← Quay lại trang sách

Chương XXX ĐỢT TIẾN CÔNG CUỐI CÙNG
❖ 1 ❖

Trong tháng Tư, ta không mở những trận đánh lớn. Chiến thuật đánh lẫn đã coi như hoàn chỉnh và phát huy hiệu quả tích cực. Thêm nhiều cứ điểm của địch bị xóa sổ. Binh lính địch ở ngay trong vị trí cũng luôn luôn thấp thỏm không biết lúc nào Việt Minh sẽ nhảy xuống đầu mình. Trong trận cắt đứt sân bay và chống địch phản kích, ta chỉ sử dụng những binh lực đánh phòng ngự và sát thương quân địch bằng bộ binh, súng cối. Những hoạt động nhỏ của ta như bắn tỉa, đoạt dù tiếp tế đã thu được những kết quả đáng kể. Riêng về lựu đạn pháo, ta đã thu được của địch trên 5.000 viên. Hơn 400 viên đạn 105 thu được ở Trung Lào cũng được ngành hậu cần chuyển tới Điện Biên Phủ. Bạn cũng kịp thời chuyển cho ta hai dàn hỏa tiễn sáu nòng. Vì số đạn không có nhiều, nên đây sẽ là một bất ngờ dành cho quân địch vào những ngày cuối cùng. Sau đợt 2 chiến dịch chỉ trong mười ngày ta đã xây dựng xong một tiểu đoàn ĐKZ 75 và tiểu đoàn hỏa tiễn H6, do trung đoàn 676 phụ trách, kịp thời bổ sung cho mặt trận.

Trung đoàn 9, trung đoàn thứ hai của 304 có mặt ở Tây Bắc từ trung tuần tháng Ba làm xong công tác tiễu phỉ, đã nhanh chóng tới Điện Biên Phủ nằm trong đội hình 304 (thiếu một trung đoàn), với các đồng chí Lê Chưởng, chính ủy, Nam Long, tham mưu trưởng, là đại đoàn cuối cùng có mặt tại chiến dịch.

Mở đầu kế hoạch đợt 3 là tiếp tục hoàn thành nốt những nhiệm vụ đã đề ra cho đợt 2: tiêu diệt hoàn toàn hai cao điểm A1 và C1, đồng thời đánh chiếm thêm một số cứ điểm ở phí tây và phó đông thu hẹp thêm nữa phạm vi chiếm đóng của quân địch, chuẩn bị cho tổng công kích.

Nhiệm vụ được trao cho các đơn vị như sau:

Ở phía đông. Đại đoàn 316, được phối thuộc trung đoàn 9 của 304 (thiếu 1 tiểu đoàn), tiêu diệt A1, C1 và C2.

Đại đoàn 312 tiêu diệt các cứ điểm: 505, 505A, 506, 507, 508 ở phía đông, tiến sát bờ sông Nậm Rốm.

Ở phía tây. Đại đoàn 308 tiêu diệt các cứ điểm 311A, 311B.

Ở phía nam. Đại đoàn 304 sử dụng Trung đoàn 57, được phối thuộc 1 tiểu đoàn của trung đoàn 9, cử 1 tiểu đoàn chốt chặn trên đường đi Tây Trang không cho địch rút chạy sang Lào, siết chặt vòng vây chung quanh Hồng Cúm, tập kích trận địa pháo binh, tiêu diệt khi C của Hồng Cúm.

Đại đoàn pháo binh 351 phối hợp với bộ binh trong các trận đánh điểm và đánh phản kích.

Thời gian chiến đấu bắt đầu từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 5 năm 1954.

Nhiệm vụ trọng tâm của đợt này là tiêu diệt cho được A1.

Từ sau đợt tiến công khu Đông, A1 trở thành nhức nhối đối với các đơn vị tham gia chiến dịch.

Tổng tư lệnh nhiều lần trao đổi trong cơ quan tham mưu về cao điểm A1. Quả đồi này vốn trước kia là dinh viên công sứ ở Điện Biên Phủ được xây dựng chưa quá lâu. Anh gợi ý cố tìm tại địa phương xem có ai đã từng tham gia xây dựng ngôi nhà này. Chúng ta tìm được một bác thợ nề. Theo bác thì đó là một ngôi nhà tuy kiên cố, nhưng không có gì là đặc biệt, khi mới xây, không có hầm ngầm. Nghe bộ đội tả lại căn hầm, bác cho rằng có thể quân Nhật trong thời gian chiếm đóng ở Điện Biên Phủ đã xây dựng căn hầm này để đề phòng máy bay Mỹ ném bom, hoặc là chính quân Pháp sau khi tới đóng tại Điện Biên Phủ đã cho cải tạo lại hầm đựng rượu cũ thành hầm ngầm…

Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đã cử cán bộ cơ quan tham mưu cùng đi trinh sát với cán bộ 174, phát hiện một giao thông hào chạy từ A1 xuống A3 ở phía bờ sông, địch có thể đưa quân ứng chiến lên phản kích bất cứ lúc nào. An hem đề nghị đào một đường hào men theo đường 41, tách rời A1 với A3, cũng là cắt đứt đường tăng viện của quân địch. 174 đề nghị đào thêm một đường hầm từ trận địa của ta tại A1 tới dưới hầm ngầm, đưa bộc phá với số lượng lớn vào rồi đặt rồi cho nổ. Đây sẽ là một kỳ công. Chỉ huy trưởng lúc đấy hơi phân vân vì anh chưa tin công binh ta có thể đào được một đường hầm đến đúng chân hầm ngầm. Viện làm này sẽ khá tốn thời gian. Ta lại không có bộc phá dự trữ. Nhưng khi công bính tính toán sẽ hoàn thành công trình này trong vòng nửa tháng, và bảo đảm đào đúng hướng, chỉ huy trưởng đồng ý. Anh nói với Hoàng Văn Thái:

- Đơn vị trực tiếp đánh A1 đã đề nghị thì ta nên chấp nhận Tham mưu cử cán bộ kỹ thuật xuống cùng đơn vị giải quyết những khó khăn về chuyên môn. Nhưng tôi cho rằng khó khăn chính khiến 174 và 102 không giải quyết được A1 là do ta không chặn được quân viện của địch từ Mường Thanh lên. Anh đặc biệt chú ý con đường hào đơn vị đào theo dọc đường 41 để cắt rời A1 khỏi Mường Thanh, chỉ khi nào hoàn thành đường hào này mới cho 174 tiếng công.

Nửa tháng qua quân địch không còn tính tới chuyện đẩy ta ra khỏi A1 và C1, chúng chỉ ra sức củng cố hầm hào chờ đợi một đợt tiếng công mới của quân ta.

Đường hầm ở A1 đào chậm hơn dự kiến. Một đội đặc nhiệm gồm 25 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Nguyễn Phú Xuyên Khung, cán bộ công binh của Bộ, trực tiếp chỉ huy, đã tiến hành công việc ngay trước mũi súng địch, trong tầm kiểm soát của lựu đạn. Đất đồi A1 cực kỳ rắn. Tiểu đội trưởng công binh chọn một tổ khỏe nhất mở cửa hầm. Cả đêm đầu chỉ khoét được vào vách nũi mỗi chiều 90 centimet. Địch không ngừng bắn súng và ném lựu đạn. Ba chiến sĩ bị thương. Ba đêm mới đào xong cửa hầm. Khi đào sâu vào long núi được mười mét, bắt đầu phải khắc phục thêm khó khăn: thiếu không khí, đèn, dược mang vào hầm đều bị tắt, lại thêm số đất moi từ long núi ra ngày càng nhiều không được để cho quân địch phát hiện. Các chiến sĩ phòng ngự tại A1 đã có kế hoạch chiến đấu không cho quân địch tiến xuống cửa hầm, dù phải hy sinh tới người cuối cùng, để bảo vệ bí mật tuyệt đối ý đồ đánh địch của ta.

