← Quay lại trang sách

Chương XXIX TỪ VAUTOUR ĐẾN CONDOR

❖ 1 ❖

Sau đợt tấn công vào các cao điểm phía đông, nhìn chung chiến trường có một số ngày yên tĩnh. Cái yên tĩnh này sẽ không đáng sợ với quân địch đang mong thời gian nhanh chóng trôi qua cho tới mùa mưa, nếu không có vô vàn những tiếng cuốc đào đất bất kể đêm ngày rậm rịch chung quanh, mỗi lúc càng rõ.

Suốt ngày đêm, từng giờ, những chiến hào nổi, chiến hào ngầm của bộ đội ta nhích dần đến gần phân khu trung tâm. Từ những đầu hào chỉ cách địch vài chục mét, các chiến sĩ ta dùng ĐKZ bắn sập dần những lô cốt, ụ súng. Chiến hào tiến vào gần còn mang cho kẻ địch nhiều tai họa khác. Hàng rào dây thép gai và bãi mìn của cứ điểm lúc này lại trở thành những chướng ngại bảo vệ an toàn cho chính những người tiến công. Các tổ thiện xạ tìm những vị trí bất ngờ, không tha cho bất kì một tên địch nào ló đầu ra khỏi công sự. Việc đi lấy nước dưới song Nậm Rốm trở thành vô cùng khó khăn. Có những tên địch ở ngay bờ sông cũng không dám xuống lấy nước. Chúng ngồi trong công sự quăng những chiếc can xuống sông, rồi dùng dây kéo lên. Chiến sĩ bắn tỉa băn vào can. Chúng chỉ thu về chiếc can rỗng.

Tại khắp các đơn vị nổi lên một phong trào “săn Tây, bắn tỉa”. Con số địch bị diệt trong thời gian này bằng bắn tỉa rất đáng kể. Chỉ trong vòng mười ngày, các chiến sĩ bắn tỉa của 312 diệt 110 tên định, ngang với số quân địch bị loại khỏi vòng chiến đấu trong một trận công kiên! Chiến sĩ bắn tỉa Đoàn Tương Líp của trung đoàn 88 dùng 9 viên đạn súng trường diệt 9 tên địch. Chiến sĩ Lục của trung đoàn 165 trong một ngày bắn tỉa diệt 30 tên địch. Những tân binh được các chiến sĩ cũ kèm cặp, rèn luyện về chiến thuật và bắn súng trong thực tế chiến đấu ngay trên chiến hào. Họ đều tiến bộ rất nhanh. Có những người sau một thời gian ngắn đã biết sử dụng tất cả các loại súng và trở thành thiện xạ.

Những khẩu đội pháo cao xạ tiến gần vào khu trung tâm, ban đêm lặng lẽ di chuyển trên cánh đồng tới giáp hàng rào dây thép gai, bất thần nhả đạn vào những chiếc máy bay là xuống thấp để thả dù người và dù tiếp tế. Một phần ba đồ tiếp tế rơi vào tay bộ đội ta. Chúng ta thu được nhiều thứ mà ta đang rất cần, như đạn 105, đạn súng cối, huyết thanh khô…

Một trung đoàn trong một tuần đã thu được 776 dù với đủ cả đạn, gạo, đồ hộp, sữa, dầu hỏa… Với số hàng này địch đã phải dùng khoảng ba chục chuyến Dakota để chuyên chở lên đây.

Hàng ngày, ở Sở chỉ huy, khi nghe báo cáo số địch chết vì bị bắn tỉa, số lương thực, đạn dược thả dù bộ đội đoạt được, Chỉ huy trưởng lại nghĩ, ta đang cho kẻ địch nếm những đòn cay đắng nhất. Quả như vậy, với cách đánh này, ta đang dành thắng lợi mà không tổn phí nhiều xương máu của chiến sĩ, không phải tiêu thụ nhiều đạn dược. Mỗi thứ chiến lợi phẩm này đều có những tác động khác nhau, vừa khiến cho kẻ địch đã khốn khó càng khốn khó thêm, chính chúng đang mang lại những thứ ta đang cần để tiếp tục giáng xuống đầu quân địch, lại đỡ công chuyên chở nhiều ngày trên những chặng đường lửa.

