưởng điên rồ đầy độc đoán của Sedgwick. Vào mùa đông, sau một Chủ nhật làm việc cật lực dưới tầng hầm, tôi đã cấp được nước nóng trở lại cho toàn bộ tòa nhà ngay trong tối đó. Ngay giữa tháng Tám, sau bảy mươi hai giờ đo đạc và điều chỉnh liên tục, tôi đã cứu được nơi tắm táp của sáu mươi tám chủ sở hữu cùng 230.000 lít nước trong bể bơi, mà vài ngày trước đã bị công ty phụ trách việc bảo trì một hệ thống mới cho rằng chỉ có thể xả ra cống. Trong vài tháng, trước vẻ bàng hoàng của cái gã vẫn tưởng mọi chuyện đã chấm hết với tôi, tôi trở lại là người tạo ra phép mầu, anh chàng “Edward có bàn tay kéo”[1] tạo dáng cho cây cối bằng dây thép, thiết lập kỷ luật cho các đường ống và hồi sinh những khối nước.

Tối tối, khi trở về căn hộ, tôi đột ngột bị lôi trở lại cái mảnh đất ấy, và cánh cửa nhà tôi mở ra một vùng nội địa bị tàn phá kể từ ngày 12 tháng Tám năm 2006. Tôi nấu thứ gì đó để ăn, rồi Nouk và tôi, ngồi cạnh nhau, cùng chia sẻ bữa ăn đựng trong mấy cái bát tô.

Mùa đông năm 2008 có lẽ là một trong những mùa đông nhiều tuyết nhất trong lịch sử đất nước Canada. Tại Québec, tuyết rơi dày đến 2,5 mét trong suốt mùa, và ở Montréal cũng vậy. Tôi đã phải dùng chiếc máy thổi tuyết nhỏ hai lần mỗi ngày để giải tỏa các lối ra vào L’Excelsior. Để kiểm tra các quạt thông gió trên mái nhà, tôi phải đào những đường hào thực sự trong những đống tuyết, những con đường mòn không thể thiếu mà sáng nào tôi cũng phải dọn dẹp bằng xẻng. Chủ thể duy nhất vui mừng trước những trận tuyết rơi không ngừng đó, chính là Nouk, và trong công viên Ahuntsic, nó không lao xuống hồ nữa mà lăn lộn, thậm chí đôi khi còn biến mất giữa những núi tuyết trắng tinh khôi, để rồi sau đó lại chui ra và tiếp tục chạy cho đến hụt hơi.

Mùa hè năm ấy cũng là một mùa hè cực đoan. Cả về nhiệt độ lẫn độ ẩm. Có cảm giác như, nhất là về đêm, ta đang sống bên dưới một cái vung nồi, bị hầm nhỏ lửa trong mớ hơi nước và tâm trạng của chính mình. Toàn bộ nửa cuối tháng Tám trôi qua trong bối cảnh ấy, và Read chọn cách lưu đày ở nhà bà bạn người Boston của ông, người còn có một ngôi nhà nhỏ ở Rexhame Beach. Thỉnh thoảng ông gọi điện thoại cho tôi vào cuối chiều, và chỉ riêng âm thanh giọng nói của ông cũng có khả năng mang đến cho tôi một luồng không khí đại dương.

Một đêm, không thể chịu nổi cảnh ngột ngạt trong căn hộ nhỏ của mình ở tầng trệt nữa, tôi mặc đồ bơi rồi vào khoảng 2 giờ sáng, trong lúc mọi người đều đã ngủ, tôi đến bể bơi, nơi hệ thống chiếu sáng đã tắt.

Tôi dìm mình trong nước, làn nước của tôi, làn nước mà tôi duy trì và thay mới từ biết bao năm nay, làn nước mà tôi xử lý bằng muối, bằng điện phân, bằng hệ thống lọc, với độ pH êm ái, làn nước mà tôi đã ở cùng trong biết bao ngày, biết bao đêm, canh chừng độ cân bằng sinh học cũng như nhiệt độ của nó, để đảm bảo lúc nào cũng là 84,2 độ Fahrenheit. Tôi bước xuống làn nước đó giống như ta đi vào lãnh địa của riêng mình. Tôi cảm thấy nó ôm lấy thắt lưng tôi, rồi phủ kín vai và lưng tôi, quấn xung quanh cổ tôi rồi nhấn chìm đầu tôi. Suốt hơn hai mươi năm làm việc ở tòa nhà này, đây là lần đầu tiên tôi thả mình vào cái lãnh thổ tuyệt vời nhưng lại bị cấm sử dụng đối với tôi ấy. Tôi lặn dưới nước, nín thở, tận hưởng lần tắm táp tuyệt diệu này. Tôi yêu làn nước này, và cảm thấy nó cũng yêu mình. “Cấu trúc” của nó, như ông Sibélius thường nói với tôi, thật nhẹ nhàng, gần giống như không khí, như được tiếp thêm ôxy nhờ vô vàn những bong bóng nhỏ xíu. Thỉnh thoảng tôi nổi lên mặt nước để lấy hơi, rồi lại chìm xuống sải tay trên phần đáy nơi tôi đã làm việc biết bao lần. Lần đầu tiên trong suốt chừng ấy năm, tôi vi phạm quy định, và điều này thật tuyệt vời. Tôi không biết mình đã ở trong bể bơi bao lâu, nhưng khi ra khỏi đó, tôi nhớ rằng mình đã nguyền rủa Sedgwick cùng thói bủn xỉn của ông ta, vì đã tước bỏ của Winona niềm vui này trong suốt những năm nàng sống ở đây. Điều mà gã sen đầm khốn kiếp của tòa nhà này không biết, đó là vào mùa hè, theo những chuyến đi của nàng, và trong khi ông ta bận canh gác dưới chân tòa chung cư này, đi lòng vòng như một con chó ba đầu canh gác địa ngục, thì vợ tôi, đắm chìm trong thế giới của nàng, đang bơi trong những cái hồ đẹp nhất và nguyên sơ nhất của đất nước này.