Trong khi đó, các đơn vị khác đều chuẩn bị xong, nhiều mũi hào đã luồn sâu dưới hang rào dây thép gai của địch. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định đúng ngày N các đơn vị cứ nổ súng, triệt để áp dụng chiến thuật đánh lấn để giảm nhẹ thương vong, riêng A1 sẽ đánh khi đường hầm ở A1 hoàn thành.

Những ngày cuối cùng tháng Tư tương đối yên tĩnh. Mỗi ngày địch chỉ huy động hơn một trăm máy bay đổ lương thực, đạn dược xuống Mường Thanh. Nhưng De Castries chỉ nhận được khoảng một nửa. Máy bay địch phải bay cao thả dù để tránh cao xạ tầm trung của ta, khu vực thả dù lại quá hẹp, nên một phần ba đồ tiếp tế rơi xuống trận địa ta, một số không ít rơi xuống bãi mìn và những khu vực bị hỏa lực ta kiểm soát chặt nên địch không thể thu lượm.

Ngày 1 tháng 5 năm 1954, máy bay địch bắt đầu sử dụng một loại bom mới của Mỹ ( Hail Leaflet ) chứa hàng ngàn mũi tên rất nhỏ sắc bén, nhằm sát thương những đám đông. Loại bom này không gây nguy hiểm cho những người ở trong công sự hoặc dưới chiến hào, và khó sử dụng trong những trận đánh khi quân ta và quân địch gần như trộn lẫn vào nhau.

Langlais và Bigeard đã điều chỉnh, củng cố lại tổ chức phòng ngự ở khu trung tâm.

Những đơn vị khá nhất, và những chỉ huy được tin cậy nhất còn lại của tập đoàn cứ điểm, được tăng cường cho trung tâm đề kháng Éliane. Tiểu đoàn trưởng dù Bréchignac đã nằm quyền chỉ huy tại khu Đông, thay thế Bigeard trở về sở chỉ huy Mường Thanh. Tại đây có tiểu đoàn 2 trung đoàn dù thuộc địa số 1, tiểu đoàn dù xung kích số 6, tiểu đoàn dù ngụy số 5, tiểu đoàn 1 bán lữ đoàn lê dương 13, cùng với hai đại đội độc lập, đơn vị công binh, và một số lính Angiêri, lính Thái. Tuy nhiên, những đơn vị này đều bị tổn thất nhiều, đội hình chắp vá.

17 giờ chiều ngày 1 tháng 5 năm 1954, bất thần tất cả các cỡ pháo của ta nhả đạn vào nhiều khu vực của tập đoàn cứ điểm. Lần này cụm pháo địch ở Hồng Cúm bị kiềm chế, tê liệt. Một kho đạn với 3.000 viên đạn dự trữ của địch nổ tung. Kho lương thực thực phẩm bốc cháy. Đợt pháo kích kéo dài gần một giờ đồng hồ. Dứt tiếng pháo, các đơn vị đồng loạt tiến đánh nhiều vị trí.

Tại phí đông, trung đoàn 98 tiến công cứ điểm C1 lần thứ hai.

Bréchignac, vẫn đặt sở chỉ huy tại Éliane 4, linh cảm trận đánh Éliane 1 sắp nổ ra trên đầu mình. Ngày 1 tháng 5, Bréchignac quyết định đưa đại đội 3 của tiểu đoàn dù tiên kích số 2 lên thay thế cho đại đội Clédic (Clêđich) đã bị tiêu hao, đồng thời ra lệnh cho đại đội 1 sẵn sàng tham gia phản kích.

Đại đội 811 của ta đã có hai mươi ngày đêm phòng ngự tại C1, được lệnh rời khỏi trận địa 200 mét cho hỏa pháo chuẩn bị. Đại đội trưởng Lê Văn Dỵ thấy công sự đã được củng cố vững chắc đủ sức chịu đựng đạn pháo, và tin vào sự chính xác của pháo binh ta, quyết định chỉ cho bộ phận dự bị lui về phía sau, toàn đơn vị vẫn bám trận địa để không lỡ thời cơ xung phong.

Những cao điểm ta chiếm được ở khu Đông phát huy tác dụng. Sơn pháo đặt trên đồi D1 nhắm từng hỏa điểm trên C1 bắn rất chính xác.

Dứt tiếng pháo, Dỵ lập tức ra lệnh mở những hang rào cự đã ngăn cách giữa ta và địch, đưa bộ đội xông lên phía Cột cờ. Thủ pháo và lựu đạn của ta chum lên trận địa địch, tiểu liên nổ ran. Chiến sĩ Thắng cầm cờ lao lên cách mục tiêu mười mét thì trúng đạn hy sinh. Chiến sĩ Ân lấy chiếc chăn phủ lên người bạn, lấy chiếc cờ thấm máu đồng đội, lỗ chỗ vết đạn, tiếp tục tiến lên mỏm đất cao nhất trên đỉnh đồi. Cả tiểu đội mũi nhọ bám sau anh. Chỉ sau năm phút, ta đã chiếm được Cột cờ. Đại đội dù tiêm kích số 3 mới thay thế choáng váng trước đòn tiến công chớp nhoáng và quyết liệt. Quân dù bắn xối xả vào khu vực Cột cờ. Đại đội 1480 của ta từ phía dưới tiến lên đã kịp thời có mặt, cùng với 811 hình thành hai mũi tiến công chia cắt quân địch để tiêu diệt. Những trận đánh giáp lá cà diễn ra. Viên trung úy Leguère (Lơghe) chỉ huy đại đội 3 cố chống cự, chờ lực lượng tiếp viện. Bréchignac quyết định đưa đại đội 1 lên tăng viện. Nhưng đã quá muộn. Trung úy Periou ( Périou) chỉ huy đại đội chết ngay khi mới đặt chân lên đồi. Lát sau, đến lượt trung úy Leguère chỉ huy đại đội 3 bị trọng thương. Quân địch ở C1 mất dần sức chiến đấu. Có tên phủ bạt trên người nằm giả chết chờ tiếng súng yên sẽ đầu hang. Nửa đêm, toàn bộ quân địch bị tiêu diệt. Dây thép gai và mìn lấy từ trận địa của địch lập tức được trải ra sườn đồi thành một bãi chướng ngại dày đặc, đề phòng quân địch phản kích.

Sau hơn ba chục ngày đêm liên tục chiến đấu, trận đánh tại C1 lúc này đã kết thúc. C2 nằm gọn trong nòng pháo không giật của ta. Trời sáng, không thấy quân phản kích của địch. Chỉ có những cỗ trọng liên bốn nòng đặt tại Épervier lồng lộn tuôn đạn về phía trận địa ta trên đỉnh đồi như muốn ngăn chặn một đợt xung phong.

Ở phía đông sông Nậm Rốm, hai tiểu đoàn 166 và 154 của trung đoàn 209 tiến công các cứ điểm 505 và 505A (Dominique 3). 1 đại đọi của tiểu đoàn lê dương dù 6 và những đơn vị lính Angêri, lính Thái tại đây, do viên tiểu đoàn trưởng Chenel (Sơnen) chỉ huy, chống cự khá quyết liệt. Ta và địch giành giật nhau từng ụ súng, từng chiến hào. 2 giờ sáng ngày 3 tháng 5, trung đoàn 209 tiêu diệt hoàn toàn 2 cứ điểm này, chấm dứt sự tồn tại của trung tâm đề kháng Dominique.