Địch hi vọng kéo dài cuộc chiến bằng cách đánh mạnh vào các tuyến đường tiếp tế. Chúng biết rõ sau mỗi đợt tấn công, bộ đội ta lại phải chờ đạn, gạo từ hậu phương chuyển lên. Những quãng đường nằm bên sườn đèo cao, những đoạn dễ bị úng nước, những chiếc cầu trên đường độc đạo, trở thành túi bom. Ở tuyến hậu phường, đèo Giàng trên đường từ Cao Bằng xuống, đèo Cà từ Lạng Sơn về, đèo Khế nối liền Thái Nguyên với Tuyên Quang, đèo Lũng Lô nối liền Yên Bái với Sơn La, là mục tiêu của những cuộc oanh kích. Trên tuyến chiến dịch, bom địch vẫn không ngừng trút xuống đèo Pha Đin, các đầu mối giao thông Cò Nòi, Tuần Giáo. Nhưng còn một tai họa khác là: mưa. Mưa biết khai thác nhược điểm của con đường hơn cả những tên giặc lái. Tất cả đường của ta đều hẹp và xấu, lại bị phá hoại trước đây, mới được khôi phục nhanh bằng cấp phối, ngay khi trời khô giáo xe cơ giới qua lại đã khó khăn. Mưa tạo thành những bãi lầy dài cả chục kilômét. Mưa dồn đất từ thành vại xuống phủ kín mặt đường. Có khi nó cuốn cả từng mảng đường bên sườn đèo xuống vực sâu. Quân địch đã biết rõ sức phá hoại của mưa đối với những tuyến đường tiếp tế. Ngay từ đầu chiến dịch, chúng đã đề ra làm mưa nhân tạo, nhưng chưa thành công. Mùa mưa tới sớm đã tiếp tay cho chúng.

Pháo đói đạn trầm trọng. Có ngày mỗi khẩu pháo của ta chỉ còn hai, ba viên đạn. Bắn quá ba viên 105 phải xin phép Tham mưu trưởng, quá mười viên phải xin phép Tổng tư lệnh. Nhân đây cũng nói thêm, một số nhà nghiên cứu phương Tây đã quá cường điệu số đạn pháo của ta tại Điện Biên Phủ. Có người tính ta bắn khoảng 350.000 viên! Cũng theo họ, phía Pháp đã sử dụng trong chiến dịch 132.000 viên, không kể hỏa lực của chiến xa và đặc biệt là không quân. Trong thực tế, về đạn 105, ta chỉ có tổng số khoảng 20.000 viên, gồm 11.000 viên chiến lợi phẩm của chiến dịch Biên giới, 3.600 do Trung Quốc viện trợ kèm theo pháo, 440 viên chiến lợi phẩm ở mặt trận Trung Lào, khoảng 5.000 viên thu được của địch thả dù tiếp tế. Sau chiến tranh Triều Tiên, đạn pháo 105 ở Trung Quốc cũng rất khan hiếm. Trước nhu cầu cấp thiết của chiến dịch, bạn đã vơ vét đạn 105 từ các kho để chuyển cho ta, nhưng 7.400 viên tháng 5 năm 1954 mới tới khi trận đánh đã kết thúc.

Mọi chiến dịch, Chỉ huy trưởng đều nghe báo cáo tình hình cung cấp từng thời kì. Nhưng lần này, cán bộ tham mưu đã làm một cuốn sổ theo dõi số lượng vận chuyển hàng ngày; riêng về gạo, dựng thành một biểu đồ. Mỗi sáng, đã trở thành thói quen, khi mới ngủ dậy, anh nhìn ngay vào bảng biểu đồ hậu cần treo trên vách liếp bên cạnh bản đồ chiến sự. Cán bộ tham mưu đã ghi số gạo nhập kho đêm trước bằng một gạch đỏ.

Trên cánh đồng phía Tây, bộ đội ta khơi rãnh chung quanh công sự và đào những đường thoát nước tại trận địa. Cơ quan tham mưu mặt trận tập trung nghiên cứu cách làm chiến hào nổi để đối phó với nước lũ.

Mỗi khi thấy một đám mây đen hiện trên đầu núi, một ánh chớp lóe trong đêm, Chỉ huy trưởng lại bồn chồn. Chúng ta đã chuẩn bị mọi mặt để chiến đấu qua mùa mưa. Nhưng tốt nhất vẫn là kết thúc số phận quân địch trước khi mùa mưa tới.