Khi trở về căn hộ, tôi bế Nouk lên và mang ngâm nó vào bồn rửa chân ở bể bơi cho mát. Rồi cả hai chúng tôi cùng ngủ thiếp đi, tươi mới, sung sướng, như hai tên trộm vặt sau một ngày làm việc.

Hai ngày sau, tôi nhận được một cuộc gọi của Sedgwick: “Paul này, sáng mai anh phải gặp một nhà cung cấp đúng không? Anh gọi cho họ và hủy đi. Tôi yêu cầu anh có mặt lúc 10 giờ ngày mai trong phòng hội đồng. Tôi đã yêu cầu một cuộc họp bất thường của ban quản trị cùng toàn thể các đồng chủ sở hữu, để quyết định một quy tắc liên quan đến anh. Ngày mai, 10 giờ.”

Tôi tin rằng hôm đó không thiếu một ai. Tất cả các tầng. Tất cả các căn hộ. Những người single, những cặp đôi, đủ các độ tuổi, đủ các thế hệ. Sedgwick chủ trì, hai bên là hai viên phụ tá sẵn sàng theo ông ta đến cùng trời cuối đất. “Chào mọi người. Cuộc họp này liên quan đến một điều quy định quan trọng mà Paul Hansen, quản gia của chúng ta, đã vi phạm. Trong đêm thứ Ba rạng ngày thứ Tư, khoảng 2 giờ sáng, và trong khi hợp đồng của anh ta cấm tuyệt đối khả năng này, anh Hansen, trong lúc không ai hay biết, đã tắm trong bể bơi của chúng ta. Các máy quay an ninh xác nhận hành động vi phạm này. Và, như thể việc không tuân thủ quy định này còn chưa đủ, sau khi lên khỏi bể bơi một lát, anh ta quay lại mang theo con chó, rồi ngâm nó trong bồn rửa chân.” Giống như một cơn xào xạc mùa đông, tiếng rì rầm phản đối lan khắp phòng. Việc hạ uy tín công khai đã đạt được hiệu ứng của nó. Bằng thứ ngôn ngữ theo lối sính kiện cáo của mình, Sedgwick tiếp tục bản luận tội: “Khi làm việc đó, anh Hansen ạ, anh đã vi phạm một lỗi chuyên môn nghiêm trọng, đơn phương chấm dứt hợp đồng của anh, và nhất là phản bội niềm tin mà tất cả chúng tôi ở đây dành cho anh. Hơn thế nữa, bằng việc nhúng con chó của anh trong bồn rửa chân của chúng tôi, anh đã xem thường những quy định về vệ sinh tối thiểu mà tôi từng soạn ra liên quan đến việc sử dụng bể bơi, và khiến tất cả các đồng chủ sở hữu ở đây phải gánh chịu rủi ro. Vì tất cả những lý do khiến anh phải chấm dứt hợp đồng kể trên, tôi yêu cầu việc sa thải anh phải được tuyên bố ngay hôm nay, và sẽ có hiệu lực kể từ cuối tháng Chín. Anh sẽ nhận được khoản tiền lương còn thiếu, và sẽ phải trả lại chìa khóa căn hộ. Trước khi đưa đề nghị này ra bỏ phiếu, anh có điều gì muốn nói thêm không, anh Hansen?” Như thỉnh thoảng vẫn xảy ra trong các giáo đường của cha tôi, đám đông nhỏ liền phát ra những tiếng thì thầm mà ta không biết là biểu thị của lòng thông cảm hay tiếng ran khe khẽ của nỗi bất bình.

Ta có thể nói, đối đáp hay bổ sung điều gì sau khi đã nghe một thứ như thế, một bản luận tội thêu dệt bằng những sợi chỉ đẹp đẽ nhất của thói ti tiện? Hơn hai mươi năm phụng sự trung thành, với những giờ làm việc vô tận, một thứ công việc phục dịch cung cấp cho tất cả các tầng, sức sống của khu vườn, cuộc chiến với các loại nước, những chiến dịch chống chọi với mùa đông, những giấy kẹo, những lần chăm lo người ốm, những lần hồi sức cấp cứu, những lần xức dầu thánh cuối cùng, những lễ tang, tất cả những thứ đó đều bị tống vào quên lãng chỉ vì một lần tắm đêm.

Từ cuối phòng vang lên một giọng nói, là giọng của Johanes, như vào những thời khắc huy hoàng nhất của ông, cái giọng nói kéo những thợ mỏ lên khỏi giếng, cái giọng nói vang lên cao hơn, mạnh hơn và dài hơn những vụ nổ mìn, cái giọng nói hét vào tai lũ ngựa trên đường đua, cái giọng nói đã chứng kiến tôi chào đời, lớn lên và chưa từng vắng mặt trong tôi, giọng nói ấy ngày hôm nay vẫn đang ở đó để cầm thanh sắt lên, đẽo gọt giữa sự ngu muội, dốt nát và độc ác, nện búa vào kẻ ngu độn, bổ xuống kẻ u mê và lôi tôi lên khỏi làn nước.

