Chương 4, 5 -
Trong phòng tắm riêng ở bệnh viện, có cả bàn chải và thuốc đánh răng, dao cạo, khử mùi hôi và kem cạo râu. Laverna, người y tá đêm đã vứt chúng ngay sau khi Harvath tới vào buổi sáng Tracy bị bắn. Rõ ràng là anh không có ý định rời đi. Anh sẵn sàng ở lại lâu bao nhiêu cũng được, cho tới khi cô bình phục.
Đóng cửa lại, Harvath cởi quần áo và vặn vòi nước bồn tắm. Khi nước đã đủ nóng, anh trèo vào trong và mặc cho nước mơn man cơ thể. Nhắm mắt lại, từng chi tiết của cơn ác mộng ấy lại trở lại và anh phải cố gắng lắm mới xua đuổi được chúng ra khỏi tâm trí. Anh vừa xoa bánh xà phòng nhỏ xíu lên người vừa cố nghĩ đến một điều gì đó.
Đã xong rồi, nhưng anh biết những con quỷ ấy sẽ quay trở lại. Chúng đã ám ảnh anh ngày đêm từ khi Tracy bị bắn.
Một trong những bác sĩ đứng trong phòng khi Harvath thoát ra khỏi một cơn ác mộng tồi tệ đã khuyên anh tìm một liệu pháp nào đó, nhưng anh lịch sự cười đáp lại ông ta. Rõ ràng là ông bác sĩ không biết mình đang nói chuyện với ai. Những người trong đường dây làm việc của Scot không tìm kiếm liệu pháp nào hết. Chẳng ai trên thế giới này có thể hiểu được cuộc đời anh như thế nào và hiểu được những tổn thất đã giáng xuống anh trong những năm qua.
Vặn nước về mức lạnh, Harvath rùng mình tỉnh dậy và bước ra. Quấn khăn tắm quanh bụng, anh tựa vào bồn và lau lớp hơi nước mờ ở gương đi. Lần duy nhất trong đời, anh thực sự nhìn thấy mình thế nào – thật kinh khủng. Đôi mắt màu xanh lơ hàng ngày của anh ảm đạm và đỏ ngầu, khuôn mặt đẹp trai nhăn nhó, hốc hác. Mái tóc nâu hung hung đỏ, dù sao cũng đã đến lúc cắt. Thân hình vạm vỡ, cao lớn vốn khiến bất kỳ gã đàn ông nào bằng nửa tuổi anh cũng phải ghen tị thì đang suy nhược vì gần như năm ngày qua anh chẳng ăn gì.
Giá mà trước đây Harvath từng nghi ngờ và căm ghét bản thân như bây giờ.
Cách đây mười tám năm, anh không nghe lời cha, một giáo viên huấn luyện người nhái SEAL[1] tại Trường Chiến tranh đặc biệt của Hải quân gần nhà ở Coronado, Califonia.
Anh đã cố gắng và được nhận vào Đội trượt tuyết kiểu tự do của Mỹ. Măc dù biết con mình là một vận động viên trượt tuyết có một không hai, nhưng cha anh vẫn muốn anh học tiếp Đại học sau khi kết thúc phổ thông trung học chứ không tham gia vào giới điền kinh chuyên nghiệp. Cha và con đều ngang như nhau và từ đó, trong suốt một thời gian dài, chẳng ai nói với ai một lời nào nữa. Chính mẹ của Scot, bà Maureen, đã trở thành chiếc cầu nối trong gia đình. Và mặc dù đã có một số cuộc nói chuyện giữa hai người đàn ông, song mọi chuyện không thể nào trở lại thực sự như cũ được nữa. Cả cha và con đều chẳng muốn nhận lỗi về mình, việc này khiến cái chết của cha Harvath càng tồi tệ hơn.
Khi ông Michael Harvath chết vì một tai nạn nghề nghiệp, Scot đã thay đổi hoàn toàn. Có cố gắng đến đâu đi nữa, anh cũng không thể để tâm trở lại với việc thi thố trượt tuyết. Anh rất yêu thể thao, nhưng dường như điều ấy chẳng còn quan trọng chút nào.
