Quyển vở màu đen (2)
Lại còn điều này nữa. Có lần, trong một số báo hay tạp chí, anh đã đọc một bài trong đó, kỳ lạ thay, người ta chứng minh rằng những người Triều Tiên pha dòng máu Nhật vẫn nhờ giải phẫu tạo hình can thiệp để trở nên giống người Triều Tiên hơn. Đấy hiển nhiên là khuynh hướng phục hồi danh dự cho mặt, mà những người đó, muốn gì thì gì, cũng không thể nói rằng họ bị thành kiến chi phối. Nói chung, anh vẫn không thể nào hiểu nổi những điều rất chi là giản dị. Nếu có dịp, thế nào anh cũng phải hỏi người Triều Tiên xem người đó sẽ khuyên anh như thế nào, anh, một kẻ bị mất bộ mặt.
Chẳng bao lâu nữa, anh... anh mệt mỏi vì cuộc đàm thoại với chính mình về bộ mặt, cuộc đàm thoại chẳng đưa anh nhích thêm bước nào tới gần sự giải quyết vấn đề. Nhưng đồng thời, chẳng có nguyên nhân gì đặc biệt khiến anh phải từ bỏ kế hoạch của mình. Anh vùi đầu vào xem xét khía cạnh kỹ thuật của vấn đề.
Đứng về quan điểm kỹ thuật, ngón tay giả cũng là vật rất đáng quan tâm. Càng xem xét kỹ, anh càng sửng sốt về tài nghệ đã vận dụng vào việc làm ra nó. Nó cho biết rất nhiều điều, như một ngón tay bình thường, vẫn còn sống. Căn cứ vào độ căng da, có thể nói đó là ngón tay của người ba mươi tuổi. Móng tay thẳng... những vết lõm ở hai bên... những nếp nhăn sâu ở các khớp... bốn vết khía nhỏ năm thành dày như những khe mang cá mập... Người này hiển nhiên là người làm công việc chân tay nhẹ nhàng.
Thế thì sự kỳ quái của nó là ở chỗ nào?... Sự kỳ quái! Một sự kỳ quái loại đặc biệt - nó không phải là vật sống, cũng không phải là vật chết! Không, rõ ràng không phải vì nó có gì khác vật thực. Có lẽ là vì sự tái hiện quá tỉ mỉ chăng? (Vậy là chiếc mặt nạ của anh cũng như thế thôi)... Như vậy, chính sự ham chuộng hình thức quá đáng dẫn tới kết quả ngược lại: sự xa rời cái thực. Có thể gán cho bộ mặt ý nghĩa lớn, nhưng chỉ sau khi nhìn thấy sự kỳ quái của nó!
Đúng, sự sao chép quá chính xác hóa ra lại kém xác thực, đúng là như vậy. Nhưng lẽ nào có thể quan niệm được việc tái hiện trong ký ức một ngón tay không có hình dạng? Con rắn không có chiều dài, con mèo không có hình khối, tam giác không có góc... Không, những thứ như thế ta không thể gặp được, chừng nào ta chưa bay lên những vì sao xa xăm, nơi có cái đó. Nếu không thì khuôn mặt không có vẻ biểu cảm sẽ chẳng có gì lạ thường. Và cái mà trước đây ta gọi là mặt sẽ không còn là mặt nữa. Với ý nghĩa đó thì cả mặt nạ cũng có quyền tồn tại.
Khi ấy, vấn đề có lẽ là ở tính linh hoạt chăng? Bởi chưng, “hình thức” không có khả năng vận động mà gọi là hình thức thì cũng kỳ. Như ngón tay này chẳng hạn, nó sẽ có vẻ tự nhiên hơn nhiều nếu như nó cử động được. Để xác nhận điều đó, anh cầm lấy ngón tay và làm cho nó cử động. Thực vậy, nó có vẻ tự nhiên hơn nhiều so với khi đặt đứng trên bàn. Vậy thì chẳng việc gì phải lo ngại về chuyện đó. Như vậy ngay từ đầu anh đã quyết định dứt khoát là mặt nạ phải thay đổi được vẻ biểu cảm.
Nhưng vẫn còn một cái gì không ưng ý. Ngón tay có cái gì đáng ghét. Anh bắt đầu so sánh nó với ngón tay mình, tập trung hết sức chú ý, xem xét thật kỹ. Đúng, có khác nhau... Nếu như không phải do vết cắt và khả năng cử động thì... Có thể là cảm giác của da chăng? Một cái gì mà chỉ làn da đang còn sống mới có, cái không thể bắt chước được chỉ bằng màu sắc và hình dạng chúng?...
Ghi chú ngoài lề I - Về cảm giác của biểu bì.
