← Quay lại trang sách

10. Máy bay, máy kéo và sự chờ đợi

Mỗi chuyến phiêu lưu bằng máy bay mà tôi dành tặng cho mình, cùng với Winona và Nouk, lại mang cho tôi một bình dự trữ hạnh phúc và dũng khí, để tôi có thể chịu đựng những chìm nổi buồn bã trong công việc của mình. Bầu không khí trong tòa nhà trở nên ngột ngạt, và một thứ tâm lý nghi kỵ chung, do tay trưởng ban quản trị gieo rắc dần dà trong nhiệm kỳ của ông ta, đã lan khắp các tầng nhà. Dần dần, người này bắt đầu giám sát người kia, chăm lo theo sát việc áp dụng từng luật lệ, cho dù nó có phi lý hay vô ích cũng mặc. Từ năm này sang năm khác, các hội nghị cư dân là dịp để mọi người đưa ra những phát biểu kỳ cục, nhỏ nhen, phóng thích những suy nghĩ hung hãn đối với những chủ đề rõ ràng là chẳng có ý nghĩa gì. Tôi phải giải thích trước toàn thể hội nghị về lý do tiêu khoản này khoản kia, lựa chọn nhà cung ứng này hay hóa đơn xuất cho bên cung cấp dịch vụ kia. Những người chưa bao giờ đặt chân vào phòng kỹ thuật vặn hỏi tôi về nhu cầu của cỗ máy điện giải tính theo số gram muối trên một lít nước, để so sánh những kết quả này, sau vô số giờ khốn khổ tính toán, với tổng đơn đặt hàng muối dùng cho cả mùa.

Thời kỳ đầu những năm 2000 ấy là một tuyển tập thực thụ của những bài luyện tính tầm thường, trong đó mỗi người dường như đều sốt sắng muốn chứng tỏ khả năng vượt trội của mình. Một trong những vụ việc chói lòa nhất, và chắc hẳn là nực cười nhất, chính là vụ liên quan đến giấy kẹo. Nhiều lần trong chuyến đi tuần buổi sáng, tôi nhìn thấy có nhiều vỏ giấy kẹo rải rắc trong các hành lang tầng bốn. Ngày hôm sau, những vuông giấy bóng kính khác thay thế cho những vuông giấy trước đó. Và mọi chuyện vẫn tiếp diễn trong suốt tuần. Tôi quét dọn mỗi ngày, không hề băn khoăn về việc nhân vật ham ăn nào có thể là nguồn gốc sản sinh ra việc rắc vỏ kẹo như thế. Tám ngày sau, lại đến một mùa gieo rắc mới. Lần này, giấy kẹo bị gió thổi bay khắp các tầng, thậm chí cả trong thang máy. Tôi liền nảy ra ý tưởng xem lại băng ghi hình của tòa nhà, để tìm ra tác giả của trò đùa tai quái này. Các hình ảnh khiến tôi sững sờ. Chúng cho thấy Hugo Massey, một ông già về hưu sáu mươi sáu tuổi, và hàng xóm nhà ông ta, Dorian West, năm mươi tám tuổi, nhà buôn xe hơi, mới chuyển đến ít lâu, lang thang như những bóng ma vào sáng sớm và rải gần như khắp nơi những tờ vỏ kẹo, đầu tiên là ở tầng của họ, rồi ban tặng cho tất cả các tầng của tòa nhà. Họ thực hiện cái trò trẻ ranh ấy vào mỗi buổi sáng, khoảng 5h30, theo như thời gian hiển thị trên các đầu đọc. Tôi hình dung rằng vào thời điểm đó, họ hy vọng có thể ung dung rải giấy kẹo mà không bị ai bắt gặp. Điều này có nghĩa là hai ông già tồi tệ ấy cùng thức dậy vào lúc bình minh để thực hiện cái phi vụ thảm hại này. Nhằm mục đích gì? Gài bẫy tôi, thử thách tôi, làm mất uy tín của tôi, hẳn là thế, nếu tôi không thu dọn mớ rác mà họ rải ra? Chỉ có điều hai kẻ ngốc ấy quên mất những chiếc máy quay, cái hệ thống giám sát mà tháng nào họ cũng phải trả tiền bảo trì bảo dưỡng. Tôi đến siêu thị gần nhất mua hai gói kẹo thật to. Trên mỗi gói, tôi đính một mẩu giấy nhắn: “Cảm ơn ông về những video tuyệt vời. Người gác cổng”, rồi để món quà của mình trước cửa căn hộ của họ.

Kể từ ngày hôm ấy, các hành lang lại sạch sẽ như trước, và mọi dấu vết của việc tiêu thụ đồ ngọt đã biến mất khỏi bề mặt vùng đất nhỏ bé của chúng tôi. Khi gặp tôi, West và Massey đều chào hỏi với vẻ ngượng ngập rõ rệt mà tôi để cho tan chảy chầm chậm trong miệng, giống như một viên kẹo ngọt.

Giáng sinh năm 2005. Lần đầu tiên kể từ rất lâu rồi, tôi rời tòa nhà trong một tuần. Vào thời kỳ này trong năm, nhiều cư dân ở L’Excelsior di cư về phía Nam, những bãi biển ở Cuba, Florida hay Mexico. Họ đến đó để hấp thụ thứ ánh sáng rực rỡ mà những tấm rèm mùa đông ở nơi đây đã làm biến mất. Còn Read, ông đến ăn mừng Giáng sinh ở Boston, tại nhà một bà bạn mà tôi không thực sự biết là có vai trò như thế nào trong cuộc đời ông.