Trích một phần trong số tiền thưởng lớn của mình, anh mua một cái ba lô và đi du lịch khắp Châu Âu, rồi cuối cùng dừng lại ở Hy Lạp, trên một hòn đảo nhỏ gọi là đảo Parkerros. Tại đó, anh tìm được công việc làm nhân viên đứng quầy bar cho một cặp không xứng đôi vừa lứa. Một người trước đây lái xe cho một gia đình tội phạm ở Nam Luân Đôn, còn người kia nguyên là lính trong lực lượng đặc nhiệm SWAT của Anh, một kẻ hay cằn nhằn. Sau một năm, Harvath biết anh muốn làm gì.
Anh trở về nhà và vào học tại trường Đại học Nam Califonia, ngành khoa học chính trị và lịch sử quân đội.
Ba năm sau, anh tốt nghiệp, anh vào ngành Hải quân và cuối cùng được nhận vào trường Người nhái Thủy công cơ bản và tham gia chương trình đặc biệt SQT hay còn gọi là chương trình Đào tạo Chuyên ngành Người nhái Hải quân. Mặc dù quá trình tuyển chọn và đào tạo làm anh mệt nhoài, nhưng tình trạng thể lực và tinh thần thuộc hàng vận động viên đẳng cấp quốc tế, việc anh không chịu từ bỏ bất cứ thứ gì và niềm tin rằng cuối cùng mình cũng tìm thấy tiếng gọi chân chính của cuộc đời mình điều đó đã trở thành động lực giúp anh tiến bước và mang lại cho anh vinh dự được coi là một trong những chiến binh xuất sắc nhất thế giới – một Người nhái của Hải quân Hoa Kỳ.
Với khả năng trượt tuyết có một không hai, Harvath được giao nhiệm vụ làm việc với những chuyên gia khí hậu lạnh của SEAL, Đội số Hai. Vì không hoàn thành nhiệm vụ đầu tiên, Harvath bị ra khỏi đội. Cuối cùng, những thành viên của đội Người nhái số Sáu danh tiếng lại để mắt đến anh. Chính họ đã giúp anh phát triển những khả năng của mình, không chỉ như một chiến binh, mà còn là một chuyên gia ngôn ngữ, cải thiện vốn tiếng Pháp ít ỏi và dạy thêm anh tiếp Ả-rập.
Chính trong thời gian thuộc Đội số Sáu, Harvath đã hỗ trợ một đội bảo vệ Tổng thống ở Maine và lọt vào mắt xanh của Sở Mật vụ. Nhằm tăng cường đội ngũ chống khủng bố ở Nhà Trắng, cuối cùng, họ đã thuyết phục được anh rời khỏi lực lượng Hải quân và tới thủ đô. Harvath nhanh chóng tiến xa hơn nữa và chỉ trong một thời gian ngắn đã được đề cử vào một chương trình tuyệt mật tại Bộ Nội an Mỹ, đứng đầu là một người bạn cũ của gia đình anh, Nguyên Phó Giám đóc FBI Gary Lawlor.
Chương trình này mang tên Dự án Apex, được bí mật đặt tại một chi nhánh ít ai biết tới của Bộ An ninh Nội địa, Văn phòng Hỗ trợ Điều tra Quốc tế, ghi tắt là OIIA. Nhiệm vụ của OIIA là hỗ trợ cảnh sát, quân đội và các cơ quan tình báo nước ngoài trong việc ngăn ngừa các cuộc tấn công vào người Mỹ và quyền lợi của người Mỹ ở nước ngoài. Như vậy, một phần nhiệm vụ của Harvath là phù hợp với nhiệm vụ chính thức của OIIA. Thực ra, anh là một “con chó” chiến tranh bí mật đã được tổng thống thả vào kẻ thù của Mỹ sau vụ 11/9 nhằm ngăn cản không cho bất kỳ vụ khủng bố nào vào nước Mỹ xảy ra nữa.
Lý do là bọn khủng bố không chơi theo một quy tắc nào, nên nước Mỹ cũng vậy. Nhưng có những xu hướng nhạy cảm còn tồn tại ở nước Mỹ, rằng nước ta là nước duy nhất nên tuân thủ theo các quy tắc, vì vậy tổng thống nhận thấy rằng chỉ một số rất ít nhân vật chủ chốt mới có thể biết về nhiệm vụ thực sự của Harvath, đó là chính ngài tổng thống và sếp của Harvath, Gary Lawlor.
