← Quay lại trang sách

Chương 2

Đỗ Vĩ dừng lại trên bờ con sông nhỏ, đây là con sông chảy ngược từ Đại Việt về phía Trung Quốc. Từ đây chẳng nhìn thấy con đường về cửa quan phân chia hai nước nhưng từ đây Đỗ Vĩ nhùn thấy trạm kiểm soát người qua lại giữa đôi bên. Đây là thời kỳ chiến tranh nên trạm kiểm soát này làm việc rất ngặt nghèo. Chủ yếu đội quân đặc biệt của Trung Doanh do tên Bạt Đô A Rich chỉ huy. Bạt Đô nghĩa là dũng sĩ, là hầu tước vạn hộ được mang thẻ phủ hình con hổ có gắn hạt châu. Thẻ phù của A Rich được gắn hai hạt châu. Y được phái đến thay Mã Lộc đã được mấy ngay nay. Đỗ Vĩ mỗi buổi chiều lại được A Rich gọi đến cho uống rượu. Tiếng là rượu mời nhưng thực ra là rượu tù. A Rich muốn đảm bảo Đỗ Vĩ vẫn có mặt. Có nghĩa là hắn muốn bắt lúc nào cũng được.

Nhưng Đỗ Vĩ vẫn đến các bữa rượu chiều rất hào hao, sảng khoái. Vẫn cười tươi, lúc nào cũng cầm cây quạt nhỏ. Chiều hôm nay, Đỗ Vĩ còn mang đến cây sáo trúc. Anh nói với A Rich để tạ ơn mỗi chiều cho uống rượu, hôm nay Đỗ Vĩ sẽ tặng A Rich một điệu sáo đồng quê của quê anh. Và anh thổi say sưa, điệu sáo thật quyến rũ làm cho A Rich cũng phải mê đắm.

A Rich vẫn xếp cho Đỗ Vĩ một căn nhà nhỏ, nói cho đúng hơn là một cái lều nhỏ lợp tranh của trúc. Nhưng là một căn nhà nom bình yên, lặng lẽ và kín đáo. Nhưng đội vệ binh của A Rich lúc nào cũng có hai tên đứng canh phòng từ xa, dường như không phải canh lều mà là canh con đường đi qua đó. Nhưng Đỗ Vĩ thừa biết những tên này canh mình. Bởi vì chúng không phải là những tên lính thường mà là những võ sĩ võ tuyệt luân. Đỗ Vĩ vào nhà. Anh đi qua trước mặt trên lính canh phòng, còn đưa cho nó một nậm rượu nói là quà tặng. Căn lều đơn sơ chỉ có một cái giường đơn, một cái văn án, một cái ghế. Đỗ Vĩ ngồi xuống ghế và mơ màng. Anh nghĩ lại tám tháng trước đây một buổi chiều mùa thu, anh theo một con thuyền buôn Cao Ly từ cửa biển Phú Sơn xuống Nam và theo Sán Đấu vào sông lớn Trung Quốc. Anh có mang theo thẻ phù của đạo quân Mông Cổ ở Cao Ly cho phép vào Trung Quốc.

… Đỗ Vĩ đã lên Hán Thành, tìm đến nơi đóng quân của đạo quân của Hoa Dương quân. Hoa Dương quân là tước phong của hoàng tử Lý Long Quý, em ruột của thái tử Sảm. Thái tử là chồng của bà Trần Thị Dung, người đàn bà long thao hổ lược của họ Trần, người đã lấy gọn ngai vàng của nhà Lý về cho nhà Trần qua quyền bà vua cuối cùng là con gái bà: Lý Chiêu Hoàng.

