← Quay lại trang sách

HAI

Đèn chuyển xanh và người đàn bà băng qua đường. Nàng nhìn xuống đất khi đưa chân bước, vì trời vừa tạnh mưa và những chỗ trũng trên đường nhựa còn đọng những vũng nước, như để tưởng nhớ cơn mưa đầu xuân bất chợt này. Nàng có dáng đi thanh lịch, nhờ hợp với cái váy bó sát của bộ đồ màu đen. Nàng thấy các vũng nước và bước tránh.

Khi sang tới vỉa hè bên kia, nàng đứng lại. Người qua lại xuôi ngược, làm buổi chiều muộn đẩy lên với những bước chân về nhà, hay dạo chơi. Người đàn bà thích được cảm thấy thành phố trôi qua mình, và nàng cứ đứng đó một lúc, ngay giữa vỉa hè, ngẩn ngơ như một người đàn bà vừa bị người tình đột ngột bỏ rơi ngay chỗ đó. Không làm sao cam chịu được.

Rồi nàng quyết định rẽ phải, và bắt đầu bước theo dòng người đi dạo cùng hướng. Nhẩn nha, nàng đi dọc các cửa tiệm, kéo chặt khăn quàng vào người. Dù luống tuổi, bước đi của nàng vẫn chững chạc và tự tin, mái tóc bạc như cao quý hẳn ra nhờ dáng điệu trẻ trung. Bạc, búi gọn lại sau gáy bằng một lược kẹp tóc màu đen, lược của những cô gái trẻ.

Nàng dừng chân trước một cửa hàng điện máy, và đứng một lúc nhìn chăm chăm bức tường đặt hàng máy truyền hình la liệt, một cách vô ích, hình ảnh của cùng một người đọc tin thời sự. Nhưng độ đậm nhạt trong màu sắc lại lôi cuốn nàng. Bắt đầu một cuốn phim về một thành phố nào đó đang có chiến tranh, và nàng lại cất bước. Nàng băng qua Calle Medina rồi qua cái quảng trường nhỏ pino Soccorso. Khi đến trước Galleria Florencia, nàng quay người lại để ngắm toàn cảnh ánh sáng trải dài qua lòng tòa nhà và đổ ra, phía bên kia, đại lộ 24 tháng 7. Nàng đứng lại. Ngước mắt tìm cái gì đó trên cái cổng tò vò bằng sắt chỉ dấu lối vào chính. Nhung nàng chẳng tìm được gì. Đi vài bước vào bên trong Galleria, rồi chặn một người đàn ông lại. Nói lời xin lỗi, và hỏi ông ta tên chỗ này. Người đàn ông trả lời. Nàng cám ơn và chúc ông một buổi tối tốt đẹp. Người đàn ông mỉm cười.

Thế là nàng bắt đầu đi dọc theo Galleria Florencia và vào một lúc trông thấy cái ki-ốt nhỏ, cách nàng chừng hai chục thước, nhô ra từ bức tường bên trái, trong một khoảnh khắc gây chướng mắt so với bóng dáng gọn đẹp của tòa nhà. Đó là một trong những ki-ốt bán vé số. Nàng đi tiếp một chút nhưng đứng lại khi cách cái ki-ốt đó vài bước. Nàng thấy người đàn ông bán vé số đang ngồi đọc báo. Ông ta đặt tờ báo trên cái gì đó, trước mắt, và đọc. Tất cả các vách của ki-ốt đều bằng kính, trừ cái tựa vào tường tòa nhà. Bên trong người ta thấy được ông bán vé số và đủ thứ băng giấy nhiều màu treo từ trên cao xuống. Mặt tiền có một cái lỗ cửa nhỏ thông qua đó ông bán vé số giao dịch với khách hàng.

Người đàn bà đưa tay vuốt ra sau món tóc bị trễ xuống trước mắt. Nàng quay người lại và trong một lát đứng nhìn chăm chú một thiếu nữ đẩy chiếc xe trẻ em có mui từ một cửa tiệm đi ra. Rồi nàng nhìn lại lần nữa cái ki-ốt.

Ông bán vé số vẫn đọc báo.

Người đàn bà đến gần và cúi người về phía cái lỗ cửa.

- Chào ông, - nàng nói.

Người đàn ông đưa mắt lên khỏi tờ báo. Ông sắp sửa nói gì đó nhưng khi thấy khuôn mặt người đàn bà thì dừng ngay, ánh mắt không đi xa hơn. Ông ngồi im như thế, cứ nhìn mặt nàng.

- Tôi muốn mua vé số.

Người đàn ông khẽ gật đầu. Nhưng sau đó thốt ra điều chẳng ăn nhập gì.

- Bà chờ có lâu không?

- Không, nhưng tại sao?

Người đàn ông lắc đầu, tiếp tục nhìn nàng đăm đăm.

- Không có gì, xin lỗi, - ông nói.

- Tôi muốn mua một vé, - người đàn bà nói.

Thế là người đàn ông xoay người và đưa bàn tay mầy mò những băng vé số treo sau lưng.

Người đàn bà chỉ một cái, dài hơn những cái khác.

- Cái đó... tôi có thể lấy một vé từ cái băng đó không?

- Băng này à?

- Ừ.

Người đàn ông xé tờ vé số. Ông liếc nhanh hàng số rồi gật đầu tỏ vẻ đồng tình. Ông đặt nó lên cái ván kệ giữa ông và người đàn bà.