Tôi những muốn rằng ngày hôm đó, Kieran Read đã từ Boston trở về. Chắc hẳn là cả ông nữa, ông cũng sẽ xung trận chống lại đợt tấn công ồ ạt đó, đột kích vào hai bên mạng sườn quân địch. Nhưng không, không có trận đánh hay thậm chí một mầm mống bảo vệ nào đứng về phía tôi. Toàn bộ cư dân, trừ bốn phiếu, nhất loạt cho tôi ba mươi ngày để nhồi nhét những kỷ niệm, cô nàng chó và chút phẩm giá còn lại vào một chiếc xe tải chuyển nhà loại nhỏ. Tôi ra khỏi căn hộ mà không thốt nổi dù chỉ một lời. Tôi có cảm giác bộ não mình đã bị khóa chặt, rằng nó không thể sản sinh ra bất cứ thứ gì có thể hiểu nổi, ngoại trừ việc kín đáo khiến tôi chịu đựng một nỗi hổ thẹn khủng khiếp. Hôm đó, chẳng khác gì thứ mật đắng nghét, một câu nói cứ xoay mòng suốt cả ngày trong miệng tôi, thể hiện những gì nó phải thể hiện, rồi lặp lại, và tiếp tục lặp lại thêm nữa. Câu nói ấy xuất phát từ một cuốn sách lịch sử của cha tôi, trong đó một giám mục Công giáo, nổi tiếng vì thái độ khinh miệt, nhân khi nhắc đến khả năng chịu đựng của hàng giáo phẩm cấp thấp, đã khuyên nhủ một người bạn chí cốt hãy đối xử thô bạo với đám người hầu mà không việc gì phải áy náy: “Rồi bạn sẽ thấy, loài người dễ bảo lắm.”

Đến cuối cuộc họp, Sedgwick nói với tôi: “Tất nhiên, Paul ạ, tất cả những chuyện này chẳng liên quan gì đến cá nhân cả, nhưng có những quy định mà tất cả chúng ta đều phải tuân thủ. Tôi tin chắc là anh hiểu.” Rồi ông ta bỏ đi cùng đám cận vệ theo sau, hẳn là để chủ trì một phiên tòa khác, ở một nơi khác, trong thế giới của đám lính biên phòng và đám lục sự chuyên săn đuổi, ghi chép và bắt phạt tất cả những người gác cổng dám tắm ở bể bơi vào mùa hè.

Bởi vì đó chính là tính cách của tôi, nên tôi vẫn tiếp tục công việc bảo trì thường nhật, và đóng thùng đồ đạc vào buổi tối. Nouk, hẳn đang tự hỏi sắp có chuyện gì xảy ra, hít ngửi hết thùng nọ đến thùng kia và biểu lộ tâm trạng có đôi chút lo lắng.

Một cuối chiều vẫn ẩm thấp như những ngày khác, tôi đang hoàn tất việc cắt cỏ trong một khoảnh vườn thì Sedgwick rảo bước về phía tôi, đầy tức tối. Chiếc tai nghe chống ồn khiến tôi không nghe thấy những lời gào thét đầu tiên của ông ta. Nhưng phần sau thì tôi nghe rõ mồn một: “Phải nhắc lại với anh bao nhiêu lần nữa, hả Hansen, để anh có thể hiểu được! Trong đầu anh chứa thứ gì vậy! Chúng tôi tống cổ anh vì đã mắc lỗi nghiêm trọng, thế mà ba ngày sau anh lại tái phạm. Anh là đồ ngu hay sao?” Chắc hẳn tôi trở thành đồ ngu chính vì đã cam lòng chịu đựng người đàn ông này lâu đến thế. Và tôi còn ngu hơn nữa bởi vì tôi không hề hiểu điều gì, vào đúng lúc ấy, lại có thể khiến ông ta nổi cơn thịnh nộ như vậy. “Nhìn xem con chó của anh đang ở đâu, Hansen! Nằm trên bãi cỏ! Ngay cạnh mấy cây phong!” Đúng là Nouk đang ở gần mấy cái cây, nằm dài dưới bóng râm, trong một góc xanh mát, cố gắng tìm chút hơi mát. Chắc là nó đã đi theo tôi mà không đọc thấy những dòng cấm đoán trong quy định, những điều khoản cai quản cuộc đời của con người, quả thực là thế, nhưng chính xác hơn là cai quản cuộc đời những con vật nuôi của họ. Giận dữ đến mức gần như mất trí, Sedgwick khi ấy đã thốt ra cái điều đánh thức trong tôi sự dạy dỗ mà lũ sói đã dành tặng cho tôi. Ông ta nói: “Tống cổ con vật khốn kiếp ấy ra ngoài ngay! Tôi không muốn nhìn thấy nó trong tòa nhà này nữa! Rõ chưa? Cút ra ngoài, cả hai, càng nhanh càng tốt!” Và thế là lũ sói đã dẫn đường cho tôi. Tôi nhảy bổ vào lão trưởng ban quản trị, đâm sầm vào lão và khiến lão lăn xuống tận mép bể bơi. Rồi tôi đấm lão, thật mạnh, thật lâu, không suy xét, với toàn bộ sự man dại của loài chó, cảm thấy hoặc nghe thấy tiếng hai chiếc xương gãy, và tôi vẫn tiếp tục đấm, cho đến khi chuyển sang cắn lão, vào vai, đủ sâu để có thể rứt khỏi người lão cả một miếng thịt. Tôi ngậm một miếng Sedgwick trong miệng, thứ đó hoàn toàn không có bất cứ vị gì, ngoại trừ một vị máu độc địa khiến tôi muốn lộn mửa. Tôi nghe thấy lão gào lên, lão đòi hỏi điều gì đó mà tôi không còn khả năng cho lão nữa, lòng thương hay thứ gì na ná như vậy mà ta vẫn bắt gặp trong những cuốn sách cầu nguyện. Lão nài xin tôi thứ gì đó mà tôi không rõ, hẳn là đang kêu cứu, đang gọi đám lính gác, gọi đội quân của lão, nhưng không có ai đến. Tôi lôi lão đến tận mép nước, thế rồi cả tôi và lão, chẳng khác nào hai gã thích bơi lội, chúng tôi lăn tòm xuống tận đáy bể bơi. Lão vùng vẫy, mái tóc lão hết giật sang phải lại giật sang trái, giống như những đuôi tảo cuốn theo dòng nước. Tôi chậm rãi nhấn chìm lão và nhìn hình dạng lão mơ hồ bên trong làn nước của tôi, chúng chỉ chờ dịp để có thể chui vào trong phổi lão, và tống hết khỏi đó, vĩnh viễn, mọi dấu vết của không khí. Trên mặt nước, thấp thoáng những bóng người chạy đi chạy lại, tôi còn nghe thấy cả tiếng sủa tắc nghẹn của Nouk cùng toàn bộ bầy sói. Thời gian không còn chút gì là thực tế hay vững chãi, dường như chỉ còn tồn tại cái cấu trúc của nước và những sợi máu thoát ra từ vết cắn mà tôi đã để lại trên vai ông chủ của chúng tôi. Lão vùng vẫy như những con vật vẫn muốn sống trong khi con người cố dìm chết chúng bởi vì họ không còn muốn có chúng nữa. Hóa ra, đã nhiều năm ròng, dù không nhận ra, tôi vẫn vùng vẫy như thế dưới đáy sâu của cái tòa nhà gây bệnh này, cái tòa nhà đã dần dà tước đoạt của tôi mọi thứ. Lần này, ông chủ và tôi cùng ở trong cái bể bơi nơi tôi không được bước xuống, ngang sức ngang cơ, chó sói đấu với chó sói, chỉ với chút không khí còn lại trong lồng ngực để bấu víu thêm vài giây vào sự sống, vài giây rất đổi quý giá mà ta vừa chờ đợi vừa e sợ trong suốt cuộc đời mình, những khoảnh khắc cuối cùng ấy tuy nhiên lại khiến ta vô cùng thất vọng, bao giờ cũng chỉ mở ra những viễn cảnh lừa bịp trong “định lý của Horton”, bởi vì, sau khi khoảng thời gian chết đuối vô tận kia kết thúc, chẳng có gì, tuyệt đối chẳng có gì tiếp tục lại bao giờ.