Trên cánh đồng phía tây, trận đánh tiêu diệt cứ điểm 311A ( Huguette 5) của trung đoàn 88 diễn ra rất nhanh chóng. Chiến thuật đánh lấn tiếp tục được phát huy. Với những đường hào đã đào xuyên qua hàng rào cứ điểm, bộ đội ta bất thần tổ chức xung phong. Toàn bộ đại đội Âu Phi vừa tới thay quân để tăng cường phòng thủ cứ điểm này, bị diệt gọn trong vòng không đầy 30 phút.

Như vậy, ngay trong đêm đầy của đợt tiến công thứ ba, địch đã mất thêm bốn cứ điểm: C1, 505, 505A ở phía đông, và 311A ở phía tây. Tại Hồng Cúm, trận vây ép đánh lấn khu C của trung đoàn 57 đã tiêu hao nhiều sinh lực địch, nên sáng ngày 2 tháng 5, địch phải rút chạy khỏi khu C.

Những đường hào thọc sâu của bộ đội ta trên cánh đồng phía tây, đều nhắm thẳng về phía sở chỉ huy De Castries. Tập đoàn cứ điểm đã bị dồn lại trong cái “ô vuông cuối cùng”.

❖ 2 ❖

Rất nhiều cuốn sách của phương Tây xuất bản trong những thập niên qua đã giúp chúng ta bổ sung vào bức tranh toàn cảnh về chiến cục Đông – Xuân 1953-1954 cũng như những ngày giờ cuối cùng của con nhím Điện Biên Phủ.

Ngày 2 tháng Năm, Navarre vội vã từ Sài Gòn bay ra Hà Nội. Navarre triệu tập họp khẩn cấp bàn cách cứu vãn tình thế. Dự họp có Navarre, Cogny, Crèvecoeur, tư lệnh lực lượng Lào, và những sĩ quan thuộc lục quân ở chiến trường Bắc Việt Nam.

Cuộc chiến ở Điện Biên Phủ đã kéo dài năm mươi ngày đêm. Không biết lúc này Navarre đã nhận ra sai lầm lớn nhất của mình là đã phân tán hầu hết lực lượng cơ động tập trung tại đồng bằng sông Hồng trước khi trận Điện Biên Phủ bắt đầu chưa? Ngoài những tiểu đoàn tinh nhuệ đưa lên Tây Bắc, ba binh đoàn cơ động của Bắc Bộ vẫn bị cầm chân ở Trung Lào. Suốt thời gian qua, những mưu toan cứu nguy cho Điện Biên Phủ đều không thể thực hiện vì thiếu lực lượng, đặc biệt là lực lượng nhảy dù và không quân. Nếu ném những tiểu đoàn dù ít ỏi vào những cuộc hành binh giải tỏa thì không còn lực lượng tăng viện để duy trì cuộc sống của con nhím Điện Biên Phủ. Nếu huy động không quân vào những cuộc hành binh Sénophon, Condor thì không còn lực lượng yểm trợ, tiếp tế hàng ngày cho Điện Biên Phủ. Trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đi vào thời điểm quyết định khi Navarre chỉ còn trong tay một tiểu đoàn dù!

Hội nghị Genève đã khai mạc, nhưng còn bàn về vấn đề Triều Tiên. Đại diện của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa chưa có mặt. Hi vọng cuối cùng của Pháp lúc này là đạt được một thỏa thuận ngừng bắn tại Điện Biên Phủ. Nhưng muốn được như vậy, ít nhất con nhím Điện Biên Phủ phải tồn tại thêm một thời gian. Chính phủ Pháp hoàn toàn không muốn thấy một cuộc đầu hàng ở Điện Biên Phủ.

Những bức điện của De Castries và Langlais mới gửi về đều mang những lời lẽ gay gắt và tuyệt vọng. Số phận của Điện Biên Phủ chỉ còn tính từng ngày. Có thể ngay ngày mai nếu không còn quân tiếp viện. Cogny một lần nữa lại đưa ra ý kiến mở một cuộc hành binh đánh vào sau lưng đối phương. Đây chỉ là suy nghĩ thiển cận. Lấy đâu ra lực lượng lúc này? Tất cả các binh đoàn cơ động đang sa lầy ở đồng bằng Bắc Bộ, ở Trung Lào, ở miền Trung. Muốn điều động chúng cũng không còn thời gian. Và làm cách nào tiếp tế đạn dược, lương thực cho một cuộc hành binh mới trong lúc toàn bộ lực lượng không quân vận tải, với cả những máy bay hạng nặng của Mỹ đã không thể đảm bảo những yêu cầu khẩn thiết của riêng Điện Biên Phủ.

Navarre tuyên bố xanh rờn: “Không cần phải tiếp tục cuộc chiến ở Điện Biên Phủ”.’

Navarre quyết định tiến hành một cuộc hành binh phá vây. Khác với những kế hoạch rút chạy lần trước, tuy còn là trên giấy, Sénophon huy động 15 tiểu đoàn, Condor, 7 tiểu đoàn, cuộc hành binh phá vây mang bí danh Albatros (Hải Âu lớn) lần này chỉ dựa vào bản thân lực lượng đồn trú tại Điện Biên Phủ, với sự hỗ trợ tạo một hành lang của lực lượng biệt kích địa phương nhỏ ở Lào. Navarre cho rằng cuộc hành binh có thể thực hiện trong hai hoặc ba ngày bằng sức mạnh, hoặc bí mật, không khéo, vì “Việt Minh không có phương tiện hậu cần ở Lào, phải 24 giờ sau mới có thể đối phó”. Navarre quyết định “bỏ lại thương binh và sĩ quan quân y”, vì tin chắc là họ sẽ được Việt Minh trao trả. Do tính chất của cuộc hành binh như vậy nên nó được trao cho De Castries tự mình vạch ra kế hoạch.

Navarre đồng ý với Cogny tăng viện thêm cho Điện Biên Phủ một tiểu đoàn dù. Đây là tiểu đoàn dù cuối cùng. Tổng chỉ huy trực tiếp nắm các đơn vị dù và không quân. Từ trước tới nay, Navarre vẫn sự dụng lực lượng này rất dè dặt, theo nguyên tắc không hy sinh vô ích một tiểu đoàn nào. Nhưng lần này Navarre nhận thấy muốn phá vây, con nhím Điện Biên Phủ phải được tăng thêm sức mạnh.

Ngày 4 tháng Năm, Cogny điện cho De Castries một số chỉ thị về cuộc rút chạy theo quyết định của Tổng chỉ huy: “chỉ huy trưởng GONO được trao quyền lựa chọn cách thức và thời gian tùy theo sáng kiến của mình sau khi nhận được lệnh”. Cogny chỉ thị cho De Castries phải phá hủy các xe tăng, đọa bác, tài liệu mật, mật mã và dụng cụ vô tuyến điện. Nhưng vẫn không quên nhấn mạnh “cho tới khi có lệnh mới, chỉ huy trưởng GONO phải duy trì nhiệm vụ chống tự tại chỗ không được có tư tưởng rút lui”, phải hết sức giữ bí mật về kế hoạch và chuẩn bị thực hiện với sự trân trọng tối đa. Cogny vốn cho rằng tháo chạy khỏi Điện Biên Phủ chỉ dẫn tới sự hy sinh vô ích.