Để có chỗ trú ngụ trong vài ngày nghỉ mà chúng tôi sẽ trải qua cùng nhau ấy, Winona đã thuê một căn nhà gỗ “bốn mùa” trên hồ Fraser, ở phía Bắc vườn quốc gia Maurice, và mượn một chiếc Beaver cho cả tuần. Chiếc máy bay đã cởi bỏ đôi phao để thay vào đó là đôi càng trượt mùa đông, và như thế, nó có thể trượt như một hòn đá thia lia trên lòng những con đường phủ tuyết. Nhìn vợ lái máy bay càng làm gia tăng thêm tình yêu tôi dành cho nàng. Tôi yêu hơn tất thảy những giờ sống trong không trung đó, để chiêm ngưỡng kỹ năng của nàng, nét bình thản của nàng khi máy bay bắt đầu rung lắc khắp các hướng, nghệ thuật của nàng trong việc lập lại một quỹ đạo, giữ vững hướng của mũi máy bay bất chấp những trận gió quất, và cuối cùng là đặt chúng tôi, Nouk và tôi, lên mặt đất, với toàn bộ sự dịu dàng mà cỗ máy già nua thô kệch có từ năm 1947 này cho phép. Trên mặt nước cũng như trong không trung, trên băng tuyết hay băng qua những đám mây, dường như Winona cũng được phú cho cùng những phẩm chất của chú chim ruồi bạn nàng, có thể cất cánh trong nháy mắt và bay theo mọi hướng. Và giống như trái tim của chú chim, trái tim nàng cũng biết thích nghi với hoàn cảnh hiện tại, đập nhanh trong nỗi đam mê, đập chậm để trả lại công bằng cho lý trí. Dễ dàng làm sao khi yêu một người phụ nữ như thế, cùng thức giấc với nàng, nằm ngủ bên cạnh nàng và cảm nhận rằng thời khắc kỳ diệu duy nhất này đánh dấu sự chấm hết của Thời kỳ tăm tối. Vợ tôi đồng thời là tấm áo choàng, cây đũa, con thỏ và chiếc mũ. Làm sao cùng một người phụ nữ ấy lại đồng thời có thể lái máy bay, yêu tôi, cứu sống con chó của nàng, chịu đựng L’Excelsior, lao vút lên từ mặt tuyết, từ mặt nước, tin tưởng vào quyền năng của một chú chim đồng thời mang lại cho mỗi người niềm ham sống và hương vị của hạnh phúc? Tôi không biết.

Chuyến bay vào Giáng sinh năm 2005 về phía Bắc nằm trong số những thời khắc ân điển mà đôi khi ta được nếm trải trong dòng chảy của cả một đời người. Bất chấp thời tiết giá lạnh, bầu trời trong veo như pha lê, và, do ảo tượng Bắc Cực, chúng tôi có cảm giác mình nhìn thấy những vùng đất xa xôi thuộc Nunavut. Ở độ cao 3.000 mét, vào thời kỳ này trong năm, sau những đợt lở tuyết vô cùng lớn, Québec giống như một bề mặt khổng lồ phủ bông. Vô số hồ nước ở xứ này đã hoàn toàn biến mất dưới lớp băng và tuyết tích tụ. Ngoài vẻ đẹp đến ngạo mạn của bức tranh, nét đồng nhất ấy khiến việc định hướng trở nên vô cùng khó khăn, và tôi tự hỏi không biết nhờ phép mầu nào mà Winona có thể tìm được những dấu mốc của nàng trên cái bánh ga tô phủ đường tuyết khổng lồ này. Thiết bị của nàng theo tôi có vẻ thô sơ, dường như nó thích hợp với việc bay bằng mắt thường hơn là được dẫn đường bằng máy móc. Nhưng nàng không có vẻ gì là lo lắng, thỉnh thoảng lại quay đầu nhìn về phía đuôi máy bay, hẳn là giống như một chú chim ruồi vẫn làm trước khi thực hiện một cú bay lùi. Sau chuyến bay chừng hai giờ rưỡi, chiếc Beaver chúc mũi, rồi vẽ một đường lượn xuống tròn trĩnh hơn, đối mặt với một khoảng trinh nguyên mênh mông mà chẳng có gì giúp phân biệt với một khoảng trinh nguyên khác, rồi hạ đôi càng trượt xuống, không hề giật cục, in dấu cái đường lướt dài ngoằng của nó lên lớp tuyết. Khi máy bay dừng lại, tôi nhìn thấy một ngôi nhà vững chãi làm bằng những súc gỗ, có khói bốc lên từ ống khói. Nouk nhảy ra khỏi khoang máy bay rồi bắt đầu chạy trong tuyết.

Bên trong ngôi nhà, mọi thứ đều chào đón, ấm cúng, và chúng tôi tưởng như những người sống ở đây chỉ đi vắng trong chốc lát. Trên chiếc bàn kê giữa nhà, một ngọn nến thơm Winter White tỏa ra thứ mùi pha trộn giữa mật ong, táo và quế. Đó chính là những phép mầu Giáng sinh mà Winona có thể tạo ra. Trong lúc bước vào nơi ấy cùng Nouk và cô nàng Anh điêng rành phép thuật, có lẽ tôi sẽ chẳng hề cảm thấy ngạc nhiên nếu, đúng khoảnh khắc ấy, một đàn chó sói, chính là những con sói từng dạy chúng ta biết nói và biết cách trụ lại trên thế giới này, có đẩy cửa bước vào để cùng chúng tôi nâng ly rượu chào mừng. Người phụ nữ này thật phi thường, nàng yêu, suy nghĩ, phân tích, thấu hiểu cái thế giói này ngay từ cái nhìn đầu tiên, và tôi tin rằng trong suốt từng ấy năm chung sống, tôi chưa bao giờ thấy nàng vấp phải cái ngưỡng của sự thiếu hiểu biết. Đêm ấy, tôi ôm nàng trong vòng tay cho đến khi giấc ngủ đánh gục chúng tôi, trong khi Nouk canh chừng đống lửa, cánh cửa, ngọn nến cùng những âm thanh lạ lùng mà con người tạo ra khi họ buông thả bản thân trong những hành động kỳ quặc mà theo quan điểm của nó thì không giống với bất kỳ thứ gì.