Các chiến dịch trước đó, từng đơn vị chỉ đánh vài trận, những trận đánh thường diễn ra không quá một đêm. Sau mỗi trận, bộ đội ta rút ngay về vị trí an toàn phía sau, nghỉ ngơi, củng cố chuẩn bị cho trận khác. Đến chiến dịch này, cuộc chiến đấu đã kéo dài nhiều tháng ròng. Những trận truy kích đường dài, công đồn, phòng ngự, đánh phản kích quyết liệt diễn ra liên tiếp. Ngay sau đó lại bắt tay luôn vào xây dựng trận địa, bản thân công việc này cũng là chiến đấu. Bộ đội ta ăn, ngủ ngay tại công sự trên trận địa đối mặt với quân địch. Cường độ chiến đấu đã vượt lên sức chịu đựng của con người.

Cơ quan chính trị đi nắm tình hình tư tưởng các đơn vị nhận xét: Qua đợt chiến đấu vừa rồi nổi lên những tấm gương chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, nhưng trong cán bộ cũng nảy sinh một số biểu hiện tiêu cực, như ngại hy sinh, gian khổ, chấp hành mệnh lệnh không nghiêm, cá biệt có cán bộ bỏ nhiệm vụ giữa trận đánh. Trong chiến dịch này, đây là những hiện tượng mới.

Sau đợt tiến công khu Đông, công tác giáo dục chính trị đã tập trung làm cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ nhận rõ tình hình khó khăn của địch và những điều kiện tất thắng của ta, nâng cao tinh thần trách nhiệm và quyết tâm làm tròn nhiệm vụ. Từ cán bộ tới chiến sĩ đều tiến hành kiểm điểm.

Đảng ủy Mặt trận thấy không thể bỏ qua những hiện tượng mới này, quyết định triệu tập hội nghị các bí thư đại đoàn ủy, các đồng chí phụ trách Tổng cục, những người có trách nhiệm nặng nhất trong chiến dịch, để tiến hành kiểm điểm tư tưởng hữu khuynh tiêu cực trước khi bước vào đợt chiến đấu quyết định.

Mọi người quây quần dưới ngôi nhà mái nữa dành riêng cho các cuộc họp. Hầu hết những đồng chí có mặt đã hoạt động từ ngày cách mạng còn phải đi kiếm từng khẩu súng kíp, từng quả lựu đạn. Con đường cách mạng tuy chông gai, thử thách, nhưng nó không ngừng tiến lên phía trước, và đem lại cho ta cái đẹp, cái vô cùng quý giá là tình đồng chí, tình bạn trong chiến đấu. Những khi có dịp quây quần bên nhau là để cùng vui trước thắng lợi, hoặc cùng bàn cách vượt qua khó khan, giành thêm những thắng lợi mới.

Chỉ huy trưởng giới thiệu với hội nghị nghị quyết mới của Bộ chính trị, và trình bày bản báo cáo: “Kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, xây dựng tinh thần tích cực cách mạng, tinh thần triệt để chấp hành mệnh lệnh bảo đảm toàn thắng cho chiến dịch” của Đảng ủy Mặt trận. Hội nghị thảo luận, nhất trí về tình hình sau khi phân tích kĩ những khó khăn, thuận lợi của ta và địch. Mọi người đều nghiêm khắc kiểm điểm những thiếu sót. Hội nghị Giơnevơ sắp họp. Ai nấy đều thấy mình đang đứng trước một đòi hỏi to lớn, là không chỉ giành thắng lợi trong chặng đua nước rút cuối cùng, mà còn phải về tới đích đúng thời gian. Và không được phép sao lãng trách nhiệm giành thắng lợi với tổn thất ít nhất về xương máu. Đây cũng là điều có thể thực hiện, đã được thực tế chiến đấu những ngày qua chứng minh. Cuối cùng, hội nghị nhận thấy cần làm sao cho quyết tâm của Trung ương thấm nhuần tới mỗi cán bộ, chiến sĩ, mọi người cần vượt lên mệt mỏi, biến quyết tâm thành hành động trên chiến trường.

Ngày hôm sau, phần lớn cán bộ cơ quan chính trị chia nhau xuống giúp đỡ các đơn vị triển khai một đợt giáo dục cấp tốc cho toàn thể bộ đội, từ cấp ủy đến đảng viên, từ cán bộ đến chiến sĩ, để mọi người nhận thức rõ tình hình, nâng cao quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Một khí thế mới dâng lên khắp nơi sau đợt học tập. Đây là một thành công rất lớn của công tác chính trị trên mặt trận Điện Biên Phủ, một trong những thành công lớn của công tác chính trị trong lịch sử chiến đấu của quân đội ta.