Trong ngày, dưới trời mưa tầm tã, De Castries họp các sĩ quan cao cấp tại Mường Thanh phố biến kế hoạch Albatros. Có mặt lại Langlais, Lemeunier, Bigeard, Vadot và Seguin Pazzis. Không mấy ai có ảo tưởng vào lối thoát này. Chiến hào của đối phương đã bao vây rất chặt, không còn kẽ hở. Lực lượng của Crevơccơ không có khả năng chống chọi với Việt Minh. Tuy nhiên, mọi người thống nhất phải chia làm ba cánh khi rút chạy. Cánh thứ nhất, gồm toàn bộ quân dù, do Langlais và Bigeard chỉ huy. Cánh thứ hai, gồm toàn bộ quân lê dương và Bắc Phi, do Lemeunier và Vadot chỉ huy. Cánh thứ ba, gồm toàn bộ quân ở Hồng Cúm do Lalande chỉ huy. Có ba đường rút lui: đường thứ nhất qua bản Keo Lom, đường thứ hai, theo thung lũng Nậm Nưa, đường thứ ba theo hướng Nậm Hợp. Con đường chạy về phía nam-đông nam dường như có vẻ ít nguy hiểm hơn! Mọi người phải rút thăm. Dự kiến kế hoạch rút chạy sẽ được thực hiện vào 20h ngày 7 tháng 5 năm 1954. Theo Jules Roy: “ở Điện Biên Phủ, người ta gọi cuộc hành binh này là ‘mở con đường máu’ để chứng tỏ không có ảo tưởng về nó” mười người sẽ chỉ còn lại một người”.

Đêm 4 tháng Năm, trên cánh đồng phía tây, sau khi tiêu diệt 311A, đại đoàn 308 tiếp tục đánh 311B ( Huguette 4 ) ở phía trong. Trung đoàn 36 tiêu diệt 1 đại đội gồm lính đánh lê dương và lính Marốc, đưa trận địa tới gần trung tâm đề kháng Lilie (từ Claudine mới tách ra), tấm bình phong cuối cùng che cho sở chỉ huy De Castries ở hướng này. Buổi sáng, địch phản kích định chiếm lại, nhưng thất bại.

Ngày 5 tháng Năm, cả Langlais và Bigeard đều kéo tới Éliane. Họ đã biết rõ số phận của phận khu trung tâm sẽ được kết thúc trên hai cao điểm còn lại ở phía đông. Tại A1, tiểu đoàn 1 Bán lữ đoàn kê dương 13 đã bị tổn thất nặng sau một thời gian dài phòng ngự. Langlais quyết định chuyển những lính lê dương xuống Éliane 3 dưới chân đồi làm lực lượng dự bị, và điều tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 (1er BPC) vừa được tăng viện lên thay thế.

Tiểu đoàn dù 1, do viên đại úy Bazin chỉ huy, nhận lệnh khẩn trương nhảy xuống Mường Thanh, nhưng sau ba đêm chỉ mới tới được hơn hai đại đội, và bộ phận chỉ huy tiểu đoàn. Bazin chưa kịp làm gì thì đã trúng một mảnh đạn pháo bị thương. Đại úy Jean Pouget, đại đội trưởng đại đội 3, được chỉ định nắm quyền chỉ huy tiểu đoàn. Cách đây không lâu, Pouget còn là sĩ quan tùy tùng của Navarre, thường xuất hiện phía sau Tổng chỉ huy trong những bức ảnh. Pouget đã mất gần sáu giờ đưa đơn vị cượt qua quãng đường 1.500 mét từ Épervier tới Éliane trong những chiến hào ngập bùn, luôn luôn bị đại bác ta bắn chặn. Sau khi nhận bàn giao của Coutant, chỉ huy tiểu đoàn lê dương 1, Pouget đi quan sát vị trí rồi quyết định chia lực lượng bố trí thành ba nơi tại Éliane 2. Đại úy Edme, chỉ huy đại đội 2, phụ trách tuyến lô cốt và chiến hào phía đông và phía nam cứ điểm đối diện lực lượng ta. Pouget cùng với đại đội 3 giữ đỉnh đồi có hầm ngầm, và mặt tây nam tiếp giáp với A3, nơi có một mũi chiến hào của ta chạy men theo đường 41, đang trực tiếp đe dọa con đường nối A1 với Mường Thanh. Một ngày sau, Pouget mới biết sự phân công này mang tính định mệnh.

Lực lượng địch ở Điện Biên Phủ còn 5.385 quân chiến đấu, và 1.282 thương binh. Nếu so với đợt tiến công thứ hai, thì quân địch đông hơn, do đã được tăng cường. Con nhím khổng lồ của Navarre đã thu lại bằng con nhím của Salan ở Nà Sản năm trước. Diện tích phân khu trung tâm không còn đầy một kilomet vuông.

Cũng trong ngày 5 tháng Năm, trung đoàn 174 báo cáo đường hầm ở A1 đã hoàn thành. Trong đêm, một tấn bộc phá chia thành những gói hai mươi kilo, được đưa vào đặt dưới hầm ngầm của địch.

Bộ chỉ huy Mặt trận quyết định đẩy nhanh nhịp độ phát triển của đợt tiến công thứ ba chuẩn bị mọi đều kiện sớm chuyển sang tổng công kích.

❖ 3 ❖

Sáng ngày 6 tháng 5 năm 1954, tiểu đoàn 255 của 174 phòng ngự suốt ba mươi tư ngày đêm trên đồi A1 được lệnh rút qua đồi Cháy làm lực lượng dự bị.

Tiếng nổ của khối bộc phá trên đồi A1 được chọn làm hiệu lệnh xung phong cho đợt tiến công tối nay.

Trời ngớt mưa. Cơ quan tham mưu báo cáo đêm qua địch đã thả dù thêm hàng trăm quân tăng viện. Máy bay địch hoạt động với mức độ chưa từng có kể từ đầu chiến dịch. Chúng ném bom, bắn rốc két vào những vị trí phòng ngự của ta, đặc biệt là đồi C1. Pháo cao xạ bắn rơi thêm một chiếc C.119.

Buổi trưa trời hửng nắng. Chỉ huy trưởng trèo lên đỉnh núi Mường Phăng sau sở chỉ huy, quan sát trận địa. Gần một tháng qua, từ vị trí này, với một chiếc ống nhòm có bội số quang học lớn, anh đã theo dõi sự tiến triển của chiến hào ta. Thời gian đầu, sự tách biệt giữa ta và địch rất rõ. Tập đoàn cứ điểm địch là một khối đông đặc, như những tổ ong khổng lồ nằm sát nhau hai bên bờ sông Nậm Rốm. Trận địa ta là những đường hào rất nhiều nhánh từ chung quanh cánh đồng lan dần vào. Nhưng từ cuối tháng Tư, rất khó phân biệt trận địa ta và trận địa địch. Vì hầu hết những mũi chiến hào của ta đã cắm sâu vào tập đoàn cứ điểm. Đôi lúc phải xác định trên bản đồ đâu là những cứ điểm địch còn giữ, đâu là nơi ta đã tiêu diệt.