Tuần lễ đó lướt qua cuộc đời chúng tôi, xoa dịu những nỗi mệt nhọc và những quầng mắt của chúng tôi, đồng thời giúp chúng tôi ý thức được mình từ đâu đến và mình đã trở thành thế nào. Winona gần gũi với những khu rừng của nàng hơn là tôi gần gũi với Skagen hay kè Lombard. Mỗi ngày, nàng bay trên lịch sử và những vùng đất của mình, trong khi tôi già nua dần dưới những lớp kính độc hại của L’Excelsior. Tuy nhiên, tôi chẳng có gì hối tiếc về quãng đời vốn không có gì to tát nhưng vẫn đủ đầy với tôi ấy.

Khi thời tiết cho phép, Winona dẫn tôi và Nouk đi dạo trong rừng, chỉ cho tôi thấy dấu vết của những loài động vật mà nàng chỉ thoáng nhìn đã đoán nhận được ngay, nàng dạy tôi cách xác định phương hướng trong cái mê cung băng giá ấy, cách lắng nghe tiếng gió hoặc thông điệp xa xôi của một con vật nào đó. Tôi bám theo nàng mà không hiểu hết, nhưng vẫn tiếp tục tiến lên trong khi Nouk, chăm chú với công việc của mình, làm nhiệm vụ mở đường, quan tâm đến mọi chỉ dẫn âm thầm mà vợ tôi có thể gửi đến nó. Tôi yêu thế giới ấy, cái thế giới kiệm lời, đầy cảnh giác, nơi trí tuệ tìm lại được những dấu vết của tổ tiên, những phản xạ và khả năng quan sát từng cứu nó vào thời kỳ khi chúng ta còn chưa biết nói.

Buổi tối, Winona kể với tôi về gia đình nàng, cái gia đình đã tán tác tứ phương và gần như nàng không còn gặp gỡ nữa. Nàng nhắc đến cuộc sống hằng ngày của những người Algonquin trước khi những nhà truyền giáo đến đó để chỉ trích những luật lệ cùng tín ngưỡng của một thế giới rất lâu đời, và rồi vĩnh viễn phá vỡ sự tiếp nối. Tối 24 tháng Mười hai, trước lễ mi xa, các thành viên của nhiều bộ lạc từ đây đã đồng thanh ca vang những bài thánh ca Giáng sinh. Gloria in excelsis deo. Đêm Thánh vô cùng. Stille Nacht, Heilige Nacht.

Nàng cũng kể với tôi câu chuyện phi thường về bác Nathorod của nàng, trong ngôn ngữ bản địa cái tên ấy có nghĩa là “sấm nhỏ con trai của đất”. Mọi người gọi bác là Nat. Sống trong một vùng hẻo lánh, đã kết hôn và là cha của ba đứa trẻ, Nathorod không có giải pháp nào khác để nuôi sống gia đình mình ngoài việc đi làm ở nơi người ta có việc dành cho bác. Đầu tiên là thợ mỏ ở Yukon, sau đó bác đi hái thuốc lá, thuê 50 héc ta đất để vừa canh tác vừa chăn ruôi, nhưng tất cả những công việc đó đều không đủ sống. Bác liền đăng ký làm tài xế xe tải đường dài cho một hãng vận tải chạy tuyến Toronto-Vancouver. Mỗi lượt đi mất bốn ngày, nên bác chẳng có mấy thời gian để nghỉ ngơi. Khi về hưu, Nathorod trả lại chìa khóa chiếc xe Mack rồi trở về sống giữa người thân. Nhưng bác cảm thấy mình đã già, và biết rằng thời gian của bác lại càng quý giá hơn bởi từ lúc đó trở đi nó được tính bằng ngày. Và rồi một buổi sáng, bác biết rằng ngày ấy đã đến.

