HAI (tt)
Ông còn nghĩ là ông không muốn chết ở đây, trong tiệm cà phê này, dưới mắt nhìn của đám người có mặt.
Rồi người đàn bà bắt đầu nói, và đây là những gì họ nói với nhau.
- Ông Uribe cầm lên các lá bài của ông bá tước và chầm chậm nặn ra từng lá giữa các ngón tay. Tôi không tin là vào lúc đó ông ta nghĩ đến những gì ông ta đang mất. Nhưng chắc là ông ta nghĩ đến những gì ông ta không ăn được. Tôi có đáng gì đối với ông ta. Ông ta đứng lên và lịch sự chào từ giã mọi người. Không ai cười, không ai dám nói một lòi. Một tay đánh xì phé như thế, họ chưa từng thấy lần nào, ở miệt dưới đó. Bây giờ xin ông nói tôi nghe: tại sao câu chuyện này lại ít đúng thực tế hơn câu chuyện ông kể cho tôi?
-...
-...
-...
- Cha tôi là một người cha tuyệt vời. Ông không tin tôi à? Và tại sao chứ? Tại sao câu chuyện này lại ít đúng thực tế hơn câu chuyện của ông?
-...
- Dù ta cố hết sức sống một đời duy nhất thôi, những người khác vẫn thấy ra cả nghìn đời khác trong đó, và chính vì lý do này mà ta không thể nào tránh được đau khổ.
-...
- Tôi biết mọi chuyện về tối hôm đó, vậy mà hầu như tôi không nhớ gì, ông biết không? Tôi nằm dưới đó, tôi không thấy nhưng tôi nghe được điều này, điều nọ, và những điều tôi nghe sao thấy phi lý quá, tưởng như một giấc mơ. Nó hoàn toàn tiêu tan trong đám cháy đó. Trẻ con có năng khiếu đặc biệt đê quên. Nhưng người ta kể lại cho tôi sau đó, thế là tôi biết hết mọi chuyện. Họ có nói dối với tôi không? Tôi không biết. Tôi không bao giờ đủ sức tự hỏi mình chuyện này. Các ông tiến vào nhà, chính ông bắn cha tôi mà, rồi Salinas bắn cha tôi, và cuối cùng thì El Gurre thọc nòng súng trung liên vào họng ổng và làm đầu ổng nổ tan tành bằng một loạt đạn thôi, ngắn ngủn và khô khốc. Làm sao tôi biết chuyện này? Chính hắn đã kể ra. Hắn thích kể chuyện này lắm. Hắn là đồ thú vật. Các ông, tất cả, đều là thú vật. Bọn đàn ông các ông bao giờ chẳng thế, trong chiến tranh, làm sao Trời dung đất tha cho các ông được chứ?!
- Thôi bà ơi.
- Ông nhìn ông đi, ông có vẻ một con người bình thường, ông mặc trên người cái áo khoác sờn cũ và khi gỡ kính ra thì ông cẩn thận cất vào cái hộp màu xám của nó. Ông chùi miệng trước khi uống, những cửa kính ở cái ki-ốt của ông thì sạch bong, khi băng qua đường thì ông thận trọng nhìn trái, nhìn phải, ông là một con người bình thường. Vậy mà ông đã thấy anh tôi chết tức tưởi, chỉ là một thằng bé với một khẩu súng nơi tay, một loạt đạn, thế là xong và ông đứng ở đó, và ông chẳng làm gì hết, ông hai mươi tuổi, trời ơi là trời, ông đâu phải là một thằng già lụ khụ, ông là một thanh niên hai mươi tuổi, vậy mà ông chẳng làm gì hết, ông làm ơn giải thích cho tôi nghe làm sao mọi việc lại có thể như thế? Ông có một cách giải thích cho tôi là quả vậy, một sự việc tương tự có thể xảy ra, nó không phải là cơn ác mộng của một người bệnh, là một việc đã thực sự xảy ra, ông có chịu nói cho tôi làm sao lại có thể như thế không?
- Chúng tôi là chiến binh.
- Ông muốn nói gì thế?
- Chúng tôi chiến đấu trong một cuộc chiến tranh.
- Chiến tranh nào? Nó đã hết rồi, chiến tranh.
- Chưa hết đối với chúng tôi.
- Chưa hết đối với các ông à?
- Bà có biết gì đâu.
- Thế thì nói cho tôi những điều tôi không biết.