Trận mưa dù đang tiếp tục trên bầu trời Điện Biên Phủ. Những chiếc máy bay vận tải bay cao ngoài tầm với của pháo cao xạ. Hàng ngàn chiếc dù máu sắc tươi rói chi chit trên cánh đồng, như nấm nở rộ sau một trận mưa. Có thể thấy rõ số khá lớn đồ tiếp tế của địch rơi vào trận địa ta. “Miếng da lừa” Điện Biên Phủ đã thu lại quá nhỏ. Sáng nay, tham mưu báo có, nó chỉ còn một chiều, 1.000 mét, một chiều 800 mét. Tổng thống Eisenhower đã ví nó với một “sân bong chày”!

Chỉ huy trưởng dùng ống nhòm tìm vị trí 311B ở phía tây, đã bị tiêu diệt đêm 3 tháng Năm, và vị trí 310 nằm bên. Cả hai vị trí này chỉ cách sở chỉ huy Mường Thanh 300 mét. Từ đây vượt qua một cứ điểm nữa là tới hầm De Castries. Những mũi lê đã chĩa vào bên sườn Castries. Nhưng phản ứng của địch rất yếu ớt. Chúng đã không làm gì nhiều sau khi mất 311B. Và đêm nay sẽ đến lượt 310, được coi là “con mắt” của tập đoàn cứ điểm.

20 giờ, hỏa lực của ta tập trung bắn vào A1, C2, cứ điểm 506, bắc Mường Thanh, cứ điểm 310, tây Mường Thanh. Lần này có thêm sự phối hợp của 12 giàn hỏa tiễn sáu nòng. Mặc dù độ tản xạ còn cao, những đuôi lửa, tiếng rít và tiếng nổ dữ dội của loại vũ khí mới này đã làm cho quân đồn trú sống trong những công sự đắp đất đã bị mưa làm suy yếu, rất hoảng sợ.

Đợt pháo hỏa kéo dài 45 phút. Địch phản ứng yếu ớt. Nhưng chúng đã có chuẩn bị. Khi pháo ta vừa ngừng bắn, tất cả những khẩu pháo còn lại của tập đoàn cứ điểm tập trung trút đạn xuống những trận địa chiến hào của ta xung quanh A1 và C2.

Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An quay điện thoại liên lạc với công binh để kiểm tra lần cuối. Điện thoại bị đứt! Tình hình lại diễn ra như lần trước. Nhưng cơ quan tham mưu chiến dịch đã rút kinh nghiệm, phổ biến giờ nổ súng cho các đơn vị. Trước giờ G năm phút, các chiến sĩ ở chiến hào xuất phát xung phong được lệnh quay lưng về A1, nhắm mắt, há mồm đề phòng sóng xung kích và ánh chớp của ngàn cân bộc phá. Đúng 20 giờ 30, một tiếng nổ trầm, không phải như chúng ta chờ đợi. Quay đầu nhìn lại, trên đồi A1 có một đám khói lớn đang phụt lên. Một số người phân vân: có phải đây là bom nổ chậm địch thả lúc chiều? Nguyễn Hữu An lập tức ra lệnh cho pháo của trung đoàn nổ súng. Mấy ngày trước đó, chúng ta đã tiêu diệt một số hỏa điểm địch hướng về phía tiền duyên, nên lần này pháo của trung đoàn chỉ bắn chế áp mạnh trong vòng 15 phút, rồi bộ binh xung phong. Ở phía đông-nam, hướng tiến công chủ yếu, tiểu đoàn 249, do tiểu đoàn trưởng Vũ Đình Hòe chỉ huy, chia thành hai cánh tiến lên đồi hình thành thế bao vây quân địch. Phía tây-nam, tiểu đoàn trưởng Dũng Chi đưa tiểu đoàn 251 tiến theo giao thông hào mới đào trên mặt ruộng ven đường 41, thọc một mũi dùi cắt rời A1 khỏi Mường Thanh.

Khối bộc phá nổ cách hầm ngầm vài chục mét thổi bay chiếc lô cốt bên trên, và cuốn theo phần lớn đại đội dù 2 của Edme đóng ở đây. Pouget ngồi trong hầm ngầm bỗng thấy quả đồi rung rinh, một tiếng nổ trầm át mọi tiếng động khác kéo dài vài giây. Một lát sau y mới hiểu ra, và biết mình vừa thoát chết.

Khối bộc phá một ngàn cân đã tiêu diệt một phần tuyến ngang gây khó khăn cho các đơn vụ đánh A1 trong đợt trước, tạo nên một cửa mở quan trọng giúp cho hai đại đội của tiểu đoàn 249 xung phong thuận lợi. Nhưng càng lên gần đỉnh đồi thì những đất đá từ hố sâu bốc lên đã làm trái đồi biến dạng và trở nên khó đi. Lợi dụng lúc đó, những lên lính dù còn sống sót của đại đội 2 liên tiếp trút đạn liên thanh về phía ta. Đại đội 316 đánh vào trận địa súng cối. Đại đội 317 đánh vào khu thông tin gần hầm ngầm. Đại đội 3 của Pouget đóng trên đỉnh đồi và từ phía hầm ngầm tiến ra phản kích. Cuộc chiến bằng tiểu liên, lựu đạn, lưỡi lê lại diễn ra trên từng chiến hào, từng ụ súng.

Phía tây-nam, các chiến sĩ bộc phá tiểu đoàn 251 nhiều lần tiến lên mở đường về phía lô cốt “Cây đa cụt” đều bị thương vong. Pouget biết nếu để mất lô cốt này thì cứ điểm hoàn toàn cô lập, sớm muộn cũng bị tiêu diệt. Tiểu đoàn quyết định đưa DKZ lên bắn sập chiếc lô cốt. Khẩu đại liên bên trong đã hoàn toàn im lặng. Nhưng khi bộ đội lên phá tiếp hàng rào lại bị hỏa lực không biết từ đâu chặn lại. Tiểu đội trưởng Phấn cùng đại đội phó bí mật bò lên quan sát, phát hiện được một ụ súng ngắm được ngụy trang kỹ, ở ngay gần lô cốt. Phấn đề nghị cho mình được tiêu diệt ụ súng để trả thù cho các bạn đồng đội đã hy sinh, nếu cần sẽ ôm bộc phá lao vào ụ súng để mở đường cho đơn vị. Đại đội tổ chức hỏa lực yểm hộ cho Phấn hoàn thành nhiệm vụ an toàn. Tiểu đoàn 251 đã cắt đứt con đường tiếp viện của địch từ Mường Thanh lên.

Trên đỉnh đồi, những tên lính dù dựa vào chiến hào và công sự đã được củng cố trong thời gian qua ra sức chống đỡ chờ quân viện.

Quá nửa đêm, trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An quyết định đưa đại đội dự bị của tiểu đoàn 249 vào giải quyết trận đánh. Bộ đội ta chia thành từng tổ nhỏ tiêu diệt dần dần từng ụ đề kháng còn sót lại của địch.

Tại Mường Thanh, trước tình hình nguy ngập của nhiều cứ điểm ở phía đông và cả phía tây, Langlais quyết định tập hợp tại Épervier những bộ phận còn lại của tiểu đoàn dù 6 mới được tăng viện, và tiểu đoàn dù 8. Langlais ra lệnh cho hai đại đội của tiểu đoàn dù 8, mỗi đại đội chỉ còn lại 40 người, lập tức lên Éliane 2. Nhưng con đường lên đồi A1 đã bị ta chốt chặt. Langlais đành cho đại đội này chuyển sang Éliane 4, nơi Bréchignac cũng đang khẩn thiết đòi tăng viện.

Sau khi tiêu diệt được vị trí Cây đa cụt, tiểu đoàn trưởng 251 Dũng Chỉ quyết định đưa một lực lượng xuống uy hiếp A3, đồng thời tổ chức một mũi tên đánh lên đỉnh đồi, dồn quân địch ở A1 vào thế giữa hai gọng kìm.