Giọng nói của Winona dịu dàng mở ra, lần lượt, những cánh cửa trong câu chuyện ấy. “Bác em đã họp cả gia đình lại rồi nói với họ thế này: ‘Bấy lâu nay cha vẫn làm việc vì gia đình. Và chuyện đó là bình thường. Nhưng giờ đây, cha là một ông già, và cha quyết định làm điều gì đó cho bản thân, chỉ cho một mình cha thôi. Cha đã quyết định sẽ đi xuyên Canada với chiếc máy kéo cũ của mình, từ Thái Bình Dương đến Đại Tây Dương. 8.000 ki lô mét với chiếc John Deere cũ kỹ. Muốn hết bao nhiêu thời gian cũng được.’ Sau đó, Nathorod nhờ một người bạn vận chuyển máy kéo của bác đến Horse Shoe Bay, sát gần Vancouver. Ở đó, bác lùi xe đến sát mép nước, cho đến khi bánh sau của nó nhúng xuống Thái Bình Dương. Rồi bác khởi hành, nhắm thẳng hướng Đông. Trong bốn tháng, với tốc độ từ 10 đến 15 ki lô mét mỗi giờ, cho dù thời tiết ra sao, bác cứ lái xe như thế, để xem, như bác vẫn thường nói ‘đường đất và con người ở xứ này ra sao, nhưng cũng vì trước khi chết ta muốn làm một việc gì đó chưa từng có ai làm’. Trong chuyến đi ấy, bác đã trải qua đủ loại phiêu lưu và rủi ro. Đến Saint Johns, Newfoundland, gần như ở đầu kia của thế giới, bác em dừng lại một lát để bánh trước của chiếc máy kéo tiếp xúc với Đại Tây Dương. Và tại đó, bác đã làm một hành động chưa từng thấy. Bởi vì không muốn một ngày kia ai đó có thể nghi ngờ lời nói của mình, Nathorod liền đề nghị một người xác nhận giúp cái cảnh tượng mà ông ta vừa chứng kiến, rồi ký tên và ghi rõ ngày tháng vào một văn bản. Mặc dù không quá quan trọng, nhưng những tờ giấy ấy chính là thứ đáng nhớ nhất, quý giá nhất trong cuộc đời bác. Và bác thường kể về nhân chứng trứ danh ấy, ông Hautshing, em không nhớ chính xác tên ông ta lắm. Nhiều năm sau, bác đưa em đến ga ra của bác, nơi bác cất giữ kẻ đồng lõa già nua John Deere của mình, nhấc tấm bạt phủ trên một kệ giá và lấy ra hai bi đông đựng đầy nước. Trên một bi đông có viết, bằng chữ khổ lớn ‘Thái Bình Dương’, và trên chiếc còn lại ‘Đại Tây Dương’. Bác cho em xem hai cái bi đông nước ấy, rồi bảo em: ‘Chính bác đã đổ đầy nước vào hai cái bình này, ở hai đầu đất nước’, và mắt bác rưng rưng lệ. Đấy, câu chuyện về chuyến đi của bác Nat nhà em là như thế.”

Lúc ấy, tôi có cảm giác Winona vừa gấp lại một cuốn sách tranh khổ lớn, một câu chuyện cổ tích tuyệt vời mà ta đọc cho đám trẻ con để chúng mơ thấy những giấc mơ đẹp đẽ, chắc hẳn là câu chuyện cổ tích xúc động nhất, cảm động nhất, mang tính cảm hóa nhiều nhất mà tôi từng được nghe.

“Anh có biết chuyện gì diễn ra vào ngày chôn cất bác em không? Đúng như bác đã yêu cầu trước khi chết, sau khi quan tài được hạ huyệt, các con bác đến bên miệng hố và dốc hết nước trong hai chiếc bi đông kia vào đó.”

Chúng tôi gần như không nghe thấy tiếng lửa bốc lên. Thỉnh thoảng, tiếng lách tách của gỗ thông bổ sung cho nó chút sức sống. Bên ngoài, trận bão tuyết được dự báo đã bắt đầu. Winona khoác áo khoác chống nước lên người, xỏ chân trong đôi bốt lông và lao vào màn đêm, giữa vòng vây của cơn mưa tuyết trắng xóa, để kiểm tra xem chiếc Beaver đã được chằng buộc chắc chưa. Dường như nàng đoán chừng được mức độ tuyết rơi, rồi, chậm rãi, có vẻ như vẫn tiếc nuối vì không được ở bên ngoài lâu hơn để tận hưởng vũ điệu của những bông tuyết, nàng quay trở về căn nhà gỗ của chúng tôi. Nouk chạy đến sục mõm vào bên dưới cánh tay tôi, và khi đi ngang qua, Winona hôn tôi, để mặc tôi một mình đối diện với bác Nathorod của nàng, bác đang giơ ra hai bình nước của hai đại dương, thứ nước một ngày kia sẽ rẽ ra để bác đi qua.

“Vì tao cảm thấy phiên tòa của tao sẽ sớm diễn ra, nên tao muốn hỏi ý kiến mày. Mày có nghĩ tao tự nhận tội là khôn ngoan hơn không? Liệu chừng đấy, đừng có tưởng tao đã làm bất cứ chuyện gì như thế. Tao vô tội hơn bao giờ hết. Nhưng vì tao biết rằng đám thẩm phán ấy, họ chuyên nghĩ xiên xẹo, nên tao tự nhủ có lẽ mày sẽ góp ý được gì đó với tao. Ý tao ở đây không phải là mày cũng có vấn đề về đầu óc, hoàn toàn không phải thế đâu, nhưng vì mày cũng tinh ma, mày biết tính toán các cú đòn, nên tao tự nhủ mày sẽ có ý tưởng gì đó.”

Tôi thì chỉ thầm tin chắc rằng Patrick đã cho thằng bạn chim lợn của gã đi chầu tiên tổ, và gã đang tìm kiếm một lối thoát để luồn lách khỏi một hồ sơ tồi tệ trong đó gã chình ình ở một vị trí bắt mắt. “Nhận tội, liệu việc đó có thể khiến một kẻ thừa nhận một mẩu thôi chứ không phải toàn bộ? Tao giải thích với mày nhé: trong vụ của tao, cái thằng bị chết ấy, tao có giao du với hắn, ok. Tao biết hắn là một kẻ chim lợn, vẫn ok. Tao cũng thừa nhận là tao có nện hắn. Cho đến đoạn này, không có vấn đề gì. Nhưng sau đó, stop. Chuyện xảy ra sau đó, tao ấy, tao chẳng có liên quan gì. Khi nó xơi viên kẹo đồng 9 li ấy vào đầu, tao đã ở rất xa rồi. Này, gần như là ở nhà tao rồi, nói thế cũng được. Phải đến mười phút đi đường. Thế thì làm sao tao lại bị nghi ngờ được? Đó chính là cái món chỉ nhận một phần vụ việc đấy, chỉ đoạn đầu thôi. Cái đó ở tòa án gọi là gì nhỉ, nhận tội một nửa à?”