Phía trên tôi, có vài người nhảy xuống nước, túm chặt lấy cánh tay tôi, tìm cách khống chế thân thể tôi, gỡ tôi ra khỏi Sedgwick rồi ép tôi nằm bất động trên mặt đất. Sau đó, tôi vùng vẫy chẳng khác nào một con thú mắc bẫy, gào rống vì đau đớn và giận dữ, thế rồi, trong một thoáng, tất cả bỗng tối đen hoàn toàn.

Tôi tỉnh lại vào ngày hôm sau, trong một phòng cấp cứu dành cho các bệnh nhân thuộc quyền kiểm soát của cảnh sát. Một bác sĩ đến cho tôi biết bản tổng kết tình trạng sức khỏe của tôi, và, một lát sau, một điều tra viên thông báo với tôi tình trạng sức khỏe của Sedgwick. Gãy hai cánh tay, gãy một ngón tay, một vết cắn đứt lìa da thịt ở vai, nhiều vết bầm giập ở lồng ngực, vô số vết thương trên mặt nên đã phải khâu hai mươi mốt mũi. “Thẩm phán sẽ quyết định, sau khi xem xét lời khai của các nhân chứng, xem ngoài những hành vi bạo lực đó, anh có bị kết tội là có âm mưu giết người bằng cách nhận nước hay không. Ngay sau khi hồi phục, anh sẽ được chuyển đến nhà tù Bordeaux.”

Khi ấy đang là giữa tháng Chín. Việc theo dõi một chấn thương sọ não và một cuộc phẫu thuật ở thắt lưng đã khiến tôi phải nằm liệt giường, rồi sau đó chuyển sang phòng theo dõi, lúc nào cũng thuộc khu vực dành riêng trong bệnh viện, cho đến tận cuối tháng Mười. Được báo tin, Read lập tức từ Boston trở về ngay sau khi xảy ra trận chiến đó, để chăm sóc Nouk, cô nàng bị giam trong căn hộ của tôi sau sự cố. Cả người và chó đã nhiều lần đến thăm tôi.

Sáng mùng 4 tháng Mười một, tôi được đưa đến trước thẩm phán Lorimier.

“Về những hành vi bạo lực, những cú ra đòn và những vết thương, tôi nghĩ chúng ta không cần mất thời gian tranh luận nữa. Ngược lại, tôi muốn hỏi anh về việc anh đã tiếp tục có những hành động hung hăng dưới nước, bởi vì trận đánh của hai người kết thúc dưới đáy một bể bơi, điều khá hiếm khi xảy ra, và đã cần đến không dưới sáu người mới buộc được anh buông tay. Trong những cú vật lộn cuối cùng khi mà cả anh cùng đối thủ đều đã ở dưới nước, đều phải nhịn thở, anh thực sự có ý định dìm chết ông Sedgwick hay trận đấu cuối cùng đó chỉ là phần tiếp theo, ta cứ tạm gọi là đoạn đấu dưới nước, của phần trước đó, phần diễn ra trên mặt đất?” Với những câu hỏi kỳ quặc mà tôi không thể trả lời nổi ấy, tôi đáp lại rằng tôi không còn nhớ được gì nhiều, rằng tôi không đủ khả năng phán xét ý định thực sự của mình, bởi vì thậm chí tôi còn không thể tái hiện sự việc lúc ấy. “Sáu người. Sáu người để giằng anh ra khỏi ông Sedgwick. Sáu. Và theo lời khai của họ, thì họ đã phải vật lộn với anh. Còn vết cắn: một mảng da thịt dài 6 xăng ti mét, rộng 5 xăng ti mét đã bị cắn đút lìa. Anh có ý thức được không? Tôi xem hồ sơ của anh rồi, anh không hề có tiền án hay tiền sự gì, một quá trình làm việc không tì vết, một gia đình đáng kính, một người cha là mục sư ở Thetford Mines, và tôi cũng thấy rằng ngoài quốc tịch Pháp, anh đã trở thành công dân Canada. Chuyện gì đã diễn ra trong đầu anh lúc ấy? Anh không muốn giải thích bất kỳ điều gì với cảnh sát về xung đột giữa anh với ông chủ của mình. Anh có muốn nói thêm một chút với tôi không?”