❖ 2 ❖

Tổng thống Eisenhower đã mắc nợ với cử tri Mỹ lời hứa khi tranh cử là sẽ tạo một không khí hòa dịu trong tình hình quốc tế đang bị đầu độc vì chiến tranh lạnh giữa Tây và Đông. Nhưng ông ta không thể giữ thái độ thờ ơ trước lời kêu cứu của nhà cầm quyền Pháp.

Các quan chức Mỹ trao đổi nhiều lần, tìm cách giải nguy cho Điện Biên Phủ. Có ý kiến đề xuất đưa 8 sư đoàn chiến đấu, 35 tiểu đoàn công binh… và các phương tiện đảm bảo pháo binh, hậu cần, đổ bộ vào châu thổ sông Hồng (1) . Nhưng kế hoạch này bị gạt vì lục quân Mỹ chưa sẵn sàng, và Mỹ đã có kinh nghiệm đưa bộ binh vào Bắc Triều Tiên. Radford nghiêng về ý kiến dùng không quân chiến lược Mỹ ném bom, phù hợp với chiến lược “trả đũa ồ ạt”.

Trong hồi ký “Không có thêm những Việt Nam mới” ( No more Vietnams ), Nixon viết: “Đô đốc Radford, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, đề nghị chúng ta dùng 60 máy bay ném bom B-29 ở Philippin mở các cuộc đột kích vào ban đêm để tiêu diệt các vị trí của Việt Minh. Và đặt ra kế hoạch mang tên “Cuộc hành binh Chim kền kền” nhằm đạt mục tiêu với ba quả bom nguyên tử chiến thuật nhỏ”. Một số tài liệu khác còn cho thấy kế hoạch Radford được Hội đồng An ninh quốc gia phê chuẩn và “trong thực tế, Mỹ đã có quyết định tạm thời về việc tham chiến ở Đông Dương vào ngày 25 tháng 3 năm 1954” (2) , và “trên văn bản của Hội đồng An ninh quốc gia có ba chữ D.D.E (Dwight D.Eisenhower) phê chuẩn”. (3)

Ngày 29 tháng 3 năm 1954, sau khi Ely từ Mỹ về, Thủ tướng Pháp Laniel lập một Hội đồng chiến tranh hẹp, gồm các tham mưu trưởng và một số thành viên trọng yếu của nội các, bàn về dự kiến một cuộc ném bom của không quân Mỹ ở Điện Biên Phủ. Thời gian đã mang tới nhiều sự phân vân mới. Liệu một cuộc hay vài cuộc ném bom có đủ để tiêu diệt lực lượng Việt Minh đang bao vây hay không? Biết đâu nó lại dẫn tới sự can thiệp ồ ạt của Trung Quốc vào Đông Dương như ở Triều Tiên! Nó có làm tiêu tan hi vọng về một giải pháp hòa bình cho chiến tranh Đông Dương tại hội nghị Genève sẽ mở vào ngày 26 tháng 4 hay không? Laniel và Hội đồng chiến tranh quyết định cử đại tá Brohon, người đã tháp tùng Ely sang Mỹ, đi gặp Tổng chỉ huy Navarre để hỏi về tác dụng một cuộc ném bom của không quân chiến lược Mỹ xuống Điện Biên Phủ.

Ngày 4 tháng Tư, Brohon từ Đông Dương quay lại Paris cho biết Navarre lo ngại cuộc hành binh Vautour sẽ dẫn tới những phản ứng của không quân Trung Quốc. Nhưng ngay tối hôm đó Ely lại nhận được bức điện khẩn của Navarre: “Cuộc can thiệp mà đại tá Brohon đã nói với tôi chỉ có thể có một hiêu quả quyết định nếu được thực hiện trước cuộc tiến công [cuối cùng] của Việt Minh”. Đợt tiến công của bộ đội ta vào năm quả đồi phía đông đã làm cho Navarre thay đổi thái độ. Pléven lập tức mời đại sứ Mỹ tới trình bày tình hình nghiêm trọng của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, chỉ có sự can thiệp bằng máy bay hạng nặng của Mỹ mới có khả năng loại trừ pháo binh Việt Minh ở những quả đồi chung quanh để cứu nguy cho quân đồn trú. Ely cũng điện cho tướng Valluy, đang có mặt ở Lầu Năm góc, thông báo ngay cho Radford để có những biện pháp quân sự thật khẩn trương.