- Số này hên đó.

- Ông nói sao?

Người đàn ông không trả lời vì đang dò xét khuôn mặt người đàn bà, như thể tìm kiếm cái gì trên đó.

- Ông nói số này hên à?

Người đàn ông hạ ánh mắt xuống tờ vé số:

- Phải, nó có hai số 8 đối xứng nhau và cộng lại thì bằng nhau.

- Nghĩa là sao?

- Nếu bà vạch một cái ngay chính giữa hàng số thì tổng số những con bên phải lại bằng tổng số những con bên trái. Thường thì hên lắm đó.

- Mà làm sao ông biết?

- Nghề của tôi mà.

Người đàn bà mỉm cười.

- Nghe có lý lắm.

Nàng đặt tiền lên ván kệ.

- Ông đâu có mù, - nàng nói.

- Xin bà nói lại.

- Ông đâu có bị mù, đúng không nào?

Người đàn ông bắt đầu cười.

- Đúng, tôi không mù.

- Lạ nhỉ...

- Nhưng tại sao tôi lại phải mù?

- Thì những người bán vé số bao giờ cũng mù mà.

- Thật à?

- Có lẽ không phải bao giờ cũng mù, nhưng thường thì thế... tôi nghĩ thiên hạ thích họ mù.

- Nghĩa là?

- Tôi không rõ lắm, tôi tưởng điều này có liên hệ với cái chuyện cho rằng vận may rủi là mù quáng.

Người đàn bà nói xong rồi bật cười. Nàng có tiếng cười dòn tan, không chút mệt mỏi bên trong.

- Thường thì họ già lắm, và họ nhìn xung quanh mình như những con chim vùng nhiệt đới trong cửa kính tiệm bán thú nuôi.

Nàng nói điều này một cách rất tự tin.

Rồi thêm:

- Ông, ông thì khác.

Người đàn ông nói rằng quả thế ông không mù. Nhưng già thì đúng.

- Ông bao nhiêu tuổi rồi?

- Tôi bảy mươi hai, - người đàn ông nói.

Rồi thêm:

- Tôi thích làm việc này, chẳng rầy rà gì, việc tốt mà.

Ông nói khẽ. Bình thản.

Người đàn bà mỉm cười.

- Dĩ nhiên. Tôi không có ý nói rằng...

- Công việc này, tôi hài lòng.

- Chắc thế rồi.

Nàng cẩm tờ vé số và bỏ vào chiếc ví đen trang nhã. Rồi nàng quay người lại một lát như thể để soát lại cái gì, hay xem có người đứng chờ sau lưng không. Sau cùng, thay vì chào và bỏ đi, nàng nói một điều.

- Không biết ông có ưng đi uống với tôi một ly không?

Người đàn ông vừa mới bỏ tiền vào két. Bàn tay còn giữa khoảng không.

- Tôi à?

- Vâng.

- Tôi... Tôi không thể.

Người đàn bà nhìn ông.

- Tôi không đóng cửa ki-ốt được, tôi không thể bỏ đi bây giờ, tôi chẳng có ai để... tôi chẳng...

- Chỉ một ly thôi.

- Tiếc quá... thật tình tôi không thể đi được.

Người đàn bà khẽ gật đầu, như thế nàng đã hiểu. Nhưng sau đó nàng lại cúi người về phía ông và nói:

- Đi với tôi.

Người đàn ông vẫn nói:

- Thôi bà ơi.

Nhưng nàng lặp lại:

- Đi với tôi.

Thật lạ lùng. Người đàn ông gấp tờ báo lại, bước xuống ghế đẩu. Ông gỡ kính. Bỏ vào cái túi vải màu xám. Rồi rất cẩn thận, bắt đầu đóng ki-ốt. Ông nối các động tác với nhau, cái này sau cái kia, rất chậm chạp, lặng lẽ, như thể đây là một buổi tối bình thường. Người đàn bà đứng chờ, yên lặng, như thể việc này chẳng dính dáng gì đến nàng. Thỉnh thoảng có người đi qua và ngoái đầu nhìn nàng. Vì nàng có vẻ lẻ loi, và nàng đẹp. Vì nàng không trẻ, và nàng có vẻ lẻ loi. Người đàn ông tắt đèn. Ông hạ cái cửa sắt nhỏ và khóa lại sát đất. Ông đã mặc một cái áo khoác mỏng, hơi lùng thùng trên vai. Ông lại bên người đàn bà.

- Tôi xong rồi.

Người đàn bà mỉm cười với ông.

- Ông biết chỗ nào ta có thể đến không?

- Ngả này. Có quán cà phê không ai làm phiền ta đâu.

Hai người vào quán, tìm được một bàn trong góc, và ngồi đôi diện nhau. Họ gọi hai ly rượu vang. Người đàn bà hỏi anh hầu bàn thuốc lá. Thế là họ bắt đầu hút. Rồi họ nói chuyện phiếm, và nói về những người trúng số độc đắc. Người đàn ông nói thường là những người này không giữ bí mật được, và khôi hài nhất, người đầu tiên họ nói lộ ra bao giờ cũng là một đứa con nít. Chắc là có một bài học trong chuyện này, nhưng ông chẳng bao giờ tìm ra nó là bài nào. Người đàn bà nói điều gì đó về nhũng chuyện có mang bài học và những chuyện không mang gì cả. Hai người tiếp tục nói chuyện một lát như thế. Rồi ông nói rằng ông biết nàng là ai, và tại sao nàng đến đây.