Có những điều tốt hơn hết ta nên giữ cho riêng mình. Hoặc chia sẻ với vợ, với cha và với con chó của mình. Những người ấy, họ biết rõ câu chuyện, ngay từ đầu, câu chuyện được chôn vùi đâu đó trong lớp cát ở Skagen và dù sao, họ cũng sẽ chẳng có gì để phán xét cả.

Bất chấp những sai lầm và mơ hồ của luật sư bào chữa cho tôi, người lúc nào cũng như đang bồng bềnh trong tác dụng phụ của thuốc Prozac[2], Lorimier không cho rằng tôi có ý định giết người, và kết án tôi hai năm tù giam. Ngay tối đó, vào thời khắc Barack Obama giơ cao tay, tôi cúi đầu bước vào phòng giam dành cho mình ở nhà tù Bordeaux.

Một tối, cách đây một năm, Sauvage cho gọi tôi đến văn phòng của ông ta. Ông Read vừa gọi điện thoại đến nhờ họ báo cho tôi rằng Nouk đã chết. Một bệnh gì đó thuộc dạng viêm gan cấp. Mà ông ta quên mất tên rồi.

Lần này, tôi chẳng còn lại gì nữa, không người thân, không tự do, cũng không còn chó. Tôi đã òa khóc trước mặt người đàn ông đam mê mô tô ấy. Toàn bộ câu chuyện xảy ra bên ngoài tôi, xa khỏi tôi, và nhất là, tôi đã không ở đó, vào thời điểm cuối cùng, cái khoảnh khắc mà tôi biết rằng hẳn nó đã tìm kiếm mạng sườn tôi để dụi mõm vào.

Tôi hỏi Sauvage rằng liệu tôi có thể dự lễ hỏa táng con chó của tôi không.

Ông ta trả lời là không.

Tôi hỏi Sauvage rằng liệu tôi có thể giữ tro của nó trong phòng giam của mình không.

Ông ta trả lời là không.

Tôi hỏi Sauvage rằng liệu ông ta có thể nhờ Read giữ tro giúp tôi được không.

Ông ta trả lời tôi: “Chính anh mới phải làm việc đó.”

Quay trở về phòng giam, cái chết của Nouk đã đánh thức trong tôi ký ức về tất cả những cái chết đã trở thành dấu mốc trong những năm vừa qua của tôi. Và ý nghĩ mình đã để cho con chó của mình ra đi trong cô độc khiến trái tim tôi vỡ nát, ý nghĩ ấy tước bỏ hết những ngượng ngùng trong lòng tôi, và tôi lại òa khóc nức nở trước mặt Patrick Horton. Thoạt đầu, gã bối rối, hết nghiêng đầu sang trái lại nghiêng đầu sang phải, sau đó gã chậm rãi tiến lại gần tôi, quan sát tôi với vẻ lo lắng, rồi vụng về đưa hai tay về phía tôi giống như một người sẽ làm khi không biết phải xử trí thế nào để vỗ về một đứa bé đang khóc.

✽ ✽ ✽

“Mẹ kiếp, tao sắp khổ rồi đây. Hy vọng là họ không tống cho tao ở cùng với lão cha xứ bắt cóc trẻ con để thay thế cho mày. Thật đấy, cái lão mà người ta nói đến hôm trước, cái gã cha xứ buôn bán trẻ con trong các trại hè ở giáo xứ của lão. Lão cao 12 mét và có khuôn mặt vát cạnh, mày không xem à? Mày biết đấy, mày được giảm án trong khi còn chẳng thèm kể chuyện của mày với tay giám sát viên. Chứng tỏ là cái đám ấy cũng toàn bọn ngu ngốc, chẳng được tích sự gì. Mày là một tay kiếm, anh bạn ạ, tao xin nói với mày như thế, tao sẽ nhớ mày đấy. Hứa là sẽ cho tao biết tin tức đấy, đừng có quên. Hơn nữa, nếu có mánh nào liên quan đến chuyện nhận tội một nửa của tao, mày nhớ chuyện của tao đúng không, đừng ngần ngại nữa, nói luôn cho tao biết cái mánh ấy đi. Bây giờ tốt hơn hết là mày nên sống nghiêm chỉnh, nếu không họ sẽ lại tống mày vào tù, mày biết rõ điều đó mà. Mày quên cái thằng cha đã bị mày cắt cụt cánh đi, rồi sống cuộc đời mới. Tao ấy à, tao biết nó thế nào rồi. Tao biết mày sẽ làm gì đầu tiên, lát nữa, khi mày biến khỏi đây. Mày muốn tao nói ra không? Chín trên mười gã ra khỏi đây, thì chỉ một giờ sau, mày sẽ thấy toàn bộ chúng có mặt ở đằng phố Sainte-Catherine hoặc về hướng Hochelaga, rồi xóc lọ. Nhưng mày, việc duy nhất mà mày đang dự định trong đầu lúc này, đó là đi lấy tro con chó của mày. Đúng không?”

Đỗ xe trên đại lộ Gouin, ngay bên cạnh dòng sông, không xa căn cứ thủy phi cơ, Kieran Read đang chờ tôi, ông ngồi trên một bên nắp ca pô của chiếc xe. Khi nhìn thấy tôi, ông tiến lại rồi choàng tay ôm tôi. Trên tay tôi cầm chiếc túi vải đựng tất cả những gì tôi đang có. Toàn bộ căn hộ của tôi đã bị dọn sạch, còn đồ đạc thì bị một công ty dọn dẹp được giao nhiệm vụ giải tỏa căn hộ phân phát hết.

“Anh sẽ đến ở nhà tôi một thời gian, Paul ạ. Căn hộ đủ rộng, và mọi thứ đã sẵn sàng để đón anh.”

Cho đến tận L’Excelsior, chặng đường không quá dài. Cùng lắm cũng chỉ mất vài phút. Tháng Bảy vừa mới bắt đầu, và thời tiết đẹp rực rỡ. Tôi mất vài phút mới bước được xuống xe, mới có đủ dũng khí để băng qua cái ga ra, bước vào thang máy, đi lên các tầng trong sự yên lặng của dây cáp, gặp lại thứ mùi nồng nặc trong các hành lang, khám phá lối đi ra vườn, nhận thấy những khuyết điểm nho nhỏ của bể bơi.