Trong bức thư khá dài Eisenhower gửi riêng Thủ tướng Churchill, ông ta đưa ra ý kiến: “Và nếu Đông Dương rơi vào tay cộng sản, vị thế chiến lược toàn cầu của chúng tôi, và các ngài, sẽ khó tránh sự biến chất, chắc chắn là tai hại, trong cán cân lực lượng tại Châu Á và Thái Bình Dương, và tôi biết là ngài cũng như tôi sẽ không thể chấp nhận. Điều đó sẽ dẫn chúng ta đến kết luận không thể bác bỏ là tình hình Đông Nam Á đòi hỏi chúng ta phải có những quyết định khẩn cấp, nghiêm trọng và có tầm rộng lớn… Các tốt nhất là hỗ trợ vật chất và tinh thần cho sự cố gắng của Pháp bằng một tập hợp mới hay liên minh thích hợp, gồm những quốc gia có quyền lợi sống còn phải làm thất bại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Điều quan trọng là liên minh đó phải mạnh và sẵn sàng tham gia vào trận chiến nếu cần. (4)

Vị Thủ tướng 85 tuổi của nước Anh không vội vàng phúc đáp. Anh vẫn còn giữ một hòn đảo của Trung Quốc là Hồng Công, không muốn bỏ lỡ cơ hội cải thiện quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại hội nghị Genèvơ sắp họp nay mai.

Mười ngày sau, Navarre lại điện cho Ély đề nghị Mỹ dùng từ 15 đến 20 máy bay B-29 ném bom xuống đường 41 quãng giữa sông Hồng và Tuần Giáo. Tình thế bế tắc ở Điện Biên Phủ buộc Navarre phải nghĩ tới một hành động hạn chế của không quân chiến lược Mỹ. Ely trả lời: “Radford không chấp nhận giải pháp này, Hoặc tất cả hoặc không”.

Trong khi chờ đợi, Ely gợi ý Navarre về khả năng sử dùng 15 máy bay hạng nặng B-29 của Mỹ do phi công Pháp ở Đông Dương điều khiển. Đến lượt Navarre trả lời khước từ, vì một lý do đơn giản: phi công Pháp không sử dụng được những máy bay lớn hớn máy bay B-26 mà người Mỹ đã cung cấp.

Người cầm đầu nước Mỹ vẫn tin sớm muộn sẽ có sự đồng tình của Anh. Ngày 20 tháng 4, Dulles quyết định mời đại sứ các nước Anh, Campuchia, Lào, Pháp, Philippin, Tân Tây Lan, Thái Lan, Úc và chính quyền Sài Gòn tới họp. Chính quyền Anh đã chỉ thị cho Rogers Makins, đại sứ tại Washington, không tham dự cuộc họp này.

Trước những phản ứng không thuận lợi cả ở trong nước và ngoài nước, phái can thiệp Mỹ được Phó tổng thống Nixon ủng hộ, vẫn xúc tiến kế hoạch. Giới quân sự Mỹ tiếp tục liên hệ với bộ tham mưu Pháp chuẩn bị cho cuộc hành binh Chim kền kền. Đầu tháng Tư, đại tướng Partridge, chỉ huy không lực Mỹ tại Viễn Đông, tới Sài Gòn bàn bạc với người đồng nhiệm Pháp, tướng Lauzin, và Tổng chỉ huy Navarre. Cùng đi với Partridge có trung tướng Caldera, người sẽ trực tiếp điều khiển cuộc hành binh. Caldera phát hiện một số trở ngại về mặt kỹ thuật. Tại Đông Dương không có loại rađa dẫn đường tầm ngắn, rất cần để hướng dẫn cho những máy bay hạng nặng thả bom vào một kẻ địch đã bao vây rất gần, chỉ một sai sót nhỏ về điều khiển thì hàng trăm tấn bom có thể tiêu diệt toàn bộ quân đồn trú chứ không phải Việt Minh! Caldara nhiều lần dùng máy bay quan sát trực tiếp Điện Biên Phủ ban đêm, cố tìm giải pháp khắc phục nhược điểm này.

Trong cuốn “Những bí mật quốc gia” (Secrets d’Etat), Raymond Tournoux (Raymông Tuốcnu) đưa ra một sự kiện theo tác giả đã được thu thập “từ những nguồn tin có thẩm quyền, và sau đó không ai cải chính”:

Ngày 14 tháng 4 năm 1954, tại Paris, ngoại trưởng Mỹ Dulles đã nói bằng tiếng Pháp với Bidault:

-Nếu bây giờ chúng tôi cho ngài hai trái bom nguyên tử?