Harvath được hậu thuẫn bằng toàn bộ sức nặng của Phủ tổng thống cũng như sức mạnh tổng hợp của quân đội và cộng đồng tình báo Mỹ. Trên giấy tờ, nghe thì có vẻ rất tuyệt, nhưng trong thực tế, đặc biệt là trong bộ máy quan liêu Washington, hóa ra lại hoàn toàn biến thành thứ khác.
Giờ đây, Harvath không muốn nghĩ về công việc của mình. Lý do là vì chính công việc đó, vì anh, vì nó mà Tracy bị bắn. Chẳng cần kết quả điều tra nào anh cũng biết điều đó. Anh biết chắc chắn là như vậy và cũng biết rõ rằng người phụ nữ nằm trên giường bệnh kia không đáng phải chịu những gì xảy ra đối với cô.
FBI có thể đã thu thập lại một số thứ trong vụ bắn giết. Họ đã phát hiện ra nơi ẩn náu mà tên sát nhân nấp trong khu rừng ven nhà anh thời điểm đó. FBI cho rằng, cho dù kẻ ám sát là ai đi nữa, hắn cũng phải tự chôn mình trong suốt buổi tối, có lẽ là vài giờ trước khi trời sáng.
Hắn để lại một lời nhắn – Máu phải trả bằng máu. Hắn cũng có một hành động kỳ quái, đó là sơn khung cửa nhà anh bằng máu. Phân tích đầu tiên cho thấy đó là máu của Tracy. Nó được vẽ trong đêm và đã khô trước khi Tracy bị bắn.
Rồi còn một con chó nhỏ đặt trong một cái giỏ nhỏ ở bậu cửa như một món quà. Harvath chỉ nhìn thấy mấy chữ cảm ơn để lại đó là biết nó từ đâu ra. Nhưng nếu ai đó muốn nhằm vào anh hoặc Tracy, việc gì phải để lại tấm thiếp làm om sòm lên như thế?
Trước đó vài tuần, trong một hoạt động bí mật ở Bibraltar, Harvath đã cứu sống một con chó Cáp Ca – cũng giống với con chó để lại trước cửa nhà anh. Chủ của con chó ở Gibraltar là một người đàn ông nhỏ thó – một gã lùn, thực ra gã này tham gia vào những vụ mua bán thông tin cao cấp. Gã cũng là người giúp cho kế hoạch tấn công vào New York. Gã được biết tới với cái tên gã Lùn ranh mãnh.
Nhưng làm sao gã Lùn tìm ra anh nhỉ? Chỉ vài người biết về ngôi nhà thờ lịch sử và khu đất mang tên Bishop’s Gate mà bây giờ Harvath gọi là nhà. Anh thấy khó mà tin rằng gã Lùn lại chủ quan và ngốc nghếch đến độ thông báo rằng ông ta đứng sau vụ nổ súng vào Tracy.
Tuy nhiên, thời gian không còn nhiều và Harvath không phải là một người tin vào sự trùng hợp. Phải có một mối liên hệ nào đó và anh quyết tìm ra nó.
Chú thích:
(1) SEAL: Người nhái với cả ba phương tiện, đường biển, đường không và đường bộ.
Chương 5Khi Harvath quay trở lại phòng bệnh, cha mẹ Tracy, Bill và Barbara Hastings đang ngồi bên giường cô. Ông Bill Hastings là một người đàn ông to lớn, cao hơn một mét tám và nặng gần một tạ. Trước đây ông chơi cho đội bóng ở Yale và trông vẫn có vẻ còn chơi được. Ông có mái tóc màu xám và Harvath đoán ông khoảng sáu lăm tới gần bảy mươi tuổi. Thấy Harvath bước vào phòng, ông nhìn lên và hỏi, “Có thay đổi gì không?”.
“Không ạ,” Harvath trả lời.
Bà Barbara mỉm cười với anh, “Anh lại ở đây cả buổi tối phải không?”.
Harvath không trả lời. Anh chỉ gật đầu. Đối mặt với bố mẹ Tracy còn khó hơn cả việc thức đêm cạnh giường cô. Anh cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm nặng nề trước những gì xảy ra đối với cô. Anh không thể tin sao họ lại tốt với anh đến thế. Giá như họ trách mắng anh về tất cả chuyện xảy ra với con gái họ đã đành, đằng này, họ chẳng hề có một lời mắng mỏ.