Hoàng tử Lý Long Quý qua đời đã lâu, các tướng tùy tùng của ông cũng qua đời đã lâu, chỉ còn hậu duệ của những người ấy. Đỗ Vĩ tìm đến Đàm phủ, tìm con và cháu của Đàm Ông, viên tướng cận vệ thân thuộc của Lý Long Quý, may sao cháu của Đàm Ông có mặt tại Hán Thành. Đây là người mà anh đã mấy lần trao đổi thư từ theo yêu của bố anh. Mà bố anh cũng trao đổi thư từ với con Đàm Ông theo yêu cầu của ông nội anh. Ông nội anh là Trưởng lão phái võ Yên Tử, là Thiết Diện đại sư, Thiết diện đại sư là thầy dạy của Đàm Ôngm theo truyền thống của phái võ thì Đàm Ông và bố anh là anh em, bố anh là sư huynh của Đàm Ông, đấy là viên tướng tùy tùng của thiếu gia Hoa Dương quân, đó là tướng quân Đàm Lĩnh. Đàm Lĩnh nghe tin anh đến vui mừng ra đón tận cửa đưa sư bá vào chính đường mời trà và hỏi han sức khỏe và tình hình đất nước.

Chính kiến dòng Hoa Dương rất rõ ràng: không chung sống với họ Trần, nhưng không để ai làm thiệt hại đến nước Đại Việt. Với quân Nguyên, Hoa Dương đã từng cầm đầu phe chủ chiến chống lại mà chống lại được, nên tước Hoa Dương chính là để thưởng công thắng giặc của ông, tước của ông được tập ấm cha truyền con nối. Bây giờ Hoa Dương đời thứ ba là cháu nội ông.

Đỗ Vĩ và Đàm Lĩnh chuyện trò với nhau thân mật mấy ngày rồi Đàm Lĩnh tiễn Đỗ Vĩ về Sán Đầu. Trước khi lên thuyền lớn vượt biên, Đàm Lĩnh nói với Đỗ Vĩ:

– Ý của sư bá cũng phải. Quân Nguyên là kẻ thù. Dòng họ Đàm tôi lại không thể sống chung với họ Trần. Nhưng để giúp đánh quân Nguyên là nghĩa vụ chung của người Đại Việt. Đồ tôn thiết nghĩ nếu có thể sẽ thu xếp về nước. Còn bây giờ sư bá về Sán Đầu đi theo thuyền buôn này, đây là thuyền buôn của những người có nhiều ân nghĩa với Hoa Dương quân doanh. Họ sẽ bảo vệ để sư bá được an toàn. Riêng đồ tôn có vật này tặng sứ bá, may ra có thể giúp sư bá được phần nào chăng.

Anh ta đưa tặng Đỗ Vĩ một mảnh trúc Thiên Sơn. Đỗ Vĩ reo lên:

– Đây là que tắm ngựa của một tướng Mông Cổ. Làm sao cháu có được?

Mỗi một kỵ sĩ Mông Cô thường có một mảnh trúc Thiên Sơn để làm que gạt mồ hôi ngựa khi tắm cho ngựa. Ai có một mảnh trúc Thiên Sơn thường giữ rất kỹ. Các kị sỹ kiệt xuất của Mông Cổ ai cũng có một mảnh trúc này, họ thường khắc lên đấy những bài thơ, những dấu hiệu. Que trúc này dũng đã lâu, đã mòn vẹt. Mặt cật khắc một cung thủ Mông Cổ đang bắn cung, dưới chân anh ta là một con chó sói lông xám xác xơ.

– Đấy là một trong lần tòng chính ở cao nguyên mé Bắc Tứ Xuyên, đồ tôn đã gặp một tên tướng Mông Cổ, vểt thương bắn trúng cổ nhưng không vào họng, y được đồ tôn chăm sóc cho thuốc dấu, chữa lành vết thương rồi tha cho hắn. Hành hạ một kẻ thù bị thương thì đâu phải là hảo hán. Ngày xưa sư tổ đã dạy thế mà. Cho nên y cảm ơn tặng đồ tôn cái que trúc này. Y còn nói: “Nếu gặp người Mông Cổ thì cứ đưa que trúc này ra sẽ được giúp đỡ.” Đồ tôn cũng chẳng biết giá trị nó đến đâu, cứ đưa nó tặng cho sư bá may ra lại hay.