Khi chứng kiến những gì Patrick cho tôi thấy trong hồ sơ của gã cùng những lời chứng ghi ở đó, tôi nghĩ rằng một lời “nhận tội một nửa”, cụm từ mà tôi cho rằng chưa từng xuất hiện ở chốn pháp đình, đồng nghĩa với việc chẳng coi tòa án ra cái chết tiệt gì, theo như cách dùng từ của gã Horton này.

“Thực tình, ngoài hai hay ba chuyện ngớ ngẩn ra, tao tin rằng họ chẳng có gì nhiều nhặn để chống lại tao. Nếu làm theo cách tao vừa bảo, tao sẽ bày cho họ một cửa thoát, đó là cách diễn đạt mà luật sư của tao lúc nào cũng dùng. Hắn bảo tao rằng, anh Horton ạ, ta luôn phải bày cho thẩm phán một cửa thoát, nếu không ông ta sẽ nhất quyết làm theo ý mình. Quay trở lại với ý của tao, đôi bên cùng có lợi, tao sẽ thú nhận những chuyện ngu ngốc của tao, và thẩm phán sẽ kết tội tao đúng với mức án mà tao đã thực hiện xong. Chúng tao bắt tay nhau, và xin chào mẹ Françoise! Mày nghĩ thế nào? Tao ấy à, theo ý tao, làm thế là chuẩn. Nhất là khi, mày biết đấy, hơn thế nữa, ngoại trừ vụ nện nhau kia thì tao hoàn toàn vô tội.”

Patrick đang ở vào một trong những ngày tồi tệ của gã, những giai đoạn tệ hại khi đủ loại ý tưởng hoặc suy nghĩ nhiễu tạp choán hết tâm trí gã, làm hỏng khả năng xét đoán và lương tri của gã. Trong những thời khắc đó, tốt hơn hết là cứ để cho hơi nóng xả hết, và chờ đến khi áp suất hạ xuống. Có lẽ đó chính là quy trình mà lẽ ra tôi cũng nên theo, vào cái ngày mà, ở L’Excelsior, cuộc đời tôi ngả sang phía tồi tệ, nhất là vì sau đó, khi đứng trước thẩm phán, thậm chí tôi còn không nhanh trí để “nhận tội một nửa”.

Quãng đầu năm 2006 đối với tôi là một thử thách thực thụ. Đúng như Kieran Read đã cảnh báo, sau vài năm chạy rốt đa, tay cost killer đang phát huy hết công suất, kiểm tra chỗ này, cắt xén chỗ kia, đồng thời bổ sung không biết bao nhiêu điều khoản vô ích vào những nội quy mà, kể từ khi ông ta được bầu làm chủ tịch hội đồng quản trị, đã trở nên hao hao giống những cuốn danh bạ điện thoại. Chúng tôi không còn sống trong một tòa chung cư, mà là một kiểu công quốc chuyên chế nơi vương công quyết định mọi chuyện. Và điều đáng ngạc nhiên hơn cả chính là toàn bộ cư dân đều ngoan ngoãn phục tùng thói đỏng đảnh của kẻ đứng đầu cái công quốc nhỏ bé đó, nơi tôi là nạn nhân bị bắt nạt được chỉ thẳng mặt, với tư cách cận thần đầu tiên chịu trách nhiệm chi tiêu những châu ngọc của hoàng gia. Sedgwick, tín đồ toàn tòng của những biên bản ghi nhớ, khiển trách tôi mua quá nhiều muối cho bể bơi, quá nhiều trang thiết bị bảo trì bảo dưỡng, không tuân thủ chính xác các khuyến cáo của nhà sản xuất về các giai đoạn bảo dưỡng máy cắt cỏ, để mức nhiệt độ quá cao khi đun nước nóng trong khi nhiệt độ đã được chính ban quản trị quy định, không mang các thùng rác ra đủ sớm, kéo chúng vào quá muộn, không chịu buộc dây dắt chó trong hành lang mỗi khi đưa nó đi dạo. Tôi cảm thấy hổ thẹn khi phải nhận những biên bản đó đến nỗi đã giấu biến chúng khỏi tầm mắt Winona và không dám kể về chúng với Read. Tôi nghĩ rằng Sedgwick “tính trước đến cả mười bảy nước đi” giống như Patrick thường nói, và rằng cái chiến lược ấy - đẩy tôi đến bước đường xin thôi việc để thay thế tôi bằng các công ty cung cấp dịch vụ - đã hình thành trong đầu ông ta từ lâu.

Nhất là công việc bảo trì và sửa chữa, trong một thời gian dài, vốn là nguồn gốc mang lại cho tôi niềm thỏa mãn mà một nghệ nhân có thể cảm thấy sau khi hoàn tất công việc của mình, từ giờ trở đi chỉ còn là một chuỗi quy trình được thực hiện một cách mù quáng, và không có triển vọng nên hồn nào. Tôi không còn muốn tranh luận về bất kỳ điều gì, chỉ bằng lòng với việc ngu ngốc tuân theo những lộ trình đưa công quốc thẳng đến thời tàn.