Bidault đã khẳng định điều này trong cuốn “Từ cuộc kháng chiến này đến cuộc khác” ( D’une résistance à l’autre ), bằng cách dẫn lại câu trả lời của mình với Dulles: “Nếu ném bom [A] xuống vùng Điện Biên Phủ, người phòng ngự cũng như người tấn công đều hứng chịu hậu quả như nhau. Nếu đánh vào tuyến giao thông bắt nguồn từ Trung Hoa, sẽ có nguy cơ dẫn tới một cuộc chiến tranh toàn bộ. Trong cả hai trường hợp, quân đồn trú ở Điện Biên Phủ, còn xa mới được cứu nguy, mà sẽ lâm vào tình trạng nghiêm trọng hơn”.

Ngày 24 tháng Tư, Đô đốc Radford gặp ngoại trưởng Anh Eden tại Paris nhân cuộc họp Hội đồng khối Bắc Đại Tây Dương (O.T.A.N). Radford một lần nữa tìm cách thuyết phục Eden chí ít nước Anh cũng cho Hoa Kỳ một lời tuyên bố ủng hộ có tính tượng trưng. Nhưng Eden nói thằng với những người đối thoại Hoa Kỳ là một chính sách dựa trên cơ sở một cuộc oanh tạc bằng máy bay chóng chầy sẽ đưa người Mỹ tới việc can thiệp bằng lực lượng trên bộ như kinh nghiệm tại Triều Tiên đã chứng tỏ, sự can thiệp đó sẽ dẫn người Mỹ tới việc thúc đẩy đồng minh thực hiện một “hành động liên minh”, có nghĩa là đưa quân đội của họ vào cuộc chiến. Người Anh sẽ làm tất cả cho hội nghị Genèvơ thành công. Ngày 25, Eden trở về Luân Đôn họp hội đồng nội các để giải quyết dứt khoát vấn đề này.

Ngày 26 tháng 4, tướng Candera trở lại Sài Gòn. Candera đề cập tới việc sẽ dùng 80 máy bay ném bom chung quanh thung lũng Điện Biên Phủ và khu vực hậu cần Tuần Giáo, nhưng với những phi hành đoàn Mỹ - Pháp kết hợp. Cuộc hành binh sẽ được thực hiến trong 62 giờ và một sĩ quan cao cấp đã từ Sài Gòn bay tới Clark Field để chuẩn bị. Về thực chất vẫn là kế hoạch Chim Kền kền. Người Pháp lại hi vọng.

Ngày 27 tháng 4 năm 1954, thủ tướng Churchill tuyên bố ở hạ nghị viện Anh: “Chính phủ Hoàng gia Anh không chuẩn bị lời hứa nào về hành động quân sự ở Đông Dương khi mà chưa biết kết quả của hội nghị Genèvơ”. Lời tuyên bố được hạ nghị viện Anh hoan hô nhiệt liệt.

Người Anh không thể vì số phận một đoàn quân Pháp đã được định đoạt, bỏ lỡ cơ may giải quyết những vấn đề quan trọng của mình với những cường quốc cộng sản tại Genèvơ.

Vòng vây thu hẹp, tiếp tế và tiếp viện trở nên cực kì khó khăn. Những phi công Mỹ làm công việc này đã được đánh giá là dũng cảm, nhưng cũng không đáp ứng được yêu cầu đề ra, khi phải bay thấp thả dù trong một không phận nhỏ hẹp có súng cao xạ và súng phòng không chờ sẵn. Riêng ngày 26 tháng Tư, 50 máy bay trúng đạn trên bầu trời Điện Biên Phủ và ba chiếc bị bắn hạ, trong đó có một máy bay B-26, và hai chiếc Hellcat của hạm đội 11, do phi công Mỹ lái. Đêm hôm đó, Hà Nội hứa tang viện 80 người nhưng chỉ thả dù được 36, hứa thả 150 tấn hàng tiếp tế, nhưng chỉ thả được 91 tấn với 34% rơi vào phía bên kia. (5)

Ngày 29 tháng Tư, De Castries điện ngay cho Cogny báo tin bùn trong những chiến hào ở Điện Biên Phủ đã sâu tới một mét, trong ngày Điện Biên Phủ chỉ nhận được 30 tấn hàng tiếp tế và không có một lính tang viện nào.