Biểu bì của con người, theo anh quan niệm, được bảo vệ bằng một lớp trong suốt không có sắc tố. Vì vậy cảm giác của da có thể là hiệu ứng sai lạc gây nên bởi những tia phản xạ trên mặt biểu bì và những tia lọt một phần vào trong và phản xạ lần thứ hai bởi lớp da chứa sắc tố. Với mẫu ngón tay này thì không thấy có hiệu ứng tương tự, vì lớp mô phỏng màu sắc tố lại ở ngay bên ngoài.
Về lớp biểu bì trong suốt và những tính chất quang học của nó thì cần hỏi các nhà chuyên môn.
Ghi chú ngoài lề II - Những vấn đề cần nghiên cứu trước tiên.
- Vấn đề độ hư mòn.
- Vấn đề tính mềm mại và đàn hồi.
- Vấn đề ghép nối.
- Vấn đề gắn rìa mặt nạ với mặt.
- Vấn đề thông khí.
- Chọn nguyên mẫu và làm mô hình.
Anh có cảm giác rằng anh viết những ghi chép này càng cẩn thận và tỉ mỉ thì càng làm cho em phát chán và có lẽ em đã thôi không theo dõi câu chuyện anh thuật lại nữa. Nhưng anh vẫn muốn em tạm quên đi trạng thái nội tâm của anh để cảm thấy ít ra là bầu không khí trong đó đã ra đời chiếc mặt nạ do anh tạo tác trong tình cảnh hoàn toàn đơn độc.
Trước hết, nếu nói về lớp biểu bì trong suốt thì đây là cái gọi là kêratin - một loại anbumin tấm chứa một lượng nhỏ các nguyên tố huỳnh quang. Bây giờ nói về cách ghép nối. Nếu làm sao cho bề dày của rìa mặt nạ hết sức mỏng so với độ sâu của những nếp nhăn nhỏ nhất, rồi đặt lên trên chỗ ghép nối một bộ râu giả thì sẽ hoàn toàn thoát khỏi tình thế khó khăn. Tiếp đó, vấn đề tính co giãn là vấn đề anh cho rằng ít phức tạp nhất cũng hoàn toàn có thể giải quyết được nếu xem xét cơ chế của dáng điệu mặt theo quan điểm sinh vật học.
Cơ sở tạo nên vẻ biểu cảm của mặt tất nhiên là hệ cơ tạo điêu mặt. Nó được cố định theo hướng co giãn nhất định. Ngoài ra còn có mô da với những sợi bố trí theo hướng nhất định và sợi tế bào của cả hai loại gần như thẳng góc với nhau. Qua một cuốn sách y học mượn ở thư viện, anh được biết rằng sự bố trí các sợi của da theo cách như vậy có tên là “các đường Langhê”. Nhờ kết hợp hai hướng đó mà có những nếp nhăn đặc trưng, những đường viền đặc trưng. Vì vậy, nếu muốn làm cho mặt nạ sống động thì cần kết hợp các chùm sợi phù hợp với “các đường Langhê”. May thay, một số loại chất dẻo, nếu kéo căng ra theo hướng nhất định thì có tính co giãn rất lớn. Nếu không tiếc thời gian và công sức thì vấn đề đó có thể coi là đã xong.
Lập tức anh quyết định sử dụng phòng thí nghiệm của mình và bắt đầu thí nghiệm về sức giãn của các tế bào biểu mô. Cả trong trường hợp này, các bạn đồng nghiệp của anh cũng tỏ ra tế nhị một cách cảm động. Gần như không gây nên sự chú ý của bất cứ ai, anh có thể sử dụng rộng rãi thiết bị cần thiết.
Duy có việc “chọn nguyên mẫu và làm mô hình” thì anh không muốn chỉ bó hẹp ở các phương tiện kỹ thuật. Bởi vì, để tái hiện những chi tiết nhỏ nhất của da, muốn hay không anh cũng phải mượn một khuôn mặt nào đó. Đối với anh, nguyên mẫu, tức là hình dạng khởi thủy, chỉ có thể là như vậy. Mượn của người khác cố nhiên không chỉ là đeo lên mặt mình bộ mặt của người khác, bởi vì đây chỉ là nói về bề mặt của da tới độ sâu của các tuyến mỡ và mồ hôi, và về sự biến dạng của nó phù hợp với cấu tạo của mặt anh. Ngay từ đầu, không được có mảy may e dè nào về việc anh có ý định vi phạm quyền tác giả của mặt người khác.
Như vậy thì nảy ra một vấn đề hết sức nghiêm trong: cái mặt nạ có phải là mặt anh trước kia, không đổi khác chút gì hay không? Bất cứ người thợ thủ công có kinh nghiệm nào cũng có thể dựa theo sọ mà đắp nặn lại mặt và tái tạo được hình dạng bên ngoài hệt như lúc người ta còn sống. Nếu điều đó phù hợp với hiện thực thì tức là suy cho cùng, hình dạng bên ngoài quyết định khung xương dưới da, vậy thì hoặc là phải đẽo gọt xương hoặc là phải không đếm xỉa gì đến nền tảng giải phẫu của vẻ biểu cảm của mặt (nhưng như vậy thì không thể gọi đó là vẻ biểu cảm của mặt) - ngoài ra không còn cách nào khác lẩn tránh khỏi bộ mặt ta có ngay từ lúc ra đời.