“Hai bác thấy khách sạn thế nào ạ?” Harvath gắng hỏi. Sự im lặng trong căn phòng không thể nào chịu nổi và anh biết mình phải bắt đầu một cuộc nói chuyện nặng nề.
“Ổn mà,” bà Barbara trả lời khi với lấy tay Tracy và bắt đầu vuốt ve cẳng tay cô. Mẹ Tracy là một người phụ nữ quý phái tuyệt vời. Mái tóc màu đỏ sẫm của bà nằm trong mũ thật hoàn hảo và những móng tay bà được cắt tỉa thật đẹp. Bà mặc một chiếc áo lụa, váy của hãng Armani dài chấm gối, tất và giày đắt tiền.
Mặc dù Harvath chẳng bao giờ thốt ra lời nào sáo rống, nhưng rõ ràng là trông Tracy giống bà.
Ông bà Hastings là một cặp rất hấp dẫn. Với số tài sản mà ông Bill Hastings đã tích lũy được trên thị trường tài chính, không có gì đáng ngạc nhiên khi họ gần như là những nhân vật ngồi lì trên những trang tiêu biểu của xã hội Manhattan.
Sau vụ tấn công vào thành phố New York ngày 3 tháng 7, họ đã bàn về việc rút ngắn kỳ nghỉ hè ở miền Nam nước Pháp, nhưng Tracy thuyết phục họ ở lại. Trong thời gian tới, Manhattan sẽ là cơn ác mộng nếu trở lại và ghé qua vì vậy họ càng lâu trở về càng tốt. Kế hoạch của họ đã thay đổi ngay khi Tracy bị bắn. Họ thuê một chiếc máy bay và vội vã lao tới Washington để đến bên con gái.
Harvath đang cố để nói một chuyện gì đó khác khi một y tá ghé đầu vào cửa và nói, “Điệp vụ Harvath? Có một quý ông muốn gặp anh. Ông ấy đang chờ ở phòng khách”.
“Được, tôi sẽ ra ngay,” Harvath trả lời. Anh rất mừng để cho ông bà Hastings có lúc riêng tư bên con gái.
Bước vòng qua ông Hastings, Harvath cúi xuống và thì thầm vào tai Tracy rằng một lát nữa anh sẽ quay lại. Anh siết chặt tay cô âu yếm, rồi quay đầu bước ra cửa.
Ngay khi anh tới chỗ nắm đấm cửa, ông Bill Hastings nói, “Nếu lại là anh chàng từ văn phòng ấy, hãy nói với anh ta rằng chúng ta không tìm thấy chứng minh thư của Tracy trong những vật dụng cá nhân của nó”.
Harvath gật đầu và đi ra. Ra ngoài căn phònG, anh rút tấm bằng lái xe của Tracy ra khỏi túi và ngắm nghía. Trời ơi, cô ấy đẹp quá. Anh không đủ dũng cảm để nói với ông Bill Hastings rằng anh biết vì sao chứng minh thư của cô ấy lại biến mất. Anh và Tracy có ít thời gian bên nhau và họ chưa kịp để chụp ảnh.
Mặc dù anh cảm thấy có lỗi khi lừa dối cha mẹ cô, nhưng Harvath không có ý định trả lại. Đó là một trong rất ít những thứ để anh nhớ lại cô như thế nào, trước khi họ bị chia lìa.
Bước vào phòng khách, Harvath thấy sếp, người bạn lâu ngày không gặp, Gary Lawlor, đang chờ mình. “Cô ấy thế nào rồi?” ông hỏi.
“Vẫn thế,” Harvath trả lời. “Đã điều tra ra cái gì mới chưa ạ?”
Gary ra hiệu cho anh ngồi xuống. Đó là một căn phòng không có cửa sổ với một chiếc tivi trên giá đỡ trên tường. Harvath ngồi xuống và chờ đợi một người đàn ông, người đã trở nên giống người cha thứ hai của anh, đóng cửa lại và ngồi xuống.
Khi Gary ngồi xuống ông nói rất nghiêm trọng. “Có thể chúng ta có lỗi trong vụ này.”
Harvath ngồi chồm người về phía trước. “Lỗi thế nào?”