Người đàn bà không nói gì. Nàng chờ.

Thế là người đàn ông nói tiếp.

- Nhiều năm trước đây, bà đã thấy ba người đàn ông giết cha bà, một cách lạnh lùng. Tôi là người duy nhất, trong số ba người đó, còn sống.

Người đàn bà nhìn ông, chăm chú. Nhưng ta không biết nàng đang nghĩ gì.

- Bà đến tận chỗ này để tìm tôi.

Ông nói một cách bình thản. Không bồn chồn, không gì hết.

- Bây giờ, bà đã tìm ra tôi.

Rồi hai người im lặng một lúc, vì ông không còn gì để nói, và nàng không nói gì.

- Khi còn bé, tôi tên là Nina. Nhưng tất cả đã chấm dứt vào cái ngày đó. Không ai còn gọi tôi cái tên đó nữa.

-...

- Tôi thích lắm: Nina

-...

- Bây giờ tôi có đầy những tên. Khác rồi.

- Tôi nhớ lại ban đầu là một thứ cô nhi viện. Không gì khác. Rồi có một người đàn ông tên là Ricardo Uribe đến và đưa tôi đi. Ông là dược sĩ ở một cái thị trần nhỏ nằm sâu trong miền quê. Ông không vợ, không gia đình, không có gì cả. Ông kể với mọi người tôi là con gái ông. Ông đến ở nơi đó vài tháng trước. Người ta tin ông. Ban ngày ông giữ tôi ở phía sau tiệm thuốc. Khi vắng khách ông dạy tôi học. Tôi không biết tại sao nhưng ông không thích tôi ra ngoài đi chơi một mình. Có điều gì phải học, con có thể học với cha, ông nói. Tôi mười một tuổi. Buổi tôi ông ngồi trên trường kỷ và bắt tôi nằm dài bên cạnh ông. Tôi ngả đầu lên đầu gối ông và nghe ông nói. Ông kể những câu chuyện lạ lùng về chiến tranh. Những ngón tay ông vuốt ve mái tóc tôi, theo chiều này rồi chiều kia, chậm rãi. Tôi cảm thấy dương vật ông, dưới lớp vải quần. Sau đó ông hôn trán tôi một cái và để tôi đi ngủ. Tôi có một phòng riêng cho mình. Tôi giúp ông dọn dẹp tiệm thuốc và nhà cửa. Lo việc giặt giũ và bếp núc. Ông có vẻ là một người tử tế. Ông lo sợ nhưng tôi không biết về chuyện gì.

...

Một buổi tôi ông cúi xuống hôn lên miệng tôi. Ông cứ hôn tôi, như thế đó, và cùng lúc luồn tay dưới váy tôi và khắp chỗ. Tôi, tôi không làm gì cả. Và rồi, đột ngột, ông tách ra xa, bật khóc và xin tôi tha lỗi. Ông bỗng có vẻ khiếp sợ. Tôi, tôi không hiểu. Vài hôm sau ông cho tôi biết ông đã tìm được cho tôi một người hôn phu. Một thanh niên ở Rio Galvan, cái thị trấn lân cận. Anh làm thợ nề. Tôi sẽ lấy anh ngay khi nào đủ tuổi. Tôi đi gặp anh, ngày chủ nhật sau đó, ở quảng trường. Anh đẹp trai, cao và gầy, rất gầy. Anh đi lại chậm chạp, có lẽ vì bệnh, hay cái gì đó tương tự. Chúng tôi chào hỏi nhau, và tôi trở về nhà.

...

Đó là một chuyện như bao chuyện khác. Sao ông lại muốn nghe?

Người đàn ông nghĩ cách nói của nàng thật lạ. Như thể đó là một hành vi nàng không quen thuộc. Hay như thể đó không phải tiếng mẹ đẻ của nàng. Nàng vừa tìm chữ vừa nhìn vào khoảng không.

- Vài tháng sau, một buổi tối mùa đông, Uribe rời nhà đi đến Riviera. Một thứ quán rượu nơi người ta đánh bạc. Uribe đến đó hàng tuần, bao giờ cũng vào một ngày, thứ sáu. Lần đó, ông chơi bạc tới khuya. Rồi ông thấy mình nắm trong tay bốn con bồi, trước mặt là số tiền đặt cao hơn số ông thấy được trong một năm. Chỉ còn ông và bá tước Torrelavid sát phạt nhau trong canh bạc này. Những người khác chỉ đặt một ít tiền rồi bỏ cuộc. Nhưng ông bá tước vẫn kiên trì. Ông ta cứ tiếp tục tố. Uribe tin chắc vào những con bài của mình và ông tố theo. Hai người đã đến cái giây phút mà các tay bạc mất đi ý thức về thực tại. Và xảy ra chuyện ông bá tước đem cái fazenda[3] Belsito của mình ra tố. Thế là cả quán rượu im hơi lặng tiếng. Ông có đánh bạc không?

- Không, - người đàn ông nói.

- Vậy thì tôi không nghĩ là ông có thể hiểu được.

- Thử xem nào.

- Ông sẽ không hiểu đâu.

- Có hề gì.

- Mọi thứ đều ngừng lại. Và có một sự im lặng mà ông sẽ không hiểu đâu.