Đàm Lĩnh chuẩn bị hàng cho một chuyến buôn lớn về Trung Quốc để làm bình phong che mắt thế gian cho Đỗ Vĩ. Anh đã đổ bộ Sán Đầu với một số hàng rất lớn và rất quý gồm da điêu, da cáo, da cáo tuyết, sâm Cao Ly, thục Bắc… Thương nhân Đỗ Vĩ vào Sán Đầu đi sâu vào nội địa đi đến đâu cũng được đón tiếp long trọng…

Một buổi sáng cuối hè, một chiếc kiệu hoa lệ đỗ trước cửa sòng bạc Lư Châu. Đây là sòng bạc lớn nhất ở phía đông sông Dương Tử. Lư Châu ngày xưa là một trung tâm buôn bán giao dịch rất lớn của nhà Nam Tống. Còn bây giờ nó còn bành trướng lên hơn nữa. Vì nó phải làm một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng đó là căn cứ vận tải thủy của An Nam hành doạn. Bộ tư lệnh quân Nguyên tập trung ở đây toàn bộ của cải của cuộc Nam chinh. Thóc gạo, lương ăn của năm mươi vạn lính và phu vận tải trước khi phân phối đi các đạo quân đều phải qua kho chính ở đây. Thuốc men cho đội quân Nam chinh, kể cả thuốc bổ dùng cho các tướng. Những bó tên vận tải từ Bắc Đại Hoàng về cho đúng với vũ khí quen dùng của lính cung thủ Mông Cổ. Quần áo rét, lông thú, chủ yếu là lông hồ li… Vải bố dệt thật dày, sơn để gắn mũi sắ vào các cánh tên, gắn các mũi giáo. Rồi còn nhiều thứ khác nữa, thậm chí có những thứ người ta không thể tưởng tượng được trong chiến tranh thì nó dùng làm gì. Ví dụ lụa cat-sơ-mia mỏng tang như khói hương tưởng chỉ thổi cũng rách, son môi, thuốc bôi hôi nách… Vì nhiều thứ này như vậy cho nên viên tướng chỉ huy cái tổng kho là một tên nho tướng, một tên người Hán đầu hàng phản bội nhà Tống, đã từng dẫn đường cho quân Mông Cổ đuổi bắt tể tướng Văn Thiên Tường, vị trí thức đã đỗ trạng nguyên. Viên tướng chỉ huy khô vốn dĩ ngày xưa đỗ tiến sĩ cùng khóa với Văn Thiên Tường. Hắn là tiến sĩ Triệu Hán Thần. Sau vụ phản loạn bức tử được tể tưởng Văn Thiên Tường và vua Tống, Triệu Hán Thần được cho đổi tên là An Nha cà được phong Vạn Hộ Hầu ba hạt châu. Vạn Hồ Hầu An Nha còn được chọn để quản kho này bởi vì ở đây không cần phải đánh nhau mà cần coi quản không lẫn, không mất, cấp phát đầy đủ đúng vật, đúng người cho người đến lĩnh.

Sáng nay An Nha cũng đang ngồi trong sòng bạc Lư Châu. Như thông lệ, ở đâu có có chiến tranh là ở đó có những ông tướng rất giàu, mặc dù những ông này không ra trận.

An Nha là khách của sòng Lư Châu. Chủ sòng muốn chiều An Nha nên đã định dọn ra một bàn để An Nha đánh tay đôi với dòng. Nhưng An Nha không muốn, y nói: “Ta muốn có không khí đông người ồn ào náo nhiệt tranh nhau từng nước bạc mới thích.”

Và hắn cứ đánh bàn chung với tất cả mọi người. Tất nhiên là những người khác đánh từng lạng bạc, còn hắn, hắn đánh từng đĩnh bạc vàng lớn. Nước bạc đang hăng, An Nha đã thua tới sáu đĩnh. Nhưng hắn coi như không. Với ông tướng chỉ huy tổng kho Lư Châu thì sáu đĩnh vàng là cái quái gì. Chợt hắn thấy ngoài cửa có tiếng xôn xao, chắc có khách. Quả nhiên là có khách. Một người đi vào, dáng thanh tú, ăn vận lịch sự, giàu sang, tay cầm chiếc quạt Nhật. An Nha quan sát: đây chắc không phải thư sinh vì cs thư sinh nào lịch sự giàu sang thế kia. Đây cũng chắc không phải thương nhân vì có thương nhân nào thanh tú nhường ấy. Vị khách mới đến mặc áo bào màu nguyệt bạch, đai lưng đeo một viên ngọc bích to bằng trái trứng. Chỉ trông viên ngọc bích cũng biết nó đáng liên thành.