Tính riêng trong tháng Tư, số quân địch bị loại khỏi vòng chiến tại Điện Biên Phủ là 3.071 người. Lực lượng nhảy dù tăng viện trong tháng có hai tiểu đoàn (2/1 RCP, 2e BEP) và 650 lính tình nguyện, nhiều người chưa qua huấn luyện nhảy dù. Số tăng viện này còn xa mới bù đắp được những tổn thất. Về vũ khí, trong số 10 chiến xa, chỉ còn 1 chiếc hoạt động, 4 khẩu pháo 155 chỉ còn một khẩu bắn được, 24 khẩu pháo 105, chỉ còn lại 14 khẩu và 15 khẩu cối 120. (6)

Ngày 29 tháng Tư, tại Washington, Eisenhower họp với Radford, các tham mưu trưởng ba quân chủng và nhiều sĩ quan cao cấp khác xem xét lần cuối mọi mặt tình hình. Radford là người duy nhất ủng hội một cuộc can thiệp của Mỹ dù là đơn phương để tránh sự thất trận ở Điện Biên Phủ. Các tham mưu trưởng Hải quân, Không quân tỏ vẻ không mặn mà. Riêng tham mưu trưởng Lục quân Ridgway phản đối quyết liệt. Ridgway viện dẫn sự thất bại thảm hại từ cuộc hành binh “Bóp nghẹt” (Strangle) của Mỹ ở Triều Tiên, vốn nhằm tiêu diệt con đường tiếp tế, để chứng minh sự hạn chế của những hành động bằng không quân trong loại chiến tranh này. Cũng như Eden, Ridgway cho rằng những cuộc ném bom sẽ dẫn Hoa Kỳ vào một cuộc chiến tranh mới bằng bộ binh tốn kém với lối thoát không rõ ràng ở lục địa châu Á. Ý kiến của Ridgway được nhiều người tán đồng. Phái chủ chiến hạ vũ khí. Eisnhonwer không phải không biết nghe lời nói đúng. Ông ta quyết đình ngừng xúc tiến kế hoạch Chim Kền kền.

Chính quyền Pháp thời đó cho rằng tất cả mọi biện pháp cứu nguy cho Điện Biên Phủ đều đã được bàn bạc rất kĩ lưỡng. Một số người Pháp coi nước Anh là ích kỷ. Nhiều người chê trách Mỹ, nói Mỹ đã khôn khéo gạt trách nhiệm cho Đồng Minh, trong khi quyết định không can thiệp bằng không quân chiến lược vào Điện Biên Phủ đã được đề ra ở cấp cao nhất trong chính quyền Mỹ. Người Anh tự hào mình đã có thái độ đúng trong thời điểm lịch sử này. Thực ra ở nước Mỹ, những người thuộc phái Diều hâu không phải cứ muốn điều gì đều có thể làm được.

Quân Pháp sống trong những điều kiện cực kì khủng khiếp. Trên diện tích một kilômét vuông, một khoảng rộng bên bờ sông phải dành cho bệnh viện và cái “hố chung”. Nếu tập đoàn cứ điểm không ngừng thu hẹp thì khu vực dành cho người bị thương và người chết cũng không ngừng phát triển. Công binh Pháp ra sức đào thêm những nhánh hào mới để mở rộng bệnh viện nhưng vẫn không đủ chỗ cho thương binh. Nhiều thương binh phải nằm ngay tại cứ điểm. Chiếc máy xúc duy nhất còn lại chỉ chuyên vào việc đào hố chôn người chết. Danh mục đồ tiếp tế cho Điện Biên Phủ có thêm một yêu cầu khẩn cấp, đó là thuốc khử trùng DDT. Ruồi nhặng kéo tới đẻ trứng trên những vết thương. Thương binh nặng nằm trên những chiếc giường ba tầng, sáu người trong một căn hầm nhỏ. Nhiều người bị thương sọ não và mắc chứng hoại thư. Máu mủ của những người nằm bên trên chảy xuống những người nằm bên dưới. Những cẳng tay, cẳng chân, những ống tiêm chôn ngay trong đường hầm, khi trời mưa, nước ở ngoài chảy vào, tất cả lại lềnh bềnh nổi lên. Phần lớn những bộ phận lọc nước đã bị hỏng. Những viên chỉ huy ra lệnh cho binh lính đào giếng. Nhưng chỉ thấy một thứ nước váng dầu đục ngầu. Sân bay đã bị bỏ. Binh lính lấy những tấm ghi về lát trên đường hào, phủ đất để tránh mảnh đạn. Những tấm ghi này biến họ thành những con chuột ngày cũng như đêm, sống chui lủi trong bóng tối. Rời công sự đi lượm dù hay lấy nước là làm mồi cho các loại súng bắn tỉa khó trở về an toàn. Điện Biên Phủ khẩn thiết yêu cầu Cogny gửi thật nhiều ống nhòm ngầm (kính tiềm vọng) vì nhô đầu lên khỏi chiến hào để quan sát đã trở thành mạo hiểm.