- Chúng tôi có lòng tin vào một thế giới tốt đẹp hơn.
- Ông muốn nói gì thế?
-...
- Ông muốn nói gì thế?
- Chúng tôi không thể trở lui được, một khi thiên hạ bắt đầu tàn sát lẫn nhau, người ta không trở lui nữa. Chúng tôi đâu có muốn lâm vào cảnh ấy, chính những người khác đã khởi đầu, sau đó thì phải như thế thôi.
- Một thế giới tốt đẹp hơn, có nghĩa là sao?
- Một thế giới công bằng, trong đó người thấp cổ bé họng không phải đau khổ vì cái ác của người khác, nơi mà ai ai cũng có thể có quyền hưởng hạnh phúc.
- Và ông, ông tin vào chuyện này?
- Dĩ nhiên là tôi tin, tất cả chúng tôi đều tin, chuyện có thể làm được mà, và chúng tôi biết cách làm.
- Các ông biết à?
- Bà thấy có vẻ lạ lắm sao?
- Phải.
- Vậy mà chúng tôi biết. Và chúng tôi đã đấu tranh cho cái thế giới đó, để có thể làm những gì là đúng.
- Bằng cách bắn giết ngay cả con nít sao?
- Phải, nếu cần.
- Hả, ông nói gì lạ thế?
- Bà không thể hiểu được đâu.
- Tôi đủ sức hiểu mà, ông giải thích và tôi sẽ hiểu được.
- Như đất ấy.
-...
-...
-...
- Ta không thể gieo nếu không cày trước. Trước tiên phải vỡ đất ra.
-...
- Phải trải qua một thời đau khổ, bà hiểu không?
- Không.
- Có rất nhiều thứ chúng tôi phải hủy diệt để có thể xây dựng những gì chúng tôi muốn, không có cách nào khác, chúng tôi phải đủ sức đau khổ và gây ra đau khổ, kẻ nào chịu đựng đau khổ giỏi nhất sẽ chiến thắng, ta không thể mơ ước một thế giới tốt đẹp hơn và nghĩ rằng thiên hạ sẽ cho không chỉ vì ta đòi hỏi nó, những kẻ kia không bao giờ nhượng bộ đâu, ta phải chiến đấu thôi, và một khi đã hiểu điều này thì đâu có gì khác nhau giữa người già hay em bé, giữa bạn hay thù, ta đang vỡ đất mà, phải như thế thôi, và không có cách nào làm việc này mà không đau đớn. Và khi mọi sự có vẻ ghê tởm quá thì chúng tôi đã có niềm mơ tưởng của mình che chở cho, chúng tôi biết là cái giá phải trả dù cao đến đâu, cái phần thưởng sẽ cực kỳ lớn lao, bởi vì chúng tôi chiến đấu không phải vì một nắm tiền, hay vì một thửa ruộng để cày, hay vì một lá cờ, chúng tôi chiến đấu cho một thế giới tốt đẹp hơn, bà có hiểu ý nghĩa của việc này không? Chúng tôi đang mang trở lại cho hàng triệu con người một cuộc sống đàng hoàng, và cái khả năng được hạnh phúc, được sống và chết với phẩm giá, không bị chà đạp hay bị khinh miệt, chúng tôi chẳng là gì cả, nhưng họ, họ là tất cả, hàng triệu con người mà, chúng tôi có mặt là vì họ, thế đấy, dù một đứa bé gục chết bên tường, hay mười đứa, hay một trăm, việc phải làm là vỡ đất ra và chúng tôi đã làm việc này, hàng triệu đứa bé khác trông chờ chúng tôi làm và chúng tôi đã làm, có lẽ bà nên...
- Ông tin thế thật à?
- Đương nhiên là tôi tin.
- Sau bao nhiêu năm nay ông vẫn còn tin thế à?
- Tại sao tôi lại không nên tin?
- Chiến tranh, các ông thắng mà. Thế giới này, theo ông, có vẻ tốt đẹp hơn không?
- Tôi không bao giờ tự hỏi mình điều đó.