Người đàn bà giải thích rằng fazenda Belsito là cái fazenda đẹp nhất trong toàn vùng. Một con đường chạy giữa hai hàng cam lên tận đỉnh đồi, và từ đó, từ ngôi nhà, người ta có thể nhìn thấy Đại dương.

- Uribe nói ông chẳng có gì đáng với Belsito để đặt theo. Và ông để xuống bàn các lá bài của mình.

Viên bá tước nói là Uribe bất cứ lúc nào cũng có thể đem cái tiệm thuốc tây ra đặt cược, và rồi ông ta bắt đầu cười như thằng khùng, và vài người trong đám người có mặt ở đó cũng bắt đầu cười theo. Uribe cười mỉm. Bàn tay ông còn nằm trên các lá bài. Như thể để nói lời từ giã với chúng. Viên bá tước làm nghiêm, nghiêng mình ra trước, phía trên bàn, nhìn thẳng vào mắt Uribe và nói:

- Thế nhưng, bạn có một đứa bé gái xinh đẹp mà.

Uribe không hiểu ngay tức khắc. Ông cảm thấy ánh mắt mọi người đổ dồn vào ông, và ông không suy nghĩ được. Viên bá tước làm cho tình thế đơn giản đi.

- Belsito đổi lại con gái bạn, Uribe à. Một đề nghị đàng hoàng đấy.

Và ông ta đặt sấp lên bàn năm lá bài, ngay dưới mũi Uribe.

Uribe chằm chằm nhìn chúng, nhưng không đụng đến.

Ông lẩm bẩm cái gì đó, nhưng chưa bao giờ có ai kể được với tôi ông nói cái gì.

Rồi ông đẩy các lá bài của ông về phía viên bá tước, đẩy chúng trượt trên mặt bàn.

Viên bá tước đưa tôi về nhà ông ngay trong đêm đó. Ông làm một điều không thể ngờ. Ông đợi mười sáu tháng, và khi tôi mười bốn tuổi, ông lấy tôi. Tôi đẻ cho ông ba đứa con trai.

Đàn ông, thật khó mà hiểu họ. Viên bá tước chỉ thấy tôi có một lần, trước đêm đó. Ông ngồi ở quán cà phê và tôi đang đi băng qua quảng trường. Ông hỏi người nào đó:

- Con bé này là ai vậy kìa?

Và người ta nói cho ông hay.

Bên ngoài trời lại bắt đầu đổ mưa, đến nỗi quán cà phê đầy người. Phải nói to mới hiểu được nhau. Hay ngồi xích lại gần hơn. Người đàn ông nói với người đàn bà là cách kể chuyện của nàng thật lạ lùng: như thể nàng kể chuyện cuộc đời một người nào khác.

- Ông muốn nói gì thế?

- Như thể chẳng có gì quan trọng đối với bà.

Người đàn bà nói là trái lại, mọi sự đều quan trọng đối với nàng, quá là đằng khác. Nàng nói nàng luyến tiếc ngay cả những chuyện nhỏ nhặt nhất đã xảy ra với nàng. Nhưng nàng nói ra điều này với cái giọng cứng rắn, không u sầu. Người đàn ông không nói gì một lúc, đưa mắt nhìn thiên hạ xung quanh.

Ông nghĩ đến Salinas. Một buổi sáng, người ta tìm thấy ông nằm chết trong giường của mình, hai năm sau chuyện Roca đó. Cái gì đó không ổn ở tim, người ta nói. Rồi sau lại có tiếng đồn tung ra là viên bác sĩ riêng đã đầu độc ông, mỗi ngày một ít, chầm chậm, suốt mấy tháng trời. Một cơn hấp hối chậm rì. Ghê sợ. Người ta điều tra vụ việc này nhưng không tìm ra manh mối gì. Viên bác sĩ tên là Astarte. Ông ta đã kiếm được một ít tiền, trong thời chiến tranh, nhờ thuốc bào chế chữa sốt và nhiễm trùng. Chính ông ta đã phát minh thuốc này, với sự trợ giúp của một dược sĩ. Thuốc bào chế mang tên Botran. Viên dược sĩ tên là Ricardo Uribe. Vào giai đoạn phát minh đó, Uribe làm việc ở thủ đô. Chiến tranh chấm dứt, ông bị vài chuyện rắc rối với công an. Trước hết người ta tìm thấy tên ông trong danh sách những nhà cung cấp thuốc cho bệnh viện của Linh Cẩu, rồi có người nói đã thấy ông làm việc ở đó. Nhưng nhiều người cũng nói rằng ông là một người tử tế. Ông ra trình diện để qua các cuộc thẩm vấn, giải thích mọi chuyện, và khi được thả ra, ông khăn gói bỏ đi, đến một cái thị trân nhỏ ẩn sâu trong vùng quê phía nam đất nước. Ông mua một tiệm thuốc tây, và bắt đầu hành nghề trở lại. Ông sống một mình với đứa con gái còn nhỏ tên là Dulce. Ông nói là mẹ nó đã mất từ nhiều năm trước. Mọi người tin ông.

Ông đã che giấu Nina như thế, đứa con gái sống sót của Manuel Roca.

Người đàn ông nhìn xung quanh mình nhưng không thấy gì. Ông đắm chìm trong những suy tư.

Tính tàn bạo của trẻ em, ông nghĩ.

Chúng ta đã đảo lộn trái đất một cách bạo liệt đến nồi chúng ta đã đánh thức tính tàn bạo nơi trẻ em.