Trong hai năm, có rất nhiều điều nhỏ nhặt đã thay đổi. Tôi không còn ở nhà mình nữa. Bản thân tòa nhà cũng không còn nhận ra tôi.

Bình tro của Nouk được đặt trên một giá sách trong phòng ngủ mà Kieran dành cho tôi. Nó chẳng chiếm bao nhiêu chỗ. Tôi hỏi Read xem ông có dự lễ hỏa táng không. “Từ đầu đến cuối. Anh có thể yên tâm về chuyện đó. Đúng là Nouk đấy, và nó ở trong đó, hoàn toàn trọn vẹn.” Khi ông bước ra khỏi phòng, cử chỉ đầu tiên của tôi là đưa tay cầm lấy chiếc bình rồi áp chặt nó vào mạng sườn mình.

Buổi tối, Read chở tôi đi ăn tối tại một nhà hàng mới mà ông phát hiện ra trên đại lộ Van-Horne. Ông kể với tôi về bệnh tình của con chó, giải thích với tôi rằng ông đã ở bên nó đến tận giây phút cuối cùng, rồi ông chuyển sang chuyện về tòa nhà, về việc tăng phí, những cuộc chiến nội bộ, sự thiếu trách nhiệm của viên quản gia thay thế tôi, và hào quang ngày càng sụt giảm của Edouard Sedgwick. “Tôi muốn hỏi anh một câu, Paul ạ, câu hỏi này cứ xoay mòng trong đầu tôi kể từ khi anh ra đi. Trong cái nghề như nghề của tôi, anh biết đấy, tôi đã đối mặt với rất nhiều chuyện kỳ lạ. Nhưng quả thực, đây là lần đầu tiên, tôi đảm bảo với anh đấy, tôi chứng kiến một gã có khả năng bẻ gãy cùng lúc cả hai cánh tay của đối thủ, chỉ trong một đòn. Hơn nữa, còn gãy hẳn. Làm sao anh có thể thực hiện được điều kỳ diệu ấy?” Tôi chưa bao giờ tự hỏi mình về chuyện đó. Và cũng hoàn toàn không đủ khả năng đưa ra bất kỳ câu trả lời nào cho vị chủ nhà của mình. Ngược lại, trên đường quay về tòa nhà, tôi nhận thấy rằng Kieran quan tâm đền việc tôi đã bẻ gãy hai cánh tay của Edouard Sedgwick, có thể nói là chỉ bằng một cú đòn, nhiều hơn việc tôi đã dùng răng để cắn đứt lìa một mảng vai lão.

Chúng tôi nói về chuyện đó suốt cả ngày hôm sau. Và cả ngày hôm sau đó nữa. Ông thì nghĩ rằng tôi đã chuốc lấy một rủi ro vô ích. Về phần mình, tôi đánh giá việc đó như một hành động đặt nền móng cho việc tái hòa nhập của tôi. Không còn là người gác cổng của tòa nhà, và tận hưởng vị thế mới của một khách mời, tôi muốn, tất nhiên là với sự đồng ý của Kieran, bơi hai đến ba vòng bể bơi ngay trước mắt Sedgwick, nằm sưởi nắng một lát trên một trong những chiếc ghế dài ở đó, rồi khoác áo choàng tắm và đi lên tầng, đầu ngẩng cao, tâm trí cuối cùng cũng được rửa sạch, rũ bỏ hết những đêm giận dữ và căm thù từng chất chứa trong đó.

Hôm ấy là một ngày lý tưởng. Một cuối chiều nóng nực cộng thêm hệ số độ ẩm ở mức kinh khủng, thời điểm lũ ong vò vẽ đến uống nước còn các chủ nhà thì làm mới những suy nghĩ tồi tệ của họ đồng thời tìm kiếm lý do để tiết ra thêm những suy nghĩ tồi tệ khác. Thời điểm mỗi chiếc quần bơi che giấu một con quỷ dữ. Cái thời điểm từng là cấm kỵ đối với tôi, vả lại, cũng như mọi thời điểm khác. Tại sao? Bởi vì. Đó là thời điểm các loại kem bảo vệ tạo nên phản xạ về tầng lớp, khi những ly Martini bốc mùi tàn tiệc, khi những kẻ nhiều tuổi nhất đang bấu víu vào sự sống phập phù của mình.

Chúng tôi đi sát bên nhau, bước đến, qua cánh cửa lớn ở tiền sảnh. Không thể nào không nhìn thấy chúng tôi. Hai chiếc áo choàng tắm trắng đến lóa mắt. Read, sau khi cầm chiếc áo choàng mà tôi đưa cho ông, bước đến ngả người nằm trên một chiếc ghế dài.

Tôi đi sang phía bồn rửa chân, rồi chậm rãi, từng bước một, dấn mình xuống làn nước. Trước khi biến mất khỏi mặt bể bơi, tôi nhìn xung quanh, nhìn cái thế giới hoàn hảo đang vây quanh mình, những chủ nhà xếp thành hàng theo chiều ngang. Được sắp đặt theo trật tự về kích thước hoặc tầm quan trọng. Tất cả những người từng loại bỏ tôi đang ở đó, bóng nhẫy và đỏ au chẳng khác gì những miếng thịt ôi. Từ nơi tôi đang đứng nhìn, tất cả bọn họ trông đều nhỏ tí xíu.