- Không thật vậy đâu. Ông đã tự hỏi mình điều đó cả nghìn lần, nhưng ông sợ trả lời. Như ông đã tự hỏi mình cả nghìn lần chuyện ông làm tôi hôm đó ở Mato Rujo, chuyện đánh nhau tiếp trong khi chiến tranh đã chấm dứt, chuyện ra tay giết một cách thản nhiên một người mà ông chưa hề thấy mặt, không cho người ấy cái quyền được xét xử ở tòa án, chỉ đơn giản giết ông ta, vì một lý do độc nhất là ông đã bắt đầu giết người từ trước đó rồi và không còn đủ sức để ngừng tay. Và trong bao nhiêu năm đó, cả nghìn lần ông đã tự hỏi tại sao mình nhập cuộc, đi vào cuộc chiến này, và trong suốt khoảng thời gian đó ông đã lật đi lật lại trong đầu cái ý tưởng về một thế giới tốt đẹp hơn để khỏi phải nghĩ đến cái ngày người ta mang đến cho ông cặp mắt của bố ông, và để khỏi phải thấy lại tất cả những con người bị sát hại mà, vào thời đó cũng như hôm nay, đầy ngợp trí nhớ ông, như một kỷ niệm không thể nào chịu đựng nổi, đó là lý do thực sự, lý do độc nhất khiến ông chiến đấu, bởi vì ông chỉ có chuyện này trong đầu thôi, trả thù, bây giờ ông nên có đủ sức nói lên cái tiếng này, trả thù, ông giết để trả thù, tất cả bọn ông đều giết để trả thù[7], việc này có gì đáng xấu hổ đâu, đó là phương thuốc độc nhất chống đau khổ mà người ta có, là tất cả những gì người ta tìm thấy để khỏi trở nên điên loạn, là chất ma túy giúp người ta đủ sức chiến đấu, nhưng ông không bỏ được nó nữa, nó thiêu đốt toàn bộ cuộc đời ông, nó mang đến đời ông đầy dẫy những bóng ma, và để sống còn trong bốn năm chiến tranh ông đã đốt cháy cả cuộc đời ông, ngày nay ông không còn biết ngay cả...
- Không thật vậy đâu.
- Ông không còn nhớ ngay cả cuộc đời là gì.
- Còn bà, bà biết gì về cuộc đời?
- Tôi à, tôi làm sao biết gì về nó, rõ ràng thế phải không? Tôi chỉ là con mụ già điên, đúng không nào? Tôi không thể hiểu được đâu, tôi là con bé con vào thời ấy, tôi mà biết cái gì về cuộc đời? Để tôi nói ông nghe chuyện tôi biết, tôi nằm trong một cái lỗ, dưới đất, ba người đàn ông đến, bắt giữ cha tôi, rồi sau đó...
- Đừng nói nữa.
- Ông không thích chuyện này à?
- Tôi không hối hận gì cả, chúng tôi phải chiến đấu và chúng tôi đã chiến đấu, chúng tôi đâu có nằm nhà đóng kín cửa sổ chờ chiến tranh đi qua, chúng tôi đã trèo ra khỏi cái lỗ của mình dưới mặt đất và đã làm những gì phải làm, sự thật là vậy đó, tất cả phần còn lại thì ngày nay bà tha hồ nói gì thì nói, bà có thể tìm thấy trăm thứ lý do mà bà muốn, nhưng ngày nay thì khác rồi, phải ở trong cuộc mới hiểu được, bà chỉ là một cô bé hồi đó, không phải lỗi của bà, nhưng bà không thể hiểu đâu.
- Thì giải thích cho tôi đi, tôi sẽ hiểu mà.
- Bây giờ tôi mệt mỏi lắm rồi.
- Chúng ta có thì giờ, bao lâu cũng được, ông giải thích đi, tôi nghe mà.
- Tôi xin bà, hãy để tôi yên.
-Tại sao?
- Bà hãy làm cái gì bà phải làm, nhưng để tôi yên.
- Ông sợ gì nào?
- Tôi đâu có sợ.
- Thế thì là cái gì?
- Tôi mệt mỏi lắm.
- Về chuyện gì?
-...
-...
- Tôi xin bà...
-...
-...
-...
- Tôi xin bà...
Rồi người đàn bà hạ ánh mắt xuống. Nàng ngả người ra sau, tách xa bàn, tựa vào lưng ghế. Nàng đưa mắt nhìn quanh, như thể lúc ấy nàng chợt khám phá mình đang ở đâu. Người đàn ông vẫn ngồi: hai bàn tay xiết chặt, ông vặn vẹo các ngón tay, thế thôi, còn thì ông hoàn toàn bất động.
Ở cuối quán cà phê, ba người nhạc công chơi các bài hát của một thuở nào xa xôi. Ai đó đang nhảy.