Ông xoay người thêm lần nữa về phía người đàn bà. Nàng nhìn ông. Ông nghe tiếng nàng nói:

- Có thật người ta gọi ông là Tito không?

Người đàn ông gật đầu.

- Cha tôi, ông chưa bao giờ gặp, trước đó?

-...

-...

- Tôi biết ổng là ai.

- Có thật ông là người đầu tiên bắn cha tôi không?

Người đàn ông lắc đầu.

- Có gì là quan trọng...

- Ông hai mươi tuổi, hồi đó. Trẻ nhất. Ông mới chiến đấu được một năm. El Gurre xem ông như con mình.

Rồi người đàn bà hỏi ông còn nhớ không.

Người đàn ông cứ nhìn nàng. Và cuối cùng, chỉ trong cái khoảnh khắc đó thôi, ông thực sự thấy lại, trên khuôn mặt nàng, khuôn mặt cô gái nhỏ đó, nằm dài dưới đó, hoàn hảo và chân chính, tuyệt vời. Ông thấy đôi mắt đó trong đôi mắt này, và cái sức mạnh kỳ lạ bên trong sự bình thản của cái sắc đẹp mệt mỏi này. Cô gái nhỏ: nàng đã xoay người lại và đã nhìn ông[4]. Cô gái nhỏ: nàng ở đó, bây giờ. Thời gian có thể gây chóng mặt biết bao. Mình đang ở đâu thế này? Người đàn ông tự hỏi. Ngay đây hay dưới đó? Mình có bao giờ ở trong một khoảnh khắc mà không phải là khoảnh khắc đó?

Người đàn ông trả lời là ông nhớ. Ông không làm gì khác, bao nhiêu năm qua, chỉ nhớ và nhớ mọi chuyện.

- Bao nhiêu năm qua tôi tự hỏi tôi phải làm gì đây. Nhưng rốt cuộc, sự thật là tôi đã không bao giờ có thể kể ra chuyện đó với ai. Tôi không bao giờ nói với ai là bà nằm dưới đó, tối hôm đó. Bà có thể không tin tôi, nhưng như vậy đó. Lúc đầu, dĩ nhiên, tôi không nói ra là vì sợ. Nhưng rồi thời gian trôi qua, và sự việc đã trở thành cái gì khác rồi. Chiến tranh, chẳng ai còn bận tâm đến nữa, thiên hạ muốn nhìn về phía trước, hoàn toàn cóc cần những chuyện đã xảy ra. Làm như mọi thứ đã bị chôn vùi mãi mãi. Tôi bắt đầu nghĩ tốt hơn là quên đi tất cả. Buông bỏ thôi. Nhưng đến một lúc nào đó thì lộ ra chuyện đứa con gái của Roca còn sống, họ giấu nó đâu đó, trong một làng quê ở miền Nam. Tôi không biết nghĩ sao về chuyện này. Với tôi, thật khó mà tin được là nó đã ra khỏi cái địa ngục đó, toàn mạng, nhưng đối với trẻ con thì biết đâu đấy. Cuối cùng thì có người trông thấy nó, và thề đúng là nó thực. Thế rồi tôi hiểu ra là không bao giờ tôi thoát khỏi chuyện này. Tôi, cũng như những người khác. Đương nhiên, tôi bắt đầu tự hỏi nó đã thấy được gì, đã nghe được gì, tối hôm đó, ở ngôi trại. Và nó có thể nhớ mặt tôi không. Hơn nữa, thật khó mà biết được cái gì xảy ra trong đầu một đứa bé, đôi mặt với một biến cố như thế. Người lớn thì có trí nhớ, có ý thức về công lý, và thói thường họ ham thích trả thù. Nhưng một con bé? Trong một thời gian tôi đã tự thuyết phục mình là sẽ không có gì xảy ra đâu. Nhưng sau đó thì Salinas chết. Một cách kỳ quặc.

Người đàn bà nghe, bất động.

Ông hỏi nàng có muốn ông nói tiếp không.

- Ông nói tiếp đi, - nàng nói.

- Sự việc lộ ra là Uribe đã can dự vào cái chết đó.

Nàng nhìn ông không lộ vẻ gì ra trên mặt. Đôi môi nàng khép nửa chừng.

- Có thể là một sự trùng hợp, nhưng chắc chắn là kỳ quặc. Dần dần mọi người tin chắc là con bé biết chuyện chứ không đâu. Bây giờ thì khó hiểu thật, nhưng thời đó, nó lạ lùng lắm. Đất nước đang tiến về phía trước, bỏ xa chiến tranh đằng sau, với một vận tốc thật kinh ngạc, quên đi tất cả. Nhưng có một đám người không bao giờ ra khỏi chiến tranh, và họ không sao làm lại cuộc đời trong cái đất nước hạnh phúc này. Tôi là một người như thế. Bọn tôi, tất cả đều như thế. Đối với bọn tôi, chưa có gì chấm dứt cả. Và con bé đó, là một hiểm họa. Bọn tôi bàn nhiều về sự việc này. Cái chết của Salinas, quả thật chẳng ai nuốt trôi được. Đến nỗi, cuối cùng, bọn họ đưa ra quyết định, bằng cách này hay cách khác, phải thủ tiêu con bé. Tôi biết là chuyện có vẻ điên, nhưng trong thực tế tất cả chuyện đó khi ấy rất lô gích: kinh khiếp, và lô gích. Bọn họ quyết định thủ tiêu con bé và giao cho bá tước Torrelavid làm việc này.