Sedgwick đang túc trực ở đó, ngay giữa trung tâm, ở trái tim công quốc của lão. Vị tổng tài có khuôn mặt như tượng sáp và một vết sẹo xấu xí trên vai. Cả lão nữa, tôi cũng thấy lão nhỏ tí xíu, và “không hề có chút quan trọng nào” như Johanes thường nói trước kia. Không ai nói gì. Mọi ánh mắt đều đổ dồn vào tôi, như thể tôi đã trở thành một thứ Cực Bắc từ tính, như thể đột nhiên trục Trái đất vừa di chuyển. Tôi lắng nghe, trong một lát, sự hoàn mỹ của bầu không khí im ắng ấy, trước khi lặn sâu xuống đáy nước. Tôi nín thở bơi lâu hết khả năng, để mỗi người trong số họ sẽ đi đến chỗ nghĩ rằng họ chỉ vừa nhìn thấy bóng ma của tôi, cái bóng mà bể bơi đã khiến cho tan biến bằng cách pha loãng nó cùng với muối trước khi tống nó ra qua hệ thống ống dẫn thích hợp. Khi hai lá phổi tưởng chừng sắp nổ tung, tôi trồi lên mặt nước giống như một chú cá voi dự trữ không khí trước khi tiếp tục lặn xuống vực thẳm. Tôi đã cạo sạch râu, để cảm nhận cái vuốt ve của làn nước trên mặt mình. Như thể nó đang mơn man tôi, thật khẽ khàng. Cấu trúc của nước đã thay đổi, nhưng nó vẫn làm tốt vai trò của mình, rửa sạch tâm trí tôi, thanh lọc những điều ô trọc. Ba lần, bốn lần, tôi biến mất rồi xuất hiện trở lại. Vào thời điểm rời khỏi sân khấu, tôi quan sát thật chăm chú tất cả những diễn viên khốn khổ đang cố gắng giữ vững địa vị và đảm nhiệm thật tốt vai phụ của mình. Tôi lại gần mép bể bơi, rồi vịn vào gờ tường, và cứ thế bập bềnh nửa nổi nửa chìm dưới làn nước, trong tư thế đáng mơ ước của một tay súng bắn tỉa đang nằm, tôi chăm chăm nhìn Edouard Sedgwick. Theo cái cách người ta xem xét một con vật đã chết. Màn quan sát lặng lẽ ấy đối với lão hẳn phải kéo dài cả thế kỷ, nhưng lão không hề nao núng, mà chỉ tặng cho tôi cái cảnh tượng thú vị được chứng kiến lòng kiêu ngạo của lão bị bẻ gãy, một bên vai phải chịu nhục hình của lão.

Khi cảm thấy trái tim đã đập bình yên trở lại, tôi chậm rãi ra khỏi làn nước, từng bậc từng bậc một, và trên thảm cỏ, đôi tai dựng lên vui sướng, cái đuôi ve vẩy đầy mừng rỡ, tôi nhìn thấy Nouk, cô nàng chó của tôi, nó đang chờ tôi.

Ngả người trên chiếc ghế dài bên cạnh Kieran, tôi nghe thấy ông nói: “Quả là kinh hoàng. Y như cảnh một chú cá hổ kình biểu diễn ở một khu Marineland.”

Một lát sau, Sedgwick rời khỏi chỗ và đi vòng ra đằng sau để khỏi phải giáp mặt chúng tôi. Nhìn thấy lão âm thầm rồi đi như thế, Read nói: “Anh biết gì không, Paul? Cuối năm nay, tôi sẽ ra ứng cử, để đấu với lão.”

✽ ✽ ✽

Tôi ở lại Montréal chừng chục ngày, khoảng thời gian để thích nghi trở lại với cuộc sống trên mặt đất. Tôi đến Chapters mua ba cuốn Harley Davidson, lịch sử đầy đủ; Harley Davidson, Sportster và Hãy biến đổi chiếc Harley của bạn, cả tập một lẫn tập hai.

Tôi không biết Patrick sẽ ở tù thêm bao nhiêu năm nữa, nhưng với mấy cuốn chuyên khảo này, gã sẽ có thứ gì đó để trốn thoát khỏi án tù ngay trước mũi những tay lính gác. Và quyến rũ Emmanuel Sauvage, sao lại không chứ. Về phần mình, tôi sẽ tận hưởng tự do và lên đường đi Đan Mạch. Trong bao lâu, tôi không biết, nhưng hành trình của tôi dẫn tôi thẳng lên trời: Montréal, Genève, Oslo. Sau đó là phà, đường bộ, Aarhus, Randers, Aalborg, và ở tận cùng của bán đảo, Skagen.

Hẳn là để tôi lấy lại phong độ trước chuyến đi dài ấy, Read đã tử tế nhường căn hộ của ông lại cho tôi và đi Boston. Tối nào ông cũng gọi điện thoại cho tôi, và vì e ngại có thể xảy ra sự cố, ông bắt tôi hứa sẽ không quay trở lại bể bơi trong thời gian ông vắng mặt. Tôi chẳng còn lý do gì để quay lại đó nữa. Chuyện gì phải làm thì tôi đã làm rồi.

Tôi chỉ còn một việc duy nhất cần hoàn tất. Trước ngày khởi hành, tôi bắt taxi đến đảo Notre-Dame và cái sòng bạc khổng lồ ở Montréal mà Johanes chưa từng biết đến. Sòng bạc bí mật “Money Maker”, cái nơi từng đẩy nhanh những nỗi bất hạnh của cha tôi trước khi biến mất, đã nhường chỗ cho cỗ máy bán vận may đồ sộ, cái công xưởng của số phận, nơi bảy ngày trên bảy, hai mươi tư giờ trên hai mươi tư giờ, tái chế những biến số của số phận, xé rách đôi cánh của ngẫu nhiên.

Tôi bước lên cầu thang lớn, dưới một dòng thác ánh sáng. Những tay chơi một đêm hoặc suốt kiếp lượn lờ từ bàn này sang bàn khác, phấn khích với những tham vọng hẳn là phi lý, mỗi người đều đặt lòng tin vào cái tia sáng nhỏ nhoi không bao giờ tắt ấy trong họ. Họ tin rằng ngày này hoặc ngày khác, điều đó sẽ xảy ra, bởi vì họ đã chờ đợi suốt cả cuộc đời vì điều đó, và họ nghĩ rằng họ xứng đáng với nó. Muss es sein? Es muss sein[3].