Hai người vẫn như thế một lúc, lặng thinh.
Rồi người đàn bà nói gì đó về một ngày hội cách đây lâu lắm rồi mà nàng đã được một ca sĩ danh tiếng mời nhảy. Thấp giọng, nàng kể rằng khi đó ông ta đã già nhưng di chuyển cực kỳ nhẹ nhàng, và trước khi bản nhạc chấm dứt ông giải thích cho nàng là số mệnh người đàn bà đã viết sẵn trong cách nhảy của người đó. Rồi ông ta nói là nàng đã nhảy như thể nhảy là tội lỗi.
Người đàn bà cười và lại bắt đầu nhìn quanh mình.
Rồi nàng kể chuyện khác, về tôi hôm đó, ở Mato Rujo. Nàng nói là khi thấy tầm cửa sập bị kéo lên, nàng không thấy sợ. Nàng đã xoay người để nhìn mặt tên thanh niên mới lớn đó, và mọi sự trông có vẻ tự nhiên, ngay cả hiển nhiên đối với nàng. Nàng nói rằng một cách nào đó nàng thích điều này xảy ra. Rồi anh ta hạ tấm cửa xuống, và thế là, phải, nàng thấy sợ, một nỗi sợ lớn nhất đời nàng. Bóng tối trở lại, tiếng động của những cái giỏ một lần nữa kéo lê trên đầu nàng, những bước chân của tên thanh niên xa dần. Nàng cảm thấy lạc lõng. Và nỗi sợ hãi cùng cực này chẳng bao giờ rời bỏ nàng nữa. Nàng im lặng một lát rồi nói thêm rằng đầu óc của trẻ con thật là lạ lùng. Tôi nghĩ là vào giây phút đó, người đàn bà nói, tôi chỉ ước ao một chuyện thôi: anh chàng đó đem tôi theo cùng.
Rồi nàng tiếp tục nói những chuyện khác, về trẻ con và về nỗi sợ, nhưng người đàn ông không nghe gì cả vì ông đang cố gắng gom góp chữ nghĩa để nói ra một điều mà ông ước cho người đàn bà biết. Ông ước nói được với nàng là trong khi nhìn nàng, tôi hôm đó, nằm cuộn mình, dưới cái lỗ, quá ngăn nắp và quá trong sạch-trong sạch-ông đã cảm nhận một thứ gì thanh thản trong tâm hổn mà từ đó về sau ông chẳng tìm lại được nữa, hay có lẽ một vài lần thôi, khi ngắm một phong cảnh hay nhìn đăm đăm ánh mắt của một con thú. Ông ước giải thích được cho bà thật đúng cái cảm xúc này nhưng ông biết là hai chữ thanh thản không đủ để diễn đạt những gì đã đến trong tâm ông, vậy mà trong đầu chẳng có cái gì khác xuất hiện, ngoại trừ có lẽ cái ý tưởng là ông như thể đứng trước một cái gì vô cùng hoàn hảo. Tựa bao lần khác, trong quá khứ, ông cảm thấy là khó biết chừng nào khi tìm tên cho những điều đã xảy đến cho ông trong thời chiến tranh, như thể có bùa yểm khiến những người còn sống thì không thể kể ra, và những người biết kể ra thì số phận không cho sống. Ông ngước mắt về phía người đàn bà và thấy nàng đang nói, nhưng ông không nghe nàng nổi vì các suy nghĩ trong đầu lại cuốn hút ông lần nữa và ông thấy mệt mỏi quá đỗi không sao cưỡng được. Thế là ông ngồi đó, dựa người vào ghế, và chẳng làm gì nữa cho tới lúc ông bật khóc, không hổ thẹn, cũng không đưa tay che mặt, hay tìm cách làm chủ bộ mặt nhăn nhó thảm hại của mình, để mặc những giọt nước mắt chảy dài xuống tận cổ áo sơ-mi, lăn trên cổ ông, trắng và không cạo kỹ như cổ mọi ông già trên thế gian.
Người đàn bà im bặt. Nàng không nhận ra ngay là ông khóc, và bây giờ không biết phải làm gì. Nàng nhỏm tới một chút và thầm thì gì đó, rất khẽ khàng. Rồi theo bản năng nàng quay nhìn các bàn khác và thấy hai gã thanh niên ngồi gần đấy đang nhìn người đàn ông, và một trong hai người lại cười. Thế là nàng quát anh ta một câu gì đó, và khi anh ta quay về phía nàng thì nàng nhìn thẳng vào mắt anh ta và nói, thật to:
- Xéo đi.