Người đàn ông ngừng một lát. Nhìn hai bàn tay mình. Như thể ông đang sắp xếp lại cho có thứ tự những kỷ niệm của đời mình.

- Ông ta là người chơi trò hai mặt trong suốt thời chiến tranh. Ông làm việc cho phía bên kia, nhưng ông là người của bọn tôi. Ông đi gặp Uribe và hỏi hắn là muốn ở tù mọt gông vì tội sát hại Salinas hay xéo đi mất hút và để lại con bé cho ông. Uribe là một thằng hèn nhát. Đáng lẽ hắn cứ nằm yên đó, và không một tòa án nào có thể kết tội hắn được bao giờ. Nhưng hắn sợ và trốn đi. Hắn để cô bé lại cho ông bá tước và trốn đi[5]. Hắn qua đời chục năm sau đó, trong một cái làng nhỏ heo hút bên kia biên giới. Hắn để lại một bức thư ngắn nói là hắn đâu có làm gì, và Trời sẽ truy đuổi những kẻ thù của hắn tận cửa địa ngục.

Người đàn bà quay đầu nhìn một cô gái đang cười to, cùi chỏ chống lên quầy tiệm cà phê. Rồi nàng lấy chiếc khăn san mà nàng đã để ở lưng ghế khoác lên vai.

- Ông nói tiếp đi, - nàng nói.

Người đàn ông nói tiếp.

- Tất cả mọi người chờ ông bá tước thủ tiêu con bé. Nhưng ông không ra tay. Ông giữ nó với ông, trong nhà mình. Người ta khiến ông hiểu là ông phải giết nó. Nhưng ông chẳng làm gì cả và tiếp tục che giấu nó trong nhà. Cuối cùng ông nói: Các người đừng lo lắng về con bé này. Và ông lấy nó làm vợ. Thiên hạ không nói chuyện gì khác, suốt mây tháng trời, ở cái địa phương đó. Nhưng rồi người ta cũng thôi nghĩ đến chuyện ấy nữa[6]. Con bé lớn lên, và sinh cho ông bá tước ba đứa con trai. Không ai thấy được nó bao giờ, ở cái xó xỉnh đó. Người ta gọi nó là Donna Sol, vì đó là cái tên ông bá tước đặt cho nó. Về nó, người ta kể một chuyện kỳ quặc. Là nó không nói. Không bao giờ nói. Từ hồi còn Uribe, chẳng có ai nghe nó thốt ra một tiếng bao giờ. Có lẽ bệnh tật gì đó. Có lẽ nó sinh ra đơn giản như thế. Người ta sợ nó mà không biết vì sao.

Người đàn bà mỉm cười. Nàng vuốt tóc ra đằng sau, động tác như của một thiếu nữ.

Thấy đã muộn rồi, người hầu bàn đến và hỏi hai người có muốn ăn ở đây không. Ba gã đàn ông vào trong một góc tiệm và bắt đầu chơi nhạc. Họ chơi các điệu nhảy. Người đàn ông nói ông không đói.

- Tôi mời ông mà, - người đàn bà mỉm cười nói.

Người đàn ông cho là chuyện phi lý. Nhưng người đàn bà cố nài. Nàng nói hai người có thể ăn bánh ngọt.

- Bánh ngọt, ông ưng nhé?

Người đàn ông gật đầu.

- Được rồi, vậy bánh ngọt nhé. Cho chúng tôi bánh ngọt.

Người hầu bàn nói chọn thế là hay. Rồi thêm là họ có thể ngồi đây lâu chừng nào tùy ý. Đừng ngại. Anh ta là một thanh niên, nói với một giọng kỳ cục. Họ thấy anh ta trở lại quầy, và hét món gọi cho kẻ nào đó không ai trông thấy.

- Ông đến đây thường không? - Người đàn bà hỏi.

- Không.

- Chỗ này dễ chịu thật.

Người đàn ông nhìn quanh mình. Nói, quả thế.

- Tất cả mấy chuyện đó, có phải các bạn ông kể lại cho ông không?

- Phải.

- Và ông tin?

- Phải.

Người đàn bà nói khẽ cái gì đó. Rồi yêu cầu người đàn ông kể nốt.

- Có ích gì không?

- Kể đi, tôi xin ông.

- Đâu phải chuyện của tôi, chuyện của bà mà. Bà biết rõ hơn tôi chứ.

- Không nhất thiết thế đâu.

Người đàn ông lắc đầu.

Ông lại nhìn hai bàn tay.

- Một ngày kia tôi lấy tàu lửa và tôi đi đến Belsito. Nhiều năm đã trôi qua. Tôi đã ngủ được ban đêm, và những người xung quanh tôi không gọi tôi bằng cái tên Tito nữa. Tôi nghĩ là tôi đã xong chuyện, là chiến tranh đã thực sự chấm dứt và tôi chỉ còn một việc phải làm thôi. Tôi lấy tàu lửa và tôi đi đến Belsito, để nói với ông bá tước về chuyện cái cửa sập, về cô bé, và tất cả. Ông ta biết tôi là ai. Ông rất ân cần, đưa tôi vào thư phòng, mời tôi uống rượu và hỏi tôi cần gì. Tôi nói với ông:

- Đêm hôm đó, ở ngôi trại Mato Rujo, ông biết đây?

Còn ông ta nói:

- Không.

- Cái đêm mà Manuel Roca...

- Tôi không biết ông bạn đang nói chuyện gì.