Những ý nghĩ đó khiến anh bối rối. Té ra dù mặt nạ làm khác đến đâu, anh đeo mặt nạ là đeo bản sao chính xác bộ mặt mình, thế thì không thể nói gì đến mặt nạ theo nghĩa đầy đủ của từ đó.
May thay, anh nhớ đến một người bạn học nay là chuyên viên về cổ sinh vật học. Công tác của nhà cổ sinh vật học hẳn là có việc phục hồi hình dạng ban đầu dựa theo các hóa thạch khai quật được. Anh giở quyển địa chỉ và biết anh ta vẫn làm việc ở trường đại học. Anh muốn chỉ nói chuyện qua điện thoại thôi, nhưng có lẽ vì từ sau khi tốt nghiệp phổ thông đến nay thời gian đã quá lâu rồi, hay vì những người nghiên cứu cổ sinh vật học bao giờ cũng giàu lòng yêu người, lẽ tất nhiên là anh ta đề nghị gặp gỡ ở một nơi nào đó và không muốn tiếp tục nói chuyện qua điện thoại. Rốt cuộc anh đồng ý. Anh không từ chối vì thâm tâm anh chống lại cái cảm giác xấu hổ mà anh vẫn cảm thấy đối với khuôn mặt quấn băng của mình. Nhưng liền đó, anh xót xa và ân hận. Cáì thói kiêu hãnh đáng ghét làm sao! Chỉ riêng lớp băng của anh đã gợi nên sự tò mò của anh ta, đã thế kẻ đeo băng này lại bắt đầu dò hỏi cặn kẽ về giải phẫu mặt, về kỹ thuật khôi phục hình dạng ban đầu, mà cái đó lại không phải là chuyên môn của anh ta. Có lẽ anh ta sẽ nghĩ phải chăng trước mắt anh ta là một tên bịp bợm đeo mặt nạ muốn ung dung đi dạo trong thành phố giữa thanh thiên bạch nhật? Nếu quả thật anh ta sẽ nảy ra những nghi ngờ như vậy thì ngay từ đầu nên khước từ việc gặp gỡ là hơn. Thêm nữa anh căm ghét phố xá. Trong bất cứ cái nhìn ái ngại hay dửng dung nào - nếu nó không liên can đến anh thì chắc anh sẽ không cảm thấy - đều có giấu những chiếc kim rỉ tẩm chất độc. Đường phố làm anh kiệt sức. Nhưng bây giờ không rút lời được nữa. Xấu hổ đến rát mặt, anh uể oải đến chỗ hẹn. Chẳng còn cách nào khác.
Tiệm cà phê, nơi hẹn gặp ở góc phố trường đại học, rất quen thuộc với anh, bởi thế không một chút lầm lẫn, anh cho tắc xi dừng ngay sát cửa và như vậy anh đến đấy mà không làm ai để ý. Nhưng người bạn anh bối rối đến nỗi bây giờ anh lại muốn thông cảm với anh ta. Và có lẽ vì thấy điều đó, sự điềm tĩnh trở lại với anh. Không, nói điềm tĩnh là chưa đúng. Anh muốn em hình dung thấy - điều đó chẳng khó gì - anh thảm hại như thế nào, chẳng khác gì con chó hoang, anh cảm thấy bản thân sự tồn tại của anh gây nên sự ghê tởm của tất cả những người có mặt. Một sự cô đơn tuyệt vọng lộ rõ trong mắt con chó già sắp chết. Tình trạng bế tắc vọng lên trong tiếng lanh lảnh của những thanh ray khi người ta sửa đường giữa đêm hôm khuya khoắt. Toàn thân anh tê cứng vì hiểu rằng dù anh tạo cho bộ mặt ẩn dưới lớp băng và cặp kiếng râm vẻ biểu cảm như thế nào thì người nói chuyện với anh cũng không nhìn thấy.
- Sao, sợ à? - Cảm thấy tâm trạng của anh bạn, anh nói bằng giọng khác, mơn trớn như làn gió thoảng ban đêm - Tôi làm đổ không khí lỏng vào mặt. Có lẽ thể trạng tôi dễ bị sẹo lồi... Đúng, nói chung là tệ hại... Khắp mặt nham nhở như có những con đỉa đục lỗ làm tổ. Băng mặt không phải là lối thoát, nhưng còn hơn phơi ra cho cả thiên hạ nhìn thấy...