4 giờ sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, Pouget chỉ còn lại ba mươi tư lính dù. Pouget gọi bộ đàm lần nữa cho Mường Thanh, yêu cầu phải tăng viện ngay một đội nếu không cứ điểm sẽ bị tràn ngập. Ở đầu giây là tham mưu trưởng Vadot:

- Hãy biết điều một chút. Ông muốn tôi tìm đâu ra một đại đội? Tất cả đều không còn gì!

- Nếu vậy thì cho tôi và những người còn lại mở đường chạy xuống Éliane 3.

- Ông phải ở tại chỗ. Ông là lính dù, phải chiến đấu cho tới chết…Chí ít là tới khi trời sáng.

- Rõ rồi. Với tôi, thế là xong. Nếu ngài không còn điều gì nói thêm, tôi hủy điện đài.

- Với tôi, cũng là xong – Vadot nói.

Quân dù đã sử dụng đến những viên đạn, quả lựu đạn cuối cùng. Viên chỉ huy Pouget bị thương nặng và bị bắt. Trước khi trời sáng trận đánh kết thúc. 174 đã trả được cái hận A1.

Trong đêm, cũng ở phía đông, trung đoàn 165 của 312 đã tiêu diệt 506 (Eliane 10), cứ điểm rất quan trọng nằm bên đường 41 chạy tới sở chỉ huy của De Castries. Langlais đã dồn vào đây tất cả những gì còn lại của tiểu đoàn dù 6. Ở phía tây, trung đoàn 102 của 308 chiếm xong cứ điểm 311 (Huguette F), đưa trận địa tiến công của đại đoàn vào cách sở chỉ huy De Castries 300 mét.

Sáng ngày mồng 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ Quyết chiến Quyết thắng tung bay trên cao điểm A1 báo hiệu giờ tàn của tập đoàn cứ điểm.

Nhưng trận đánh trên dãy đồi phía đông vẫn chưa kết thúc. Trong đêm, ở hướng chính, tiểu đoàn 215 của 98 đã mở nhiều đợt xung phong chiếm cứ điểm C2. Tiểu đoàn dù 5 dựa vào công sự kiên cố chống trả rất quyết liệt. Một bộ phận nhỏ của 215 lọt được vào bên trong cứ điểm. Tiểu đoàn dù 5 mất dần sức chiến đấu. Đúng lúc đó, có lực lượng từ Mường Thanh lên tăng viện, dịch chuyển sang phản kích định đánh bật tar a khỏi đồn. Cuộc chiến kéo dài tới sáng. Các chiến sĩ của ta chỉ còn cố bám giữ lấy đầu cầu. Mũi vu hồi của tiểu đoàn 439 đánh vòng theo hướng tây bắc, nhằm chia cắt C2 với Mường Thanh, gặp địa hình trống trải bị hỏa lực từ C2 và pháo ở Mường Thanh tiêu hao khi tiếp cận, đột phá không thành công.

Thấy trận đánh ở C2 kéo dài, chỉ huy trưởng gọi điện cho Lê Quảng Ba, nhắc: “174 đã chiếm xong A1, tận dụng hỏa lực bắn thẳng của ta từ A1 chi viện cho 98 ở C2. Đưa ngay lực lượng dự bị trung đoàn 9 vào chiến đấu. Pháo chiến dịch sẽ kiềm chế pháo địch ở Mường Thanh, dành riêng cho C2, 200 quả pháo 105. Cần nhanh chóng tiêu diệt được C2 để làm chủ hoàn toàn các cao điểm phía đông!

7 giờ 30, pháo ta vừa ngừng chế áp, tiểu đoàn 215 và đại đội 138 của tiểu đoàn 375 chia làm ba mũi xung phong lên C2. Quân ta lần lượt đánh chiếm từng mục tiêu. 9 giờ 30, bộ đội ta hoàn toàn làm chủ đồi C2. Bộ chỉ huy khu Đông Bréchignac, Botella và một số đông sĩ quan dù tập trung tại đây cùng với hàng trăm thương binh đều bị bắt.

Cuộc chiến đấu trên những ngọn đồi phía đông đã kết thúc. Cả khu trung tâm nằm gọn dưới hỏa lực bắn thẳng của ta.

Tại Mường Thanh, 12 giờ, Langlais triệu tập cuộc họp các chỉ huy tiểu đoàn. Lần này vắng mặt những người chỉ huy dù. Theo kế hoạch, cuộc phá vây sẽ thực hiện vào 20 giờ ngày hôm nay, mống 7 tháng 5. Như thường lệ, chiếc Corsair F4U của không lực hải quân bay sát tập đoàn cứ điểm ném xuống một túi văn thư, trong đó là những bức ảnh máy bay vừa chụp được. Langlais và Bigeard chăm chú nhìn những tấm ảnh. Con đường cách đây ba ngày còn để ngỏ phía nam Junon, đã bị ba đường hào cắt ngang. Bigeard lẩm bẩm: “Sẽ phải mở một con đường máu”. Chỉ huy các tiểu đoàn lần lượt báo cáo đơn vị mình không ở trong trạng thái thực hiện một cuộc phá vây mà họ tin là khó sống sót. Những người dự họp đều nhận thấy: dù có hy sinh phần lớn quân rút chạy, cũng khó giúp cho một nhóm người thoát khỏi thung lũng. Cuộc tiến công của những người lính kiệt sức nhắm vào những vị trí được đối phương bảo vệ vững chắc, sẽ là một hành động tự sát. Vấn đề thực hiện kế hoạch Albatros không còn được đặt ra. Và mọi người cũng thấy không nên tiếp tục cầm cự thêm một đêm với cái giá phải trả từ 300 đến 500 người!

Những người ngồi đây chưa biết tình hình bên ngoài đang biến chuyển rất nhanh.

❖ 4 ❖

Suốt đêm, Bộ chỉ huy chiến dịch tập trung tại phòng tác chiến theo dõi cuộc chiến đấu. Mọi người đều cảm thấy nhẹ nhõm khi được tin 174 và 98 giải quyết xong A1 và C2. Mục tiêu đợt tiến công thứ 3 đã hoàn tất.

Trời sáng, các đồng chí hậu cần định trở về lo đạn dược cho cuộc chiến đấy đang tiếp tục. Chỉ huy trưởng thấy còn một số nơi chưa báo cáo đầy đủ tình hình, nói nên ngồi nán lại.

Số lượng quân địch ở Mường Thanh có những binh lính phản chiến, một số đã chạy ra hàng. Quân địch đã lâm vào tình thế rất nguy ngập. Bộ phận quân báo và các đơn vị trinh sát được lệnh theo dõi chặt chẽ từng biến chuyển của địch. Chúng ta đã biết tin địch chuẩn bị đột phá vòng vây mở một đường máu rút chạy về phía tây.

Khác với những ngày trước, mới 9 giờ sương mù đã tan. Trời không một gợn mây. Máy bay địch ném bom dữ dội vào những trận địa của ta.

Các đài quan sát phái trước báo cáo: Nhiều chỗ trên sông Nậm Rốm nổi bọt trắng. Anh hem phán đoán địch ném súng đạn và đồ dùng xuống sông. Phòng 2 cử người chạy tới Sở chỉ huy báo cáo, bộ phận theo dõi điện đài địch nghe được Mường Thanh yêu cầu Hà Nội “chỉ thả thêm dù lương thực, không thả dù vũ khí”.