Ông ta nói thế một cách cực kỳ bình thản, dịu dàng nữa. Ông tự tin lắm. Ông không có hoài nghi gì.

Và tôi hiểu ra. Chúng tôi còn nói chuyện với nhau một lát về công ăn việc làm, và ngay cả chính trị, rồi tôi đứng lên ra về. Ông cho một chú bé đưa tôi ra nhà ga. Tôi bây giờ còn nhớ đến nó vì nó không thể quá mười bốn tuổi khi đó, thế mà nó đã lái xe hơi và người ta cứ để cho nó lái.

- Carlos, - người đàn bà nói.

- Tôi không nhớ tên nó.

- Con trai đầu của tôi, Carlos.

Người đàn ông sắp sửa nói gì đó, nhưng anh hầu bàn đã đưa bánh ngọt đến. Lại mang thêm một chai rượu vang khác. Anh ta nói nếu họ muốn thưởng thức thì đây là rượu vang uống hợp với bánh ngọt. Rồi anh ta nói điều gì dí dỏm về bà chủ tiệm. Người đàn bà cười, và nàng cười mà đầu rung rung, điều mà nhiều năm trước đây khó thể ngăn được. Nhưng người đàn ông hầu như không thấy, vì ông đang bận theo dõi các kỷ niệm của mình. Khi anh hầu bàn đi khỏi, ông nói tiếp.

- Trước khi ra khỏi Belsito, ngày hôm đó, trong khi đi dọc theo một hành lang dài, với tất cả những cánh cửa khép kín, tôi nghĩ là ở đâu đó, trong ngôi nhà này, bà đang có mặt. Giá mà tôi được gặp bà. Chắc là tôi chẳng có gì để nói với bà, nhưng tôi ước ao nhìn lại khuôn mặt bà, sau bao nhiêu năm, một lần cuối cùng. Tôi thực sự nghĩ đến điều này khi bước chân đi trong cái hành lang đó. Và một việc lạ lùng xảy ra. Vào một lúc nào đó, một trong những cánh cửa mở ra.Và tôi, trong một khoảnh khắc, tôi tuyệt đối chắc chắn là bà sắp sửa đi ra từ cửa đó, là bà sẽ đi qua gần tôi, không nói một lời.

Người đàn ông lắc nhẹ đầu.

- Nhung chẳng có gì xảy ra cả, bởi vì cuộc đời luôn luôn thiếu hụt cái gì đó để trở nên hoàn hảo.

Người đàn bà, cái muỗng giữa nhũng ngón tay, nhìn hơi lâu miếng bánh ngọt nằm trong dĩa, như thể nàng đang tìm cách nào mở nó ra.

Thỉnh thoảng có kẻ đi chạm qua cái bàn và liếc nhìn hai người. Đó là một cặp lạ lùng. Họ không có những cử chỉ của hai người quen biết nhau. Nhưng họ nói chuyện với nhau gần gũi. Nàng trông như thể nàng đã ăn mặc để làm vừa lòng ông. Không một ai đeo nhẫn. Tưởng như hai người tình, nhưng có lẽ từ nhiều năm trước. Hay là anh và em gái, ai biết được.

- Ông biết gì khác về tôi? - Người đàn bà hỏi.

Người đàn ông cũng muốn hỏi nàng cùng câu đó. Nhưng ông bắt đầu kể, và ông hiểu ra là ông thích kể, là có lẽ ông đã chờ bao nhiêu năm nay cái giây phút để kể này, chỉ một lần rồi thôi, trong cảnh tranh tối tranh sáng của tiệm cà phê, với ba nhạc công, trong một góc nhà, đang chơi nhịp ba - bốn của những điệu nhảy đã thuộc lòng.

- Độ mười năm sau, ông bá tước qua đời trong một tai nạn xe hơi. Bà ở lại với ba đứa con, Belsito và mọi thứ khác. Nhưng họ hàng trong nhà không thích thế. Họ nói là bà bị điên và không thể để bà ở một mình với ba đứa con trai. Cuối cùng họ đưa vụ việc ra tòa và quan tòa kết luận là họ đúng. Thế là họ buộc bà rời khỏi Belsito và giao bà cho các bác sĩ, trong một viện điều dưỡng ở Santander. Đúng vậy không?

- Ông nói tiếp đi.

- Hình như các con bà đã làm chứng chống lại bà.

Người đàn bà nghịch với cái muỗng nhỏ. Nàng gõ lên mép dĩa nghe leng keng. Người đàn ông nói tiếp.

- Vài năm sau bà bỏ trốn, biệt tăm luôn. Có người nói bạn bè đã giúp bà trốn đi và họ che giấu bà ở đâu đó. Nhưng những người quen biết bà lại nói là, thế nhưng, bà làm gì có bạn. Người ta truy tầm bà một thời gian. Rồi họ bỏ cuộc. Không ai nhắc đến bà nữa. Nhiều người tin chắc là bà đã chết. Người điên biến đâu mất hút, nhiều hơi đâu mà kể.

Người đàn bà ngước mắt rời dĩa bánh.

- Ông có con chứ? - Nàng hòi.

- Không.

- Vì sao?

Người đàn ông trả lời là phải có niềm tin ở thế gian để có con.