Rồi nàng rót rượu đầy ly người đàn ông và đẩy lại cho ông. Nàng không nói gì nữa. Lại tựa người vào lưng ghế. Người đàn ông vẫn khóc. Thỉnh thoảng nàng liếc nhìn xung quanh, những tia nhìn dữ tợn như một con thú cái đứng canh trước hang của các con mình.
- Hai người đó là ai thế? - Bà chủ quán đằng sau quầy rượu hỏi.
Người hầu bàn hiểu là bà ta nói đến hai ông bà già ở bàn đầu kia.
- Không có chuyện gì đâu, - anh ta nói.
- Mày biết họ à?
- Dạ không.
- Ông già ấy khóc, khi nãy.
- Tôi biết!
- Họ không say chứ?
- Dạ không, không có chuyện gì đâu.
- Nhưng nói tao nghe sao họ đến đây để...
Người hầu bàn thấy chuyện khóc trong quán cà phê thì có hại ai đâu. Nhưng anh ta không nói gì. Đấy là chàng thanh niên có giọng phát âm kỳ cục. Anh ta đặt lên quầy ba cái ly không rồi trở lại giữa các bàn.
Bà chủ quán quay về phía hai ông bà già và nhìn họ một lúc.
- Bà này chắc hồi trước phải đẹp lắm...
Bà ta nói oang oang điều này, dù chẳng có ai nghe.
Thời trẻ bà mơ mộng trở thành diễn viên điện ảnh. Mọi người đều nói bà là một cô gái đầy tự tin, và bà thích ca hát và nhảy múa. Bà có giọng hay, không độc đáo nhưng hay. Rồi bà gặp một tên làm nghề chào hàng mỹ phẩm đưa bà về thủ đô để chụp hình quảng cáo cho một loại kem dùng vào ban đêm. Bà gởi các tấm hình đó về nhà trong một bì thư kèm theo ít tiền. Trong mấy tháng bà thử làm ca sĩ nhưng không xong. Những bức hình quảng cáo thành công hơn. Dầu sơn móng tay, son môi, và có lần một thứ thuốc nhỏ chống đỏ mắt. Điện ảnh, bà đã từ bỏ rồi. Người ta nói phải ngủ với mọi người, và bà không muốn làm chuyện này. Một ngày nọ bà biết tin người ta đang tuyển xướng ngôn viên truyền hình. Bà đi quay thử một đoạn. Vẻ tự tin, giọng hay tuy thông thường đã giúp bà vượt qua ba vòng tuyển chọn đầu tiên rồi cuối cùng thì đứng thứ nhì trong số các cô bị loại. Họ nói bà có thể chờ, và có lẽ sắp có một chỗ làm. Bà chờ. Cuối cùng, sau hai tháng bà thành xướng ngôn viên cho các chương trình phát thanh, ở Đài Tiếng nói Quốc gia số một.
Một ngày kia bà quay về nhà.
Bà tìm được một tấm chồng xứng đáng.
Bây giờ bà có một tiệm cà phê, ở trung tâm thành phố.
Người đàn bà - ở bàn đầu kia - nghiêng người một chút về phía trước. Người đàn ông đã nín khóc một lát trước đó. Ông rút từ túi một cái khăn mùi xoa to và lau nước mắt. Ông nói:
- Xin lỗi bà nghe.
Sau đó hai người không nói nữa.
Như thể, với nhau, họ không còn gì để hiểu.
Vậy mà vào một lúc nào đó người đàn bà nghiêng mình một chút về phía người đàn ông và nói:
- Tôi phải hỏi ông một chuyện hơi ngớ ngẩn.
Người đàn ông ngước mắt nhìn nàng.
Người đàn bà có vẻ rất nghiêm trang.
- Ông có muốn làm tình với tôi không?
Người đàn ông vẫn nhìn nàng chằm chằm, bất động và lặng thinh.
Thế là người đàn bà trong một khoảnh khắc thấy sợ là đã không nói gì, là chỉ nghĩ đến câu nói đó mà không thực sự nói ra được. Vậy nên nàng lặp lại, chậm rãi.
- Ông có muốn làm tình với tôi không?
Người đàn ông mỉm cười.