Người nói chuyện với anh lí nhí câu gì với vẻ bối rối, nhưng anh không nghe rõ. Cách đấy nửa giờ, đã mấy lần, bằng giọng hào hứng, anh ta đề nghị anh cùng với anh ta đến một nơi nào đó uống rượu vang, bây giờ lời đề nghị đó như cái xương cá mắc trong họng anh ta. Nhưng anh không có ý định chọc tức anh ta, vì thế anh mau chóng đổi đề tài câu chuyện và chuyển sang bàn việc thiết thực. Cố nhiên, anh bạn anh lập tức nhảy vào chiếc thuyền cấp cứu đó. Sự giải thích của anh ta chung quy là như sau: Thực là phóng đại quá đáng nếu cho rằng người thợ giàu kinh nghiêm có thể dựng lại hình dạng ban đầu tới từng chi tiết cực nhỏ. Sự phân bố đại cương của các cơ, đây là điều anh ta có thể hình dung khá rõ, xuất phát từ cấu tạo giải phẫu của bộ xương. Bởi vậy, giả dụ dựa vào bộ xương mà dựng lại dù chỉ là cấu tạo của một động vật như cá voi, loại động vật có tổ chức dưới da và lớp mỡ đặc biệt phát triển thì sẽ được một cái gì không thể tưởng tượng nổi, chẳng giống một sinh vật nào, một cái gì pha trộn giữa chó và hải cẩu.
- Như vậy có thể hình dung rằng khi khôi phục lại mặt tất không tránh khỏi những sai lầm căn bản chứ gì?
- Nếu như khôi phục lại hình dạng ban đầu không sai chút nào là việc có thể làm được thì sẽ không còn có những bộ xương không rõ nguồn gốc. Mặt người cố nhiên không phải là con cá voi, nhưng khôi phục lại nó cũng khá phức tạp. Ở đây không thể làm đồ giả như ghép ảnh chẳng hạn. Nếu như không thể xa rời bộ xương thì trước hết sẽ không có phẫu thuật tạo hình có tính chất mỹ dung...
Đến đây anh ta đưa mắt lướt nhanh trên đám băng của anh, ấp úng như ngượng ngùng và im bặt. Không nên hỏi, để khỏi ngăn cản anh ta nói tiếp. Mặc cho anh ta muốn nghĩ gì thì nghĩ. Anh chẳng quan tâm đến điều đó, bởi vì anh ta không che giấu sự ngượng ngập, thậm chí không tìm cách thanh minh, cứ cau có ngồi im, mặt đỏ bừng.
Past scriptum. Thực chất của sự xấu hổ là gì? Ở đây một lần nữa có lẽ nên nhớ tới câu chuyện bộ tóc giả bị đốt. Lúc này mọi việc đều trái hẳn lại: người ta phát hiện ra anh mang tóc giả, còn anh khiến người nói chuyện với mình phải đỏ mặt. Nhưng có đáng băn khoăn quá đáng về chuyện ấy không? Ngộ nhỡ chính ở đây ẩn giấu chiếc chìa khóa kỳ diệu giúp khám phá câu đố về bộ mặt thì sao?
Tuy nhiên, anh ta ngượng ngập biết bao. Anh đã cố ý chọn một đề tài vô thưởng vô phạt và anh không thể giúp được gì khi anh ta tự xộc vào chỗ không nên vào và đỏ mặt lên. Về căn bản, anh đã dò hỏi được tất cả những gì cần thiết cho kế hoạch của anh, còn một lớp cặn như thế nào sẽ đọng lại sau cuộc gặp gỡ giữa anh và anh ta thì anh chẳng bận tâm. Nhưng cái gây nên cảm giác xấu hổ thường là nguồn sinh ra chuyện đơm đặt. Mà anh không thể chịu đựng nổi tình trạng người ta kể một câu chuyện với vẻ mặt như thể cho biết điều gì nhìn được qua lỗ khóa. Ngoài ra, sự sượng sùng của người nói chuyện với anh dần dần truyền sang anh. Rốt cuộc, với cảm giác ghê tởm, tự dưng anh bắt đầu thanh minh, mà đó là điều tuyệt không nên lầm.
- Lúc này anh đang nghĩ gì, đại khái là tôi hình dung được. Bởi vì nếu tìm mối liên hệ giữa những dải băng này và những câu hỏi của tôi thì có thể hiểu rõ hết. Nhưng tôi báo trước, anh lầm to. Tôi không còn ở cái tuổi đau khổ vì mặt bị hủy hoại...
- Chính anh lầm thì có. Không nên gán cho tôi những ý nghĩ mà tôi không có.
- Nếu tôi lầm thì tốt quá. Nhưng có lẽ vô tình anh vẫn trông mặt mà bắt hình dong đó thôi. Đúng không nào? Lẽ tự nhiên anh hết sức