Bộ chỉ huy chiến dịch nhận thấy địch đã có biến động. Chúng có thể mở một đường máu rút chạy về phía Thượng Lào hoặc đầu hàng. Chỉ huy trưởng gọi dây nói cho Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ, chỉ huy bộ đội phía tây:

- Tình hình địch có những triệu chứng rối loạn, có nhiều khả năng đầu hàng, cũng có khả năng đột phá vòng vây để tháo chạy. Đồng chí phải chỉ huy bộ đội bao vây thật chặt, không được để cho bất cứ một tên địch nào chạy thoát.

10 giờ, trung đoàn 209 đêm qua chưa hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt 507, một trong bốn cứ điểm còn lại trên đường 41 bên tả ngạn sông Nậm Rốm ngăn chặn bộ đội ta vượt qua cầu Mường Thanh tiến vào khu trung tâm, đề nghị cho đánh tiếp ban ngày. Tiểu đoàn 130 đánh 507 đêm trước đã gây thiệt hại nặng cho quân địch nhưng lực lượng cũng bị tiêu hao. Đại đoàn 312 lệnh cho trung đoàn 141 cơ động từ phía sau lên sẵn sàng tiếp sức cho 209, trung đoàn 165 đã chiếm được cứ điểm 506 sẵn sàng chi viện cho đơn vị đánh 507.

Buổi trưa, trinh sát báo cáo máy bay vận tải hai thân chỉ lượn một vòng trên bầu trời Mường Thanh, không thả dù tiếp tế, quay trở về Hà Nội. trên sông Nậm Rốm vẫn nổi những đám bọt trắng. Trong khu trung tâm địch, thỉnh thoảng lại có một tiếng nổ khác thường. Bộ phận theo dõi điện đài nghe được những viện phi công và quân địch ở Mường Thanh trao đổi với nhau lời chào vĩnh biệt.

Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định cuộc tổng công kích sẽ diễn ra khi trời tối.

14 giờ, pháo chiến địch bắn mãnh liệt vào khu trung tâm tập đoàn cứ điểm, dọn đường cho cuộc tiến công cứ điểm 507 của 209.

Những cứ điểm 505 và 505A đối diện với 507 lúc này do tiểu đoàn 154 của Nguyễn Năng và đại đội trợ chiến của tiểu đoàn 166 chốt giữ. Lực lượng ở đây gồm chủ yếu là đại đội 525, đơn vị đã phòng ngự từ ngày đầu, mới được tăng cường thêm những bộ phận của đại đội 520 và 530. Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 154 Ngô Trọng Bảo có mặt ở tiền duyên nhận thấy quân địch chống cự yếu ớt, quyết định cho bộ đội mở hàng rào ngay trong lúc pháo ta còn áp chế quân địch. Với sự chi viện của trợ chiến, chỉ sau bốn quả bộc phá, bộ đội ta đã lọt vào trong cứ điểm 507. Quân địch bàng hoàng, bắn vài loạt đạn rồi bỏ chạy sang cứ điểm 508 và qua sông Nậm Rốm, số còn lại đầu hàng. Trung đoàn 209 được tiểu đoàn trưởng Nguyễn Năng từ sở chỉ huy tiểu đoàn báo cáo đã chiếm được 507 lập tức điều tiểu đoàn 130 từ phía sau lên tiếp ứng. Trong khi đó, 154 thừa thắng đánh tiếp sang 508. Đại bác của ta đã gây nhiều đám cháy lớn trong khu trung tâm., Tuy nhiên, những khẩu trọng liên tự động bốn nòng của địch vẫn nhả đạn dữ dội về phía cầu Mường Thanh.

3 giờ chiều, trinh sát báo cáo trong khu trung tâm của địch xuất hiện những đốm cờ trắng. Chỉ huy trưởng yêu cầu cán bộ tham mưu chỉ những điểm có cờ trắng trên bản đồ, nhận thấy có cả những đơn vị Âu Phi.

Bộ chỉ huy chiến dịch nhận định: Địch đã đến lúc tan rã.

Đúng 3 giờ chiều, Chỉ huy trưởng chiến dịch ra lệnh: “Không cần đợi trời tối, lập tức mở cuộc tổng công kích vào Mường Thanh. Đơn vị phía đông đánh thẳng vào khu vực trung tâm, đơn vị phía tây giáp công sang, cùng tiến vào sở chỉ huy của địch. Phải đánh thật mạnh, bao cây thật chặt, không để cho Đờ Cát hoặc bất cứ tên địch nào chạy thoát”.

Tại trận địa, đại đội 360 của tiểu đoàn 130, có chính trị viên tiểu đoàn Trần Quải đi cùng, đã có mặt ở cứ điểm 508. Tiểu đoàn phó Ngô Trọng Bảo cho các lực lượng của 154 tiếng sang cứ điểm 509, cứ điểm cuối cùng bảo vệ Mường Thanh, rồi trao đổi với chính trị viên Trần Quải, lệnh cho đại đội 360 tiến vào khu trung tâm, nơi lửa khói của những đám cháy mỗi lúc càng bốc cai. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật lập tức dẫn đại đội 360 luồn dưới làn đạn của những khẩu trọng liên bốn nòng, băng qua cầu Mường Thanh. Nhận thấy quân địch hầu như không chống cứ, Tạ Quốc Luật cho bộ đội rời giao thông hào đầy ắp quân địch, nhảy lên mặt đấy, dùng một lính ngụy trang dẫn đường tiến thật nhanh tới sở chỉ huy của De Castries.

Các đài qua sát báo cáo về: Quân ta từ ba phía đánh vào khu trung tâm, 312 từ phía đông tiến qua cầu Mường Thanh, 308 từ phía tây mở đường qua sân bay, và từ phía tây nam mở đường vào Lili, hướng về sở chỉ huy của De Castries. Quân địch chỉ chống cự lẻ tẻ. Nhiều toán địch ra hàng. Những đốm cờ trắng xuất hiện ở Mường Thanh mỗi lúc mọt nhiều. Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái luôn miệng nhắc các đơn vị: “Bao vây chặt, không để một tên nào chạy thoát”.

5 giờ 30 chiều, 312 báo cáo lên: “Toàn bộ quân địch tại khu trung tâm đã đầu hàng. Đã bắt được tướng Đờ Cát.”

Cả khu rừng cơ quan chỉ huy Mặt trận, từ xưa đến nay rất nghiêm mật, bỗng sôi lên những tiếng ầm ầm như biển động. Cán bộ, chiến sĩ hò reo, khua chân múa tay, ôm nhau nhảy nhót, biểu lộ sự vui mừng như những em nhỏ.

Sự vui mừng chưa đến với Chỉ huy trưởng. Có chắc chắn là đã bắt được tướng giặc chưa? Ở Hồng Cúm, vẫn còn một ngàn rưỡi quân địch.

Từ Mường Thanh, các đơn vị báo cái lên: binh lính địch lũ lượt kéo ra hàng. Có tên vừa đi vừa hát. Các chiến sĩ ta cũng ra khỏi công sự, nhảy múa trên giao thông hào. Nhiều anh em bắn súng chỉ thiên và pháo hiệu xanh, đỏ để mừng thắng trận.

Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho các đơn vị: “Cuộc chiến đấu chưa chấm dứt. tất cả ở lại vị trí chiến đấu. Không được để một tên địch nào chạy thoát. Lập tức dùng hệ thống loa địch vận kêu gọi và hướng dẫn địch ra hàng. Khẩu hiệu như sau: “Hãy ra hàng! Các anh sẽ được đối đãi tử tế. cầm cờ trắng, đi ra phải có trật tự. Cấm không được phá hoại vũ khí, đạn dược. Ai còn mang súng, phải chúc đầu súng xuống đất”.