“Nó liên quan tới chỗ máu vẽ trên cửa nhà cháu.”
“Thì sao ạ?”
“Bây giờ, những người ở bên tòa án đã biết đó không phải là máu người.”
“Vậy là máu gì?”
“Máu cừu.”
Harvath bối rối. “Máu cừu sao? Vậy thì chẳng có ý nghĩ gì.”
“Không,” Gary trả lời. “Nhưng đó là những gì họ thấy lẫn lộn với thứ máu mà bác muốn nói với cháu.”
Harvath không nói gì. Anh chỉ chờ đợi.
Vươn người về phía trước, Lawlor hạ giọng và nói, “Sau đám tang của Bob Herrington, ngài Bộ trưởng Bộ quốc phòng đã cho cháu đi cùng và nói cháu có nhiệm vụ phải tìm ra kẻ giết Herrington. Cháu có nhớ ông ấy đã kể với cháu rằng chúng đang bố trí để ông ấy trốn thoát để có thể theo dõi ông ấy mà lần ra những người đang làm việc với ông ấy không?”.
“Vâng, rồi sao ạ?”
“Vậy, cháu có nhớ chúng lên kế hoạch lần theo ông ấy thế nào không?” Ông Lawlor hỏi.
Harvath thoáng nghĩ. “Chúng pha máu của ông ấy với một loại đồng vị phóng xạ để tạo nên một loại tín hiệu cho phép chúng theo dõi qua vệ tinh?”.
Lawlor tựa vào ghế và theo dõi Harvath xử lý thông tin.
“Máu cừu ở đây có chứa đồng vị phóng xạ?”
Lawlor gật đầu.
“Không thể nào. Chính cháu theo dõi kẻ giết Bob.” Harvath suýt nữa thì thêm vào và cháu đã nhìn thấy ông ấy chết khi ông ấy nhận ra ông ấy không phát hiện ra tên khủng bố trả phòng.
Mặc dù Harvath nghi ngờ cỏ kẻ nào đó đã sống sót trong vụ việc anh làm với Mohammed bin Mohammed, đúng là anh không thể nào khẳng định rằng người đàn ông đó đã chết.
“Họ không tin đó là Mohammed,” Lawlor nói tiếp. “Từ những gì tôi có thể thu thập được cho thấy đây là một loại đồng vị phóng xạ hoàn toàn khác.”
“Chúng chủ ý trộn vào máu cừu và sơn lên cửa trước nhà cháu phải không?” Harvath hỏi.
Ông Lawlor lại gật đầu.
“Tại sao?”
“Ai đó đang gửi cho cháu một lời nhắn.”
“Rõ rồi, nhưng là ai? Nếu đó là một loại đồng vị phóng xạ, dù khác với loại sử dụng trên cơ thể Mohammed, khó có thể chỉ ra nó xuất phát từ đâu. Chúng ta sẽ bắt đầu từ đó.”
“Không dễ như vậy đâu,” ông Lawlor cảnh báo.
“Tại sao không? Tất cả là chương trình của Bộ Quốc phòng. Họ lưu giữ hồ sơ của bất kỳ ai. Hãy liên lạc với văn phòng Bộ Quốc phòng và cho ông ta biết rằng chúng ta cần tiếp cận.”
“Tôi đã thử rồi.”
“Và?” Harvath hỏi đầy vẻ sốt ruột.
“Không đi đến đâu cả.”
“Không ư? Hẳn là bác đùa cháu.”
Lawlor lắc đầu. “Rất tiếc là tôi không đùa.”
“Vậy chúng ta đến chỗ tổng thống. dù Bộ trưởng Bộ Quốc phòng không đồng ý nhưng nếu tổng thống Rutledge yêu cầu ông ta mở hồ sơ, tin cháu đi, ông ta sẽ phải mở.” Harvath đáp lời.
“Tôi đã nói chuyện với ngài tổng thống Rutl. Chẳng đi đến đâu cả.”
Harvath không thể tin vào tai mình nữa. “Cháu muốn tự mình đi gặp tổng thống.”
“Ông ấy biết cháu sẽ nói thế,” Lawlor an ủi. “Và ông ấy cảm thấy nợ cháu điều đó. Có một chiếc xe đang đợi chúng ta ở dưới kia.”