Nouk, đứng giữa Johanes và Winona, đang chờ tôi trước một bàn cò quay. Họ là những người chết sống động nhất trong cái thế giới này. Cũng là những kẻ trung thành và phiêu lưu nhất. Họ đã chịu đựng hệ tiêu hóa của Horton cùng những ruột gan của nhà tù, cái lạnh trong những phòng giam và tốc độ lê thê của những ngày tháng ở đó. Trên hòn đảo này, trong cái lò luyện thất bại này, một lần nữa họ lại khiến tôi ngạc nhiên. Họ biết trước tôi rất lâu rằng tôi sẽ đến đây, để trả thù cho Johanes theo cách của tôi, thanh toán những nợ nần của ông, rửa sạch mọi tội lỗi, điều chỉnh lại những con số.

Chúng tôi ở lại hồi lâu, cả bốn người, để mặc cho trục lăn xoay trên chiếc bàn gỗ, quan sát hòn bi khiêu vũ trên mặt số bằng đồng, trong khi những con người đầy tin tưởng ném những chiếc thẻ của họ. Họ hy vọng thoát khỏi cảnh ngộ bằng cách cược đơn hoặc cược lẻ-chẵn, cược tứ, cược tam hay cược lục, cược nửa bàn và cược nhóm, cược tá, cược đen-đỏ. Nỗi bất hạnh dâng tặng biết bao lựa chọn với thật nhiều biến số và màu sắc.

Cha tôi đã thử tất cả các kiểu cược, đã pha lẫn chúng, nhào trộn chúng cho đến khi ông chẳng còn lại gì, cho đến khi, vào một đêm, một phụ nữ đã đưa hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt ông, hôn ông rồi thì thầm: “Cầu xin Chúa, nếu Người nhìn thấy ông, xin Người hãy ban phúc cho ông”.

Tôi ổn. Tôi ngắm nhìn những người thân của mình. Tôi có thể cảm nhận được nhịp tim họ đang đập và ngửi thấy hơi thở của họ. Ở bên họ, tôi cảm thấy mình thật yên bình. Tôi có cảm giác họ che chở cho cuộc đời tôi, cả ba người, mỗi người theo một cách riêng. Tôi những muốn họ biết được tôi yêu họ đến nhường nào.

Khi nhà cái bảo tôi: “Anh chọn đi”, tôi đặt số thẻ tương đương 100 đô la cho màu đen, rồi rời khỏi căn phòng. Trong lúc bước đi, tôi nghe có ai đó nói: “Chọn xong.” Đến tuyên bố cuối cùng, “Bắt đầu”, tôi đã bước về phía bờ sông, mặc cho tay hồ lỳ tự xoay xở với đoạn tiếp sau.

✽ ✽ ✽

Hôm qua, mang theo hũ tro của cô nàng chó, tôi đến đúng giờ lên máy bay. Quá cảnh sân bay quốc tế Genève. Những giờ phút chờ đợi dài dằng dặc để đổi sang một thế giới khác.

Phi trường Copenhagen Kastrup, rồi tàu thủy, rồi con đường ngoằn ngoèo giữa những đụn cát và nhỏ dần, chạy dài đến tận mũi bán đảo.

Không khí dịu mát, ánh sáng rực rỡ, những dòng nước tỏa ra, nơi gặp gỡ của những vùng biển. Skagen.

Khách sạn. Giấc ngủ chờ đợi Lorazepam[4]. Những ý nghĩ tồi tệ kiên nhẫn chờ đợi, rồi đi đi lại lại trong phòng.

Sau đó, ngày mới bừng lên, như trong những bức tranh, nhẹ nhàng chiếu rọi những con người và những con tàu, những đụn cát và những con sóng.

Tôi bước đi trên con phố chạy men bờ biển. Nó có tên là “Østre Strandvej”. “Con đường bờ biển phía Đông”. Phía xa xa, tôi nhìn thấy thấp thoáng khối nhà lớn có mái ngói màu đỏ của dòng họ Hansen. Nó nằm đối diện biển Baltic. Gió uốn cong những thân cây và thổi cát đến chất đống bên chân những ngôi nhà.

Tôi hít hà hương vị biển của xứ sở mới mẻ này. Đó là tất cả những gì tôi đang có.

Lát nữa, ở cuối chặng đường dài này, tôi sẽ đến chào hỏi những người thân của mình, tôi sẽ gõ lên cánh cửa nhà, ai đó sẽ mở ra cho tôi, và, đúng như cha tôi đã dạy, tôi sẽ nói: “Jeg er Johanes Hansens søn.”

“Cháu là con trai của Johanes Hansen đây.”

***Line Note Zone***

Lời Cảm Ơn

Tôi muốn dành toàn bộ lòng biết ơn của mình cho Aurélie, Laurence, Lydie, Virginie và Pierre, và cả Jeanne, Nathalie K., Nathalie P., Pauline, Violaine, Clément cùng Olivier nữa, tất nhiên. Sau khi đón nhận tôi tại Nhà xuất bản Olivier từ cách đây rất lâu, họ đã ủng hộ và chịu đựng tôi rất nhiều, theo tất cả các ý nghĩa của từ này.

Chú thích:

[1] Nhân vật chính trong bộ phim Edward Scissorhands của đạo diễn Tim Burton, bộ phim kể về anh chàng Edward có đôi tay kéo do được tạo ra từ chiếc máy cắt bánh nhưng vị cha đẻ chưa kịp làm cho anh đôi tay như của con người. [2] Một loại thuốc chống trầm cảm. [3] Gợi nhắc đến một giai thoại liên quan tới nhà soạn nhạc Beethoven. Tiếng Đức trong nguyên bản, tạm dịch là: “Phải thế ư? Tất nhiên phải thế.” [4] Một lại thuốc được dùng để điều trị chứng lo âu.