Tôi không còn đáp ứng những yêu cầu cá nhân “vượt ra ngoài phạm vi phận sự của tôi”. Các chủ nhà đề nghị trả tôi tiền để giúp họ những sửa chữa lặt vặt mà trước đây tôi làm miễn phí. Bây giờ, tôi chỉ có thể đuổi khéo họ và lái họ sang một thợ sửa chữa. Thường thì họ rất khó chịu khi bị tôi từ chối, và biến nó thành thù hận cá nhân. Từ một thị thần niềm nở dưới thời quản trị của Alexandre, tôi nhanh chóng trở thành gã gác cổng quàu quạu trong nhiệm kỳ của Sedgwick. Khi ấy, tôi còn chưa biết điều này, nhưng ngay từ đầu năm ấy, đối với tôi, chiếc đồng hồ đếm ngược đã được khởi động.

Tất cả những chuyện đó chẳng là gì nếu so sánh với nỗi bất hạnh sẽ vĩnh viễn phá hủy một phần con người tôi, và cho đến nay, vẫn là điều tôi không thể chịu nổi, giống hệt như ngày đầu tiên. Vào buổi tối xảy ra thảm họa, thật lạ lùng, người duy nhất mà tôi nghĩ đến, mà có lẽ tôi sẽ cần người đó đến ôm choàng tôi trong vòng tay, chính là cha tôi, Johanes Hansen, vị mục sư đã cho tôi cái họ của ông. Tối đó, tôi còn nhớ mình đã rành rọt gửi đến ông lời yêu cầu mà tôi chưa từng nói ra suốt thời gian ông còn sống: “Cha ơi, lần này, cha hãy giúp con.” Tôi không biết liệu lời đề nghị ấy có tác dụng gì không, nhưng vẫn hy vọng một phép mầu sẽ cứu vớt chúng tôi khỏi chết chìm, bằng cách nói với chúng tôi rằng mọi chuyện đã kết thúc, rằng chẳng có gì xảy ra cả, rằng tất cả chúng tôi sẽ trở về nhà, cùng nhau ăn tối và sau đó dập đi những ký ức cùng ánh sáng của một ngày tồi tệ.

Thứ Bảy ngày 12 tháng Tám năm 2006, Winona dậy sớm. Tôi không biết nàng có hôn tôi giống như nàng vẫn quen làm mỗi khi rời nhà trước tôi không. Nàng có hẹn lúc 8 giờ tại căn cứ thủy phi cơ, để đưa ba người câu cá cùng thiết bị của họ đến bờ hồ Mistassini, gần Chibougameau, cách Montréal hai giờ rưỡi bay về phía Bắc. Chiếc Beaver của nàng cất cánh lúc 9 giờ từ sông Prairies rồi bay xa dần, chở trong khoang, giống như mỗi lần lên đường, mấy gã vô cùng phấn khích vì được ở trong khung cảnh chỉ có đàn ông với nhau, mang trong hành lý những món bổ sung cho testosterone của họ cùng lượng bia và mồi sống cần thiết để dụ lũ cá.

Ngày trôi qua, rồi đêm xuống. Khi sóng điện thoại cho phép, Winona có thói quen, lúc chuẩn bị bay về, gọi cho tôi để nói với tôi rằng nàng sắp cất cánh, thời tiết ra sao và khoảng mấy giờ nàng sẽ có mặt ở nhà. Đến khoảng 20 giờ mà vẫn không có tin tức gì của nàng, tôi gọi cho Pradier, viên quản lý của công ty Beav’ Air, người này nói với tôi rằng anh ta đang chờ chiếc máy bay nhưng không có tin tức gì thêm.

Màn đêm buông xuống, ánh đèn lần lượt sáng lên trong tất cả những tòa chung cư to lớn của cái thành phố men theo bờ sông trong trang phục mùa hè. Ở phía Tây, những ánh lửa cuối cùng của buổi hoàng hôn, còn ở đây, đằng trước cửa sổ nhà tôi, là những đống than hồng lo lắng. Không có bất cứ lý do khả dĩ và hợp lý nào có thể khiến Winona còn chưa về đến nhà. Lẽ ra nàng phải trở về vào quãng 17 giờ. Sở dĩ nàng không báo tin cho ai, là vì có một sự cố ngăn cản nàng làm việc đó. Khoảng 22 giờ, Pradier thông báo với tôi rằng anh ta đã liên lạc được với một trong mấy người đi câu, người này khẳng định với anh ta rằng Winona đã thả họ xuống vào khoảng giữa trưa, trước khi bay ngược từ hồ về Montréal vào lúc 13h30. Pradier chỉ nói thêm một câu: “Bây giờ, tôi nghĩ rằng tôi phải gọi điện để tiến hành tìm kiếm thôi.”

Tôi trải qua cả đêm ấy trong bóng tối, ngồi trên xô pha, điện thoại nắm chặt trong tay. Nouk áp thân mình nó vào sườn tôi. Lần đầu tiên, nó không hề đụng đến đĩa đồ ăn buổi tối. Trong bước tiến khắc nghiệt của mình, cỗ xe lu của giờ giấc nghiền nát tất cả những mảnh hy vọng có thể rơi rớt lại trong tôi. Khi ánh ngày một lần nữa lọt vào căn hộ, tôi cảm thấy rằng Winona đã chết, rằng tất cả đã chấm hết, rằng vợ tôi sẽ không bao giờ trở về nữa; và rằng, lần này, chú chim ruồi đã đánh mất quyền năng cùng như đôi cánh của nó. Vào lúc này hay lúc khác, điện thoại sẽ đổ chuông, một giọng nói sẽ cất lên: “Anh là anh Hansen phải không?” Sau đó, những gì giọng nói ấy thuật lại sẽ tuyệt đối không còn gì quan trọng nữa.