- Tôi già rồi, - ông nói.
- Tôi cũng vậy.
-...
-...
- Tôi rất tiếc, nhưng chúng ta đều già rồi, -người đàn ông lại nói.
Người đàn bà nhận ra mình đã không nghĩ đến điều này, và nàng chẳng biết nói gì hơn. Rồi một ý nghĩ khác hiện ra trong đầu, nàng nói:
- Tôi không điên đâu.
- Bà mà có điên đi nữa thì cũng chẳng sao. Thật vậy. Chẳng sao đối với tôi cả. Nhưng không phải chuyện này.
Người đàn bà suy nghĩ một lát rồi nói:
- Ông đừng lo, ta có thể đến một khách sạn, tùy ông chọn. Một khách sạn không ai biết.
Thế là người đàn ông tỏ vẻ hiểu ra một điều gì đó.
- Bà muốn tôi và bà đến khách sạn? - Ông hỏi.
- Phải. Tôi thích thế. Đưa tôi đến một khách sạn đi.
Ông nói chậm rãi:
- Một phòng khách sạn.
Ông nói như thể phát âm ra những tiếng này ông sẽ dễ dàng hình dung ra nó hơn, cái phòng đó, và thấy được nó, để hiểu ra mình có thích chết ở đó không.
Người đàn bà nói ông không phải sợ.
- Tôi không sợ, - ông nói.
Tôi sẽ không bao giờ sợ nữa, ông nghĩ.
Người đàn bà mỉm cười bởi vì ông im lặng và đối với nàng, đó là cách nói ừ.
Nàng tìm cái gì đó trong túi xách tay, rồi lấy ra cái ví tiền và đẩy nó trên bàn về phía người đàn ông.
- Ông trả tiền với cái này. Ông biết không, tôi không thích đàn bà trả tiền trong tiệm cà phê, nhưng tôi mời ông nên tôi muốn trả. Ông cầm đi. Rồi đưa lại tôi khi ra ngoài.
Người đàn ông cầm lấy cái ví.
Ông nghĩ đến một lão già trả tiền với một cái ví bằng vải xa tanh, màu đen.
Họ băng qua thành phố trên một chiếc ta-xi trông có vẻ mới tinh, vẫn còn lớp nhựa mỏng phủ trên các mặt ghế. Người đàn bà nhìn qua cửa kính suốt chuyến xe. Đó là những con đường nàng chưa từng thấy bao giờ.
Họ xuống xe trước một khách sạn mang tên California. Cái biển hiệu chạy thẳng đúng từ dưới lên theo bôn tầng lầu của tòa nhà. Làm bằng những chữ màu đò nôi đuôi nhau bật sáng. Khi từ “California” sáng đầy đủ thì nó nhấp nháy một lát, rồi tắt hết và bắt đầu lại từ chữ đầu tiên. C. Ca. Cal. Cali. Calif. Califo. Califor. Californ. Californi. California. California. California. California. Bóng tối.
Họ còn đứng đó một lúc, bên nhau, nhìn khách sạn từ bên ngoài. Rồi người đàn bà nói, ta vào thôi, và đi về phía cửa ra vào. Người đàn ông bước theo.
Anh chàng ở quầy lễ tân nhìn giấy tờ của họ rồi hỏi họ có muốn một phòng đôi không. Bằng một giọng rất thờ ơ.
- Phòng nào cũng được, - người đàn bà trả lời.
Họ lấy một phòng nhìn xuống đường, ở tầng ba. Anh chàng ở quầy lễ tân xin lỗi là không có thang máy và tình nguyện mang các va-li lên.
- Không có va-li đâu. Bọn tôi đánh mất rồi, - người đàn bà nói.
Anh chàng cười. Đó là một người tử tế đây. Nhìn theo hai người đi khuất sau cầu thang và không nghĩ ác về họ.