Cuộc hành binh Chim Kền kền càng ngày càng xa vời. Bộ chỉ huy quân viễn chinh phải tính cách tự cứu. Có ý kiến: mở một cuộc hành binh đánh vào hậu phương chiến dịch của ta ở khu vực Yên Bái - Tuyên Quang. Nhưng cuộc hành binh này cần tới những lực lượng và phương tiện lớn, chỉ có thể lấy từ đồng bằng Bắc Bộ, như vậy sẽ làm cho đồng bằng Bắc Bộ nhanh chóng sụp đổ. Một ý kiến khác, cho De Castries tự đánh giải vây… Navarre quay lại với ý định từ ngày đầu chấp nhận chiến đấu ở Điện Biên Phủ: một hành động bắt đầu từ sông Nậm Hu. Nhưng theo Yve Gras, nó không còn là một cuộc hành binh giải tỏa như kế hoạch Xenophon, vì người Pháp không có đủ máy bay vận tải và máy bay chiến đấu, mà chỉ còn là một hành động nghi binh để nâng đỡ Điện Biên Phủ. Cuộc hành binh này vẫn mang tên Chim Kền kền (Condor), nhưng là loại chim ở Nam Mỹ. Nó chỉ gồm bảy tiểu đoàn, trong đó có ba tiểu đoàn được thả dù. Tuy vậy, vẫn phải huy động toàn bộ những chiếc Dakota còn lại trong vòng 24 giờ, và sau đó những máy bay này còn phải đảm nhiệm thả dù hàng ngày 45 tấn lương thực. Theo dự kiến từ ngày 14 đến 29 tháng Tư, cuộc hành binh sẽ được khởi đầu từ Mường Khoa tiến đến Tây Trang, rồi tràn vào Điện Biên Phủ đón binh đoàn đồn trú Tây Bắc phá vây rút chạy. Nhưng đúng thời gian này thì lực lượng máy bay vận tải bị hoàn toàn hút vào mặt trận Điện Biên Phủ. Do đó việc thả dù ba tiểu đoàn đã không thực hiện được. Chỉ còn ba tiểu đoàn ngụy Lào và một tiểu đoàn Lê dương (2/2 REI) thực hiên cuộc hành binh với sự yểm trợ của không quân, dưới quyền chỉ huy của trung tá Godard.

Ngày 26 tháng 4 năm 1954, các đoàn đại biểu đã có mặt tại Genèvơ. Hội nghị sẽ bàn về chiến tranh ở Triều Tiên và Đông Dương. Trên bán đảo Triều Tiên đã có ngừng bắn, nhưng vẫn chưa đạt được một hiệp định hòa bình. Vấn đề này sẽ không dễ giải quyết. Sự chú ý của các cường quốc tập trung vào tình hình chiến tranh nóng bỏng tại Đông Dương. Anh Phạm Văn Đồng, Trưởng đoàn đàm phán của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ở Phôngtenơblô (Fontainebleau) chín năm trước đây, với tư cách Phó Thủ tướng Chính phủ hiện nay, chuẩn bị lên đường sang Genèvơ.

Ngày 27 tháng 4 năm 1954, cuộc hành binh Condor bắt đầu.

Được tin có cánh quân địch từ phía Lào sang giải vây cho Điện Biên Phủ, Bộ chỉ huy Mặt trận quyết định sử dụng trung đoàn 148 và đại đội trinh sát ở nam Hồng Cúm tiến về phía Mường Khoa ngăn chặn địch. Ta phục kích gần Mường Khoa (tây-nam Điện Biên Phủ 30 kilômét) tiêu diệt bốn đại đội quân ngụy Lào. Địch rút chạy. Bộ đội truy kích địch về tận giáp Mường Sài và Luông Phabăng. Cuộc hành binh Condor hoàn toàn thất bại.

Chú thích:

1. Theo Giêm Gavin (James Gavin), Cục trưởng Cục Tác chiến Mỹ, viết trong cuốn “Cuộc khủng hoảng hiện tại”.

2. Theo Marvin Kalb và Elie Abel trong “Roots of Involvments – The US in Asia”.

3. Theo Chalmers M. Roberts trong bài báo “The Day we didn’t do to War”. Tạp chí Reporter September, số 14/1959, tr. 38.

4. Hồi ký của Eisenhower. Sđd. Tập 1. Tr. 402.

5. Bernard Fall. SĐD. Tr. 411.

6. Bernard Fall. SĐD. Tr. 428.