Đã nghe tin tức qua truyền hình, Read đến chờ đợi cùng tôi. Ông không nói gì nhiều, chỉ pha cà phê rồi chúng tôi lặng lẽ uống từng ngụm nhỏ.

Một trực thăng và một máy bay quân sự bay tuần tra dọc hành lang hàng không được coi là tuyến đường mà chiếc Beaver phải bay qua. Không có kết quả gì. Ngày thứ Hai, những cuộc tìm kiếm mới bị ngừng trệ vì một con dông mùa hè mạnh kèm theo gió lốc dữ dội. Tôi chỉ ra khỏi căn hộ để đưa cô chó đi vệ sinh, rồi chúng tôi lại quay về hang ổ để che giấu nỗi đau buồn và sợ hãi. Nouk hoàn toàn không chịu ăn tối nữa. Bình thường vốn tràn trề sức sống và năng lượng là thế, lúc này, dường như nó đã khoác lên mình một tấm áo tang vô hình. Nó không rời khỏi tôi, không phải để cảm thấy an toàn, mà để an ủi tôi thì đúng hơn. Tôi lùa ngón tay vào lớp lông dài của nó, tôi siết chặt lấy ngực nó, cảm thấy trái tim nó đập ngay trong lòng bàn tay mình. Tôi không thể làm gì khác ngoài dụi mặt vào lớp lông trên người nó, nói với nó rằng tôi yêu nó, rồi khóc. Tôi biết rằng Winona đã chết. Nàng đã mất tích khi chiếc Beaver bi rơi rồi vỡ nát. Thi thể nàng bị giam hãm trong chiế máy bay ở dưới đáy hồ sâu. Hoặc thậm chí là cháy đen trong vụ nổ khoang máy bay. Thực ra, tôi không muốn biết gì về các tình tiết, bởi vì sau đó thảm kịch sẽ được chậm rãi tái dựng, và nhất là tới tấp những câu hỏi về tình trạng thi thể, mức độ hủy hoại khuôn mặt, những khổ hình của da thịt, tình trạng vỡ nát của xương, và nhất là những cái hộp đen vô hình trong tâm trí không bao giờ khôi phục được những lời lẽ, những suy nghĩ, cơn thịnh nộ, nỗi hoảng loạn và nỗi đớn đau của những giây cuối cùng, những giây khi ta bắt đầu, thậm chí trước cả khi nghe thấy tiếng ầm ĩ, hiểu ra rằng người đàn ông kia cùng cô nàng chó đã thuộc về một thế giới khác, thế giới nơi ta phải tự an ủi mình bằng cách kể cho nhau nghe những chuyện ngu ngốc về quyền năng của lũ chim, sự kiên nhẫn của lũ sói, lòng nhân từ của thánh thần, việc huấn luyện lũ thỏ ở giáo đường và cả sự chắc chắn của những chiếc máy bay, mặc dù ai nấy vẫn luôn biết rằng “chúng nổi tiếng là đôi khi trở nên phản trắc, đột ngột ngừng hoạt động khi bay chậm và việc lấy lại độ cao nổi tiếng là mạo hiểm, thậm chí là trí mạng trong một số trường hợp.”

Tôi không muốn nghĩ đến tất cả những chuyện đó, đón nhận đống câu hỏi đó, cái dòng thác của những giả thuyết vô ích, những từ ngữ có vẻ thông thái, chỉ vừa được kết nối với nhau, từ nọ dính vào từ kia để đánh lừa sự chờ đợi, dựng nên một bức tường tạm bợ, vội vàng, giữa bản thân ta và cái tin tức sẽ đến, mà ai nấy đều biết rằng vào giây phút cuối cùng, chỉ bằng một từ, nó sẽ quét sạch sự phòng thủ mong manh này.

Thông tin đến vào ngày thứ Năm, ngay đầu giờ chiều. Có người bấm chuông ở cửa. Hai thành viên của Cảnh sát Hoàng gia Canada.

“Tôi đến thông báo với anh về thực trạng tìm kiếm. Mảnh vỡ máy bay được phát hiện sáng nay, khoảng 8h30, ở gần đảo Cèdres trên hồ Kempt, cách Montréal một giờ bay. Có vẻ như máy bay đã định hạ cánh khẩn cấp, nhưng mọi chuyện diễn ra không thuận lợi. Các nhóm tìm kiếm đang ở thực địa để thu nhặt thi thể vợ anh. Đáng buồn là chị nhà đã qua đời. Chúng tôi sẽ đến đón anh ngay khi đưa được chị nhà về Montréal. Chúng tôi thật sự lấy làm tiếc. Chúng tôi rất tiếc, và rất buồn.”

Hai viên cảnh sát đứng trước mặt tôi. Tôi cố gắng nói gì đó với họ, nhưng không thể thốt ra nổi. Có thứ gì đó đã thoát khỏi tôi, ra sức bỏ trốn, cứ thế chạy thẳng, thứ gì đó mà tôi vẫn giữ gìn từ thuở ấu thơ, có lẽ là một phần của chính tôi, và từ ngày đó nó không bao giờ trở lại nữa. Thế là, tôi cứ đứng nhìn hai viên cảnh sát, tìm cách vịn bàn tay phải của mình lên một trong hai người họ, cảm thấy sức nặng của thế giới đè nát tôi và tước bỏ khả năng nâng đỡ của đôi chân, tôi chầm chậm sụp xuống bên chân họ.