Hai người vào phòng và không ai đưa tay bật đèn. Cái biển hiệu, bên ngoài, hắt ánh sáng đỏ yếu ớt, chậm chạp lên những bức tường và các đồ vật. Người đàn bà đặt túi xách tay lên ghế và đến gần cửa sổ. Nàng kéo những tấm màn cửa trong suốt và nhìn xuống dưới đường một lát. Vài chiếc xe hơi hiếm hoi chạy qua, không vội vàng. Trên bức tường ngôi nhà đối diện những cửa sổ sáng đèn kể lể những buổi tối trong gia đình, hạnh phúc hay bi thảm - như thường lệ - của cái thế giới nhỏ nhoi này. Nàng quay người lại, cởi chiếc khăn quàng và đặt trên cái bàn nhỏ. Người đàn ông chờ, đứng giữa căn phòng. Ông tự hỏi mình có nên ngồi xuống giường, hay có lẽ nên nói gì đó về nơi chốn này, ví dụ như nó không tệ chút nào. Người đàn bà thấy ông đứng đó, với chiếc áo khoác trên người, mang vẻ cô đơn và ở ngoài thời gian, như một nhân vật điện ảnh. Nàng đến gần ông, cởi nút cái áo khoác rồi trụt qua hai vai ông, buông rơi xuống đất. Hai người gần nhau quá đỗi. Họ nhìn vào mắt nhau, và đó là lần thứ hai, trong đời họ. Rồi ông, chậm chạp, cúi người xuống nàng vì ông đã quyết định hôn môi nàng.
Nàng không cử động và nói khẽ: Đừng lố bịch. Người đàn ông ngừng ngay, và đứng như thế, người hơi nghiêng về phía trước, cảm thấy tận trong tim một cách chính xác là mọi sự chấm dứt ngay lúc đó. Nhưng người đàn bà chầm chậm đưa hai cánh tay lên và tiến tới một bước ôm lấy ông, lúc đầu còn dịu dàng rồi thì với một sức mạnh mãnh liệt, đầu ngả lên vai ông, toàn thân rướn lên dán chặt vào mình ông. Đôi mắt người đàn ông vẫn mở. Ông thấy, trước mặt ông, cái cửa sổ có ánh đèn nhấp nháy. Ông cảm thấy tấm thân người đàn bà đang ôm chặt ông, và hai bàn tay nàng nhè nhẹ lùa trong mái tóc ông. Ông nhắm mắt lại. Đưa vòng tay ôm người đàn bà. Và với tất cả sức lực của một kẻ già nua, riết chặt nàng vào người mình.
Khi bắt đầu cởi bỏ quần áo, nàng vừa cười vừa nói:
- Ông đừng mong nhìn thấy kỳ quan nghe.
Khi nằm trên người nàng, ông vừa cười vừa nói:
- Bà đẹp vô cùng.
Từ phòng bên cạnh vang đến tiếng rađiô, chỉ vừa nghe được. Nằm ngửa, trên cái giường rộng, không mảnh vải che thân, người đàn ông nhìn chằm chằm lên trần nhà, tự hỏi không biết mình choáng váng vì mệt, hay vì rượu vang đã uống. Bên cạnh, người đàn bà nằm im, đôi mắt nhắm, người quay về phía ông, đầu ngả trên gối. Họ nắm lấy tay nhau. Người đàn ông ước gì nghe nàng nói nữa, nhưng ông hiểu rằng chẳng còn gì để nói, và bất cứ lời nói nào đều lố bịch, vào giây phút này. Bởi thế ông lặng thinh, để cho giấc ngủ làm lẫn lộn các ý tưởng trong đầu, và mang về ông cái kỷ niệm mờ nhạt về chuyện đã xảy ra, vào tối hôm đó. Đêm, bên ngoài, thì huyền bí, và thời gian mà trong đó ông đang tàn lụi thì vô biên. Ông nghĩ ông phải biết ơn người đàn bà này, bởi vì nàng đã cầm tay dẫn dắt ông đến tận chỗ này, từng bước một, như mẹ dắt con. Nàng đã làm việc này một cách khôn ngoan, và không vội vã. Bây giờ, những gì còn lại phải làm sẽ không khó khăn gì.
Ông siết chặt bàn tay người đàn bà đang nằm trong bàn tay ông, và nàng bóp tay ông đáp lại. Ông muốn xoay người về phía nàng để nhìn nàng nhưng rốt cuộc ông chỉ buông tay nàng ra và trở mình nằm nghiêng, lưng quay về phía nàng. Ông có cảm tưởng đó là điều nàng trông chờ ông làm. Điểu gì đó như một cử chỉ để nàng được tự do suy nghĩ, và một cách nào đó cho nàng chút ít cô đơn để nàng quyết định về hành động cuối cùng. Ông cảm thấy giấc ngủ sắp sửa mang ông đi. Và ông thoáng nghĩ, tiếc là mình đang trần truồng bởi vì người ta sẽ tìm thấy ông như vậy, và mọi người sẽ nhìn ngó ông. Nhưng ông không dám nói ra điều này với người đàn bà. Thế là ông xoay đầu một chút về phía nàng, nhưng không đủ để thấy nàng, và nói:
- Tôi muốn bà biết tên tôi là Pedro Cantos.