Ông khách áo bào trăng đưa ra hai viên hồng ngọc cho hồ lì để đổi lấy thẻ. Hai viên ngọc đổi được nắm thẻ, ông ra nói.

– Ta có thói quen chỉ đánh hai tiếng. Được thua cũng thôi.

Cả sòng bạc lặng ngắt như tờ. Ông khách chia nắm thẻ làm hai phần bằng nhau đặt vào cửa đại một phần. An Nha cảm thấy đĩnh vàng của mình đánh vào cửa đại quả thật nhỏ nhoi. Gã hồ lì kêu to: “Mọi người đặt cửa đi.” Cả sòng bạc cũng ngớ người ra, một người đặt cửa bằng một đĩnh vàng, còn một người đặt cửa bằng số thẻ đổi được từ một viên hồng ngọc quý. Vậy thì chẳng nhẽ lại đặt cửa bằng mấy đồng tiền. Cho nên chẳng ai đặt tiếp. Gã hồ lì gào ba lần rồi hô: “Mở này.”

Nước bạc này ra đại, như vậy, An Nha được một đĩnh vàng còn vị khách bào trắng được một số thẻ nữa. Ông ta gộp cả thẻ đặt cửa, thẻ được và số thẻ cong lại đặt tất cả vào cửa tiếng thứ hai. An Nha cũng đánh tiếp cửa đại. Cả sòng bạc lại lặng thinh, sòng bạc mà lặng thinh thì quái đản. Đó vốn là nơi ồn ào hò hét còn hơn chợ vỡ. Thế mà mọi người mồm cứ há ra thở hổn hển. Gã hồ lì cũng khiếp không dám mở chuông. Hắn phải chạy vào gọi chủ sòng ra để hỏi ý. Chủ sòng nói. “Mình mở sòng bạc, khách đến chơi đặt bao nhiêu lí ra là phải bằng lòngm có điều nhiều quá thì ra cũng chẳng thể giam nỗi, chi bằng xin với ông khách thư cho tiếng bạc này.” Hai ông khách bật cười nhìn mặt nhau.

– Đã vậy ta tha cho ngươi, hai đứa ta đánh với nhau tiếng bạc này.

Ông khách mặc áo trắng mời An Nha đặt cửa. An Nha vẫn đặt cửa đại. Vậy là ông khách nhận cửa tiểu. An Nha nói: “Như vậy không công bằng. Số thẻ này gấp nhiều lần đĩnh vàng của ta và chẳng ông cũng đã chọn cửa đại trước.”

Ông khách cười xòa. “Đánh bạc là để tìm cảm giác lạ, được thua có nghĩa gì. Ông cứ đánh cửa đại.” Nước bạc này lại ra đại. Ông khách bào trắng dùng bán xẻng gạt chỗ thẻ sang cho An Nha. “Thế là túc hạ được rồi mà ta đúng như đã định đánh xong hai tiếng bạc.” Nói xong ông khách bào trắng ra cửa. An Nha áy náy không yên theo ra. Thấy ông khách lên kiệu đi về phía bờ sông, An Nha lên ngựa theo. Ngoài sông có quán Anh Hùng nổi tiếng Lư Châu. Đây là một quán rượu cực kỳ lịch sự, món nhắm thật ngon. Mà rượu thì đủ các loại nổi tiếng từ rượu Phần, Trạng nguyên hồng, rượu cúc Vân Nam, rượu đại mạch Đại Lý. Ông khách vào quán Anh Hùng. Tửu vảo xum xoe mời lên gác. Trên này nhìn ra sông Dương Tử thấy một bầu mây nước hữu tình. Đã cuối hạ sang thu trời hơi se lạnh, mây thấp vần vũ bầu trời.

– Một cân Trạng nguyên hồng loại thượng hang, cá chép tươi nướng chả, cua luộc một đĩa. Hẵng thế đã.

Rồi chợt nhìn thấy An Nha cũng bước lên gác. Ông khách bào trắng cúi đầu thi lễ:

– Chúng ta vừa có duyên trên chiếu bạc, bây giờ lại có duyên trên bàn rượu. Không biết tại hạ có vinh dự mời túc hạ cùng ngồi ngắm cảnh mà uống với nhau ba chén rượu chăng?