Tại nhà xác, tôi nghĩ ai nấy đều đã làm hết khả năng của họ để tôi có thể nhận ra thân thể bị cắt xẻ của Winona. Người ta chỉ cho tôi nhìn khuôn mặt phải chịu nhục hình của nàng, tôi không đưa mắt nhìn đi chỗ khác, tôi ở lại bên nàng một lát để khắc sâu trong tâm trí mình từng phân vuông trên những gì nỗi bất hạnh đã để lại cho tôi, và khi trái tim gần như sắp nổ tung, tôi bước ra ngoài.

Về phần mình, Read đã tìm ra được một người họ hàng xa của Winona, và người đàn ông ấy đã lên đường. Anh tự giới thiệu với tôi rằng mình là anh họ về đằng nội của nàng. Hai chúng tôi không hề biết gì về nhau, và người này cũng chẳng có gì nhiều để nói với người kia, ngoại trừ điều cốt yếu nhất.

“Winona Mapachee là con gái của chú thứ hai nhà tôi. Chúng tôi đi học cùng nhau, thế rồi cả hai gần như không gặp nhau nữa. Khi biết chuyện xảy ra, người cha già của tôi bảo: ‘Con đến đó rồi yêu cầu người đàn ông kia chấp thuận để chúng ta mang xác con bé về đất đai của gia đình nó, để chúng ta chôn con bé ở đây, tại quê nhà của nó.’ Cha tôi đã nói thế. Và tôi đến gặp anh để nhắc lại với anh yêu cầu đó.”

Tôi không biết vợ tôi muốn gì, và chẳng có gì uổng công hơn là muốn suy nghĩ thay cho người đã chết. Thế nên tôi để trái tim mình lên tiếng, và nó đã nói được, anh có thể đưa cô ấy về nhà, để cô ấy được ở cùng người thân của cô ấy. Nhưng tôi sẽ không đi về phía Bắc đâu. Tôi sẽ nhờ anh lái xe đưa cô ấy về đấy, sửa soạn và làm lễ cho cô ấy trong đêm an táng. Tôi sẽ đưa lại cho anh cả con chim của cô ấy, và anh sẽ đặt nó vào bên cạnh cô ấy. Còn tôi giữ toàn bộ những thứ khác. Mười một năm hạnh phúc ngập tràn ấy, mười một năm ngốn ngấu từ mặt đất lên đến bầu trời ấy, nhờ cô con gái tuyệt vời của chú thứ hai nhà anh ấy. Nàng là người mà ở bên nàng tôi vẫn luôn cố gắng để đứng thẳng, trong băng tuyết và trong rừng, mỗi khi mùa hè cũng như khi bão tố. Tôi đã theo nàng đi khắp nơi. Nàng có khiếu giúp phát tiết cái phần tốt đẹp nhất trong mỗi người. Tôi nhường cho anh cái thân hình mà chiếc máy bay đã làm vỡ nát đó, nhưng tôi giữ lại toàn bộ những thứ khác. Mỗi người có một phần thừa kế riêng. Thật khủng khiếp khi phải chia sẻ. Anh nhớ lái xe nhẹ nhàng thôi nhé.

Trong suốt tuần lễ sau khi chiếc máy bay được phát hiện, tôi giam mình trong căn hộ. Tôi không bận tâm đến L’Excelsior, dù chỉ một giây. Không một cư dân nào xuất hiện trước cửa phòng tôi. Không có ai đến hỏi thăm tin tức của tôi. Để giúp tôi khuây khỏa, Read báo với tôi rằng Sedgwick đã tự tay dán thông báo về một phần phụ lục mới bổ sung cho quy định về việc sử dụng những chiếc ghế dài mà “sau khi dùng xong không bao giờ được để lại trên những khu trồng cỏ”.

Không khí ẩm ướt len lỏi vào mọi chỗ. Hẳn là Winona đã ở trong lòng đất. Tôi không thể nào chịu đựng nổi ý nghĩ đó. Có những lúc tôi muốn nhảy lên xe rồi lao đến giành lại nàng từ tay những người Anh điêng. Những lúc khác, tôi hình dung nàng đang đến yên nghỉ giữa những người thân và linh hồn tổ tiên nàng đang kể rằng ở nơi đó, nàng có thể phân biệt tám mươi kiểu tuyết, trong khi người da trắng thì chỉ nhìn thấy những “đống” mà thôi, chẳng hạn thế.

Nouk bám sát gót tôi, và nếu có thể, hẳn nó đã sống trong tôi. Ban đêm, chúng tôi ra khỏi nhà để đi dạo rất lâu trên những con phố và trong công viên Ahuntsic. Khi nhiệt độ khiến xung quanh trở nên ngột ngạt và không khí chứa đầy hơi ẩm, như vẫn thường xảy ra vào mùa này, cô nàng chó chạy đi rồi dừng lại ở bờ hồ trong công viên. Nó giậm chân sốt ruột và chăm chú nhìn tôi bằng đôi mắt đen láy như đang nói với tôi thật rành rọt: “Tôi có thể xuống đó không?” Tôi lại gần nó, vuốt ve khuôn mặt chăm chú của nó rồi trả lời “Đi đi!” Chỉ bằng một cú nhảy, Nouk lao mình xuống nước, rẽ sóng từ đầu này đến đầu kia, như thể, đâu đó trong cái hồ này, mạng sống của một người sắp chết đuối đang phụ thuộc vào nó. Vào những thời khắc thoáng qua ấy, cả nó và tôi cùng cảm nhận chính xác một điều, thứ cảm giác rằng, trong chúng tôi, trong vài phút, có một chút niềm vui và hạnh phúc vừa quay trở lại.