Người đàn bà lặp lại từ từ.
- Pedro Cantos.
Người đàn ông nói:
- Phải.
Rồi ngả đầu xuống gối lại và nhắm mắt.
Nina thầm lặp lại trong đầu cái tên này một lúc lâu. Nó trượt đi, không va chạm, như một hòn bi. Trên một cái khay nghiêng.
Nàng quay người để nhìn cái túi xách tay, để trên ghế, gần cửa ra vào. Nàng định đi lấy nó, nhưng nàng không ngồi dậy, vẫn nằm trên giường. Nàng nghĩ đến cái ki-ốt bán vé số, anh chàng hầu bàn ở quán cà phê, cái ta-xi với ghế ngồi còn phủ các lớp nhựa. Nàng thấy lại Pedro Cantos khóc, hai tay thọc sâu trong túi áo khoác. Nàng thấy lại ông khi ông vuốt ve nàng mà không dám thở. Ta sẽ không bao giờ quên cái ngày này, nàng tự nhủ.
Rồi nàng trở người, nằm sát Pedro Cantos hơn, và lặp lại động tác đã khiến nàng còn sống. Nàng co mình sau lưng ông: nàng co hai đầu gối lên tận ngực: nàng đặt hai bàn chân lên nhau đến mức cảm thấy đôi chân gắn bó trọn vẹn với nhau, hai bắp đùi nhẹ nhàng giao nhau, hai đầu gối như hai cái tách đặt trên nhau một cách thăng bằng, hai mắt cá chân sát bên nhau: nàng co vai một chút và chắp hai bàn tay, luồn vào giữa hai đùi. Nàng nhìn mình. Thấy một bé gái già. Mỉm cười. Cái vỏ và con vật.
Rồi nàng nghĩ rằng, dù cuộc đời là không thể hiểu được, rất có thể là ta trải qua nó với một ham muốn vô song là trở lại cái địa ngục đã tác tạo ra ta, và an trú bên người, một ngày nọ, đã cứu vớt ta khỏi địa ngục đó. Nàng cố tự hỏi sự trung thành phi lý ấy với sự khủng khiếp do đâu mà có, nhưng nàng nhận ra là nàng không có câu trả lời. Nàng chỉ hiểu được là không có gì mạnh hơn cái bản năng tìm về nơi chốn mà người ta đã vùi dập ta, và lặp lại cái khoảnh khắc đó năm này qua năm khác. Bằng cách chỉ nghĩ rằng cái gì đã cứu vớt ta một lần thì có thể cứu vớt ta mãi mãi. Trong cái địa ngục lê thê y hệt như cái địa ngục từ đó ta đến. Nhưng bao dung một cách bất ngờ. Và không lấm máu.
Bên ngoài cái biển hiệu lần tràng hạt với ánh sáng đỏ. Tưởng như ánh lửa chập chờn một ngôi nhà đang cháy.
Nina tựa trán vào lưng Pedro Cantos. Nàng nhắm mắt lại và thiếp ngủ.
(Dịch xong 7/2006)
Chú thích
[1] Bản tiếng Pháp không có câu này. Nguyên tác tiếng Ý, trang 18: “Se èSalinas, posso farcela.Non capisce nulla, Salinas.”
(Các chú thích đều là của người dịch, từ đây về sau)
[2] In nghiêng trong nguyên tác.
[3] Fazenda (tiếng Bồ Đào Nha): ấp lớn chuyên về trồng trọt hay chăn nuôi, gồm cả dinh cơ của chủ.
[4] Bản tiếng Pháp không có câu này! Nguyên tác tiếng Ý, trang 67: “La bambina: si era girata el'aveva guardato.”
[5] Bản tiếng Pháp không có câu này! Nguyên tác, trang 70: “Lasciòla bambina al conte e sene andò”.
[6] Bản tiếng Pháp không có câu này! Nguyên tác, trang 71: “Ma pol la gente smise di pensarci”.
[7] Bản tiếng Pháp không có câu này. Nguyên tác, trang 88: “... tutti uccidevate per vendetta.” HẾT