Ngay sau đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp hỏi anh Lê Trọng Tấn:

- Có đúng là đã bắt được De Castries không?

- Báo cáo anh, anh em báo cáo lên là đã bắt được.

- Căn cứ vào đâu mà biết nó là De Castries.

Tấn im lặng.

- Cần bắt cho được De Castries. Không được để địch đánh tráo tên chỉ huy. Phải đối chiếu nhận dạng với căn cước, kiểm tra cấp hiệu, phù hiệu. Các đồng chí chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc này. Các đồng chí có ảnh của De Castries chưa?

Đơn vị trả lời không có. Một cán bộ của mặt trận dùng xe jeep xuống đơn vị mang theo tấm ảnh của De Castries.

Đại đoàn 304 báo cáo tại Hồng Cúm, địch có triệu chứng định đánh ra để tháo chạy sang Lào. Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho 308 đưa một đơn vị nhanh chóng tăng cường cho Hồng Cúm, phối hợp cùng 304 bao vây, truy kích quân địch, không để một tên nào chạy thoát.

Chung quanh vẫn ầm ầm. Không sao hạn chế được sự ồn ào, niềm vui của mọi người. Các đồng chí vệ binh hạ những cánh cửa liếp xuống cho Sở chỉ huy yên tĩnh hơn.

Vẫn chưa có trả lời về việc bắt De Castries. Lệnh được nhắc lại. Mỗi phút chờ đợi lúc này rất dài.

Lát sau, đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn gọi giây nói báo cáo, đúng là đã bắt được De Castries cùng toàn bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm. De Castries vẫn mang cấp hiệu, ta đã kiểm tra kỹ giấy tờ và chữ ký của y.

Chỉ huy trưởng hỏi lại:

- Đồng chí đã thực mắt nhìn thấy De Castries chưa?

Lê Trọng Tấn vui vẻ đáp:

- Báo cáo anh, De Castries cùng với cả bộ chỉ huy Pháp ở Điện Biên Phủ đang đứng trước mặt tôi. Hắn vẫn còn cả “can” và mũ đỏ.

Tổng tư lệnh viết ngay điện báo cáo với Trung ương và Chính phủ tin quân ta ở Điện Biên Phủ đã toàn thắng.

Tin địch ở Mường Thanh đầu hàng được truyền cho các đơn vị bộ đội và dân công ở phía sau qua đường dây điện thoại.

Lại có ngay một chuyện mới: Giải quyết cái ăn cho một vạn tù binh, cứu chữa cho thương binh địch tại đây như thế nào? Chủ nhiệm chính trị Lê Liêm nhắc đi nhắc lại các đơn vị: “Các đồng chí nhớ đảm bảo chính sách! Phải tổ chức cho tù binh ăn cơm chiều nay”. Nhưng người nhẹ nhàng nhất là Chủ nhiệm hậu cần Đặng Kim Giang và các đồng chí phụ trách hậu cần. Không còn phải lo chuẩn bị gạo, đạn cho bộ đội qua cả mùa mưa.

Với Chỉ huy trưởng, trận đánh chưa kết thúc. Quân địch ở Hồng Cúm lúc này do Hà Nội trực tiếp chỉ huy. Nếu chúng chạy thoát một số sang Thượng Lào thì chiến thắng của ta sẽ không trọn vẹn. Anh gọi điện thoại trực tiếp cho Nam Long, ra lệnh quyết không để một tên địch nào chạy thoát. Nam Long quả quyết nói: “Thưa anh, sẽ không có một tên nào chạy thoát. Chúng tôi đã chốt chặt đường sang Lào”.

Tại Hồng Cúm từ 5 giờ chiều ta đã phát hiện ra địch ném vũ khí xuống sông Nậm Rốm và có nhiều đám cháy trong cứ điểm. Chính ủy Lê Chưởng nói với tham mưu trưởng: “Ta lệnh cho chúng đầu hàng. Nếu ngoan cố sẽ bị tiêu diệt”.

Lệnh được truyền xuống các đơn vị. Tiếng loa của ta vang vang: “Mường Thanh đã đầu hàng! De Castries đã bị bắt! Hồng Cúm hàng nhanh thì sẽ không bị tiêu diệt!”

Địch vẫn im lặng. Ta dùng vô tuyến điện gọi:

- Isabelle! Lalande! Các anh hãy đầu hàng ngay, nếu không sẽ bị tiêu diệt!

- Chúng tôi sẵn sàng hạ vũ khí. Nhưng đề nghị các ông cho mượn đường sang Lào.

Chính ủy Lê Chưởng hạ lệnh cho pháo bắn. Hồng Cúm trở thành một biển lửa. Quân địch không chống cự. Bộ đội được lệnh tiến vào trong cứ điểm. Nhưng chỉ còn lại những tên bị thương. Có lẽ nào quân địch đã chạy thoát? Vòng vây của ta vẫn siết chặt chung quanh. Trung đoàn trưởng 57 hạ lệnh cho bộ đội đốt đuốc tìm quân địch. Đuốc sáng hồng cả một vùng trời. Du kích và đồng bào những bản xung quanh Hồng Cúm cũng chủ động phối hợp, đã đường cho bộ đội đuổi bắt Tây. Nhưng quân địch không ở đâu xa. Pháo ta bắn mạnh, các công sự trong các cứ điểm đều đổ sụp, Lalande đã ra lệnh cho tất cả binh lính chạy ra chung quanh cứ điểm để tránh pháo.

24 giờ, chính ủy đại đoàn Lê Chưởng gọi điện báo cáo đã bắt được toàn bộ quân địch ở Hồng Cúm, trong đó có cả Lalande, chỉ huy phó của tập đoàn cứ điểm, đặc trách phân khu Hồng Cúm.

Sau 55 ngày đêm chiến đấu ác liệt, chiến dịch lịch sử đã thu được toàn thắng.

Chỉ huy trưởng ngả mình trên chiếc đệm cỏ tranh thao thức mãi không sao ngủ được. Ngày mai, chắc chắn bộ đội sẽ nhận được thư khen của Bác. Anh Phạm Văn Đồng đã có mặt ở Genève, sẽ có một tư thế mới để bước vào hội nghị. Các đồng chí của ta và các đồng chí Liên Xô, Trung Quốc đều mong đợt tin này hàng giờ… Lá cờ Tổ quốc được nhân dân ta nêu cao trên chiến trường lịch sử. Quân đội ta lớn lên nhanh quá. Kế hoạch Navarre coi như đã thành mây khói. Cục diện sẽ đổi mới. Điện Biên Phủ xong rồi, nay mai sẽ tiếp tục đánh ở đâu? Niềm vui đã làm chỉ huy trưởng mất gần trọn giấc ngủ đêm hôm đó.

Bốn năm sau đó, đồng chí Vi Quốc Thanh từ Quảng Tây sang thăm Hà Nội. Đồng chí tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp một bức mành trúc có con chim ưng và dòng chữ “Đông phong nghênh khải hoàn” (Gió đông đón khải hoàn). Đồng chí nói: “Những năm ở Việt Nam là thời kì hoàng kim trong cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi”. Và đồng chí kể lại: “Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Bắc Kinh điện hỏi tôi: ‘Trận Điện Biên Phủ là vận động chiến hay trận địa chiến?”