- Trong những năm đó tôi còn làm ở nhà máy. Tận trên miền Bắc. Người ta kể tôi nghe chuyện đó, về bà, về cái bệnh viện tư và việc bà bỏ trốn. Họ nói với tôi điều rất có thể xảy ra là bà đã nằm dưới đáy sông, hay dưới chân vách núi, ở một nơi mà sớm hay muộn một kẻ cầu bơ cầu bất sẽ tìm thấy bà. Họ nói với tôi là mọi sự đã xong rồi. Phần tôi, tôi chẳng nghĩ gì cả. Điều đã gây ấn tượng mạnh nơi tôi là chuyện bà trở nên điên dại, và tôi bây giờ nhớ lại là mình đã tự hỏi bệnh điên nào bà có thể mắc phải: bà vừa đi khắp nhà vừa la hét, hay đơn giản là bà chỉ im lặng, trong một góc nhà, ngồi đếm những thanh gỗ lót sàn, kẹp chặt trong bàn tay một sợi dây thừng nhỏ, hay cái đầu một con chim cổ đỏ. Thật là kỳ quặc cái ý nghĩ người ta tạo ra trong đầu về những người điên, khi người ta chẳng biết họ chút nào.

Rồi ông ngưng một lúc lâu. Xong, ông nói:

- Bốn năm sau chú El Gurre chết.

Ông lại im lặng lần nữa, hơi lâu. Tưởng như cái việc kể tiếp bỗng dưng trở thành khó khăn khủng khiếp đối với ông.

- Người ta tìm thấy chú với một viên đạn sau lưng, mặt gục trong đống nước phân, trước chuồng ngựa của chú.

Ông ngước mắt nhìn người đàn bà.

- Người ta tìm thấy một lá thư ngắn trong túi áo chú. Trong lá thư này có viết một cái tên đàn bà. Tên của bà.

Ông đưa tay viết nhẹ trong không khí.

- Donna Sol.

Ông buông tay xuống bàn.

- Đúng thực là chữ viết của chú ấy. Chính chú đã viết cái tên này. Donna Sol.

Ba người nhạc công, ở phía sau, đã bắt đầu đánh một thứ luân vũ, kéo lê nhịp và chơi rất nhẹ.

- Từ ngày đó, tôi bắt đầu đợi bà.

Người đàn bà đã ngẩng đầu và nàng đang nhìn ông chăm chú.

- Tôi đã hiểu rằng không có cái gì có thể chận bà được, và một ngày kia bà cũng sẽ tìm đến tận tôi. Tôi không bao giờ tin là bà có thể giết tôi bằng cách bắn sau lưng hay gởi đến một thằng cha nào đó chẳng hề biết tôi. Tôi biết, từ ấy, rằng chính bà sẽ đến, và bà sẽ nhìn thẳng mặt tôi, và trước hết bà sẽ nói chuyện với tôi. Bởi vì tôi là người mở cái cửa sập, tối hôm đó, và sau đó đóng nó lại. Và việc này, bà chẳng quên đâu.

Người đàn ông còn chờ một lát, rồi nói một điều duy nhất mà ông còn muốn nói.

- Tôi đã mang trong lòng cái bí mật này cả cuộc đời tôi, như một bệnh tật. Tôi xứng đáng được ngồi đây, với bà.

Rồi người đàn ông lặng thinh. Ông cảm thấy trái tim mình đập nhanh, tận đầu các ngón tay, và tận trong thái dương. Ông nghĩ là mình đang ngồi trong quán cà phê, đối diện với một bà già điên mà ngay bất cứ lúc nào cũng có thể đứng dậy và giết mình. Ông biết mình sẽ không làm gì cả để ngăn chận nàng.

Chiến tranh đã qua rồi, ông nghĩ.

Người đàn bà nhìn quanh và thỉnh thoảng liếc nhìn cái dĩa trống. Nàng không nói gì, và từ khi người đàn ông ngừng kể chuyện, nàng cũng ngừng nhìn ông. Nàng trông như một người đàn bà ngồi ở bàn, một mình, để chờ đợi ai đó.

Người đàn ông ngả người tựa vào lưng ghế. Bây giờ trông ông có vẻ càng nhỏ thó và mệt mỏi. Ông quan sát, như thể từ xa, ánh mắt người đàn bà lang thang khắp tiệm cà phê rồi trên bàn: dừng lại khắp nơi, ngoại trừ ở ông. Ông nhận ra là mình vẫn còn mặc cái áo khoác trên người, liền thọc sâu hai bàn tay vào túi áo. Ông cảm thấy cổ áo hơi siết nơi gáy, như thể ông đã bỏ đá cục trong túi áo. Ông nghĩ đến đám người xung quanh, và ông thấy thật lạ lùng là không ai, vào ngay lúc này, có thể nhận ra chuyện gì đang xảy đến. Trông hai người già ngồi ở bàn, thật khó mà hình dung là họ có thể làm bất cứ điều gì, vào khoảnh khắc chính xác này. Vậy mà, như thế đó. Bởi vì nàng là một bóng ma, và ông, một người đàn ông mà cuộc đời đã kết thúc từ lâu lắm rồi. Ông nghĩ, nếu thiên hạ mà biết như thế thì ông sẽ sợ.

Rồi ông thấy đôi mắt người đàn bà trở nên long lanh.

Ai biết được nó đang ở đâu, vào lúc này, cái dòng suy tưởng của nàng, ông tự hỏi.

Khuôn mặt nàng bất động, không lộ ra vẻ gì cả. Chỉ có đôi mắt nàng là như vậy.

Đây là khóc sao?