Bữa rượu hai người rất hợp nhau. Sức uống ngang nhau. Và chăng hai bên vừa uống vừa quan sát ngầm nhau. An Nha tin rằng cái đất Lư Châu này biết mình là ai, còn ông khách áo bào trắng thì thản nhiên như không, nét mặt không đổi sắc dù đã dăm chén rượu cạn rồi. Sông Lư Châu mùa này đang nước cường, thuyên xuôi cũng rất nhiều, còn thuyền biển nhập vào cửa sông chiếc nào cũng chở nặng. Ông khách áo bào trắng giơ quạt chỉ vào con thuyền gỗ lớn:

– Đấy là thuyền của tại hạ. Thuyền mới tới địa giới Lư Châu tối qua. Tại hạ ngồi thuyền từ Cao Ly tới đấy tù chân đã hơn một tuần trăng nên hôm qua tại qua lên bộ, duyên may gặp được túc hạ. Chẳng hay túc hạ làm nghề gì vậy?

An Nha suýt phì cười. Ở cái đất Lư Châu này mà có người không nhận ra ta chăng.

– Tại hạ là người coi quản đất Lư Châu này.

Ông khách áo bào trắng sửng sốt nhìn chằm chằm An Nha:

– Vậy thì tại hạ có lỗi lớn rồi. Tướng quân trấn thủ Lư Châu mà tại hạ không nhận ra. Thất lễ, thất lễ.

Ông khác áo bào trắng đứng vậy vòng tay vái. An Nha xua tay:

– Người không biết là người không có lỗi. Tôi vốn là người đọc sách vì hoàn cảnh là cầm quân chứ một chiêu quyền một chiêu kiếm cũng không biết. Tôi làm tướng vì tôi biết làm tính ghi sổ sách đó thôi.

Ông khách cũng cười:

– Đã vậy hai ta cùng nâng một chén mừng mối tâm giao mới. Nên chăng?

Hai người uống cạn chén rượu, rồi ông khách bào trắng ném chén rượu xuống sông gọi to:

– Tửu bảo, bày tiệc mới. Giang hồ mấy khi gặp nhau bất ngờ như thế này. Tại hạ họ Đỗ tên Vĩ, người Đại Việt.

An Nha kinh ngạc. Tình hình hai nước sắp đánh nhau đến nơi căng như dây cung mà bây giờ có người lớn tiếng nhận là người nước Đại Việt. Y có điên không đây?

– Đỗ tiên sinh không phải ngại. Ta không phải là người khe khắt, dù tiên sinh là người Đại Việt cũng không lo bị bắt.

Cái ông tiên sinh họ Đỗ cũng thản nhiên như không cười lớn:

– Tiên sinh là người của triều Lý.

– Không đâu, tôi đâu có may mắn như vậy. Nhưng ông nội tôi là vệ sĩ của hoàng tử Lý Long Qúy.

– Tiên sinh từ Đại Việt đi?

– Không đâu, tôi từ Cao Ly xuống. Tôi mang hàng xuống phương Nam bán. Thuốc, sâm, da hồ li, đa điêu.

– Thế thì ngay mai chắc lại gặp tiên sinh rồi.

– Tất nhiên rồi, thưa tướng quân, tôi đã được chỉ dẫn một khi thuyền tới Lư Châu tôi sẽ vào trình diện với tướng quân trấn thủ. Xin lỗi ngài, hàn dân này vô lễ dám đánh bạck uống rượu với tướng quân.

– Uống rượu, đánh bạc là hai thứ không có phân biệt trên dưới. Đỗ tiên sinh đừng ngại. Chỉ có một điều tôi muốn hỏi rõ thương nhân như tiên sinh làm sao có đôi tay nuột nà như thế kia?

– Cũng vì hoàn cảnh thôi. Cũng như tướng quân là văn nhân bất đắc dĩ làm tướng quân. Còn tôi là lãng tử làm thương nhân.

Chỉ một khắc canh sau hai người đã chén thù chén tạc như hai người bạn tri kỷ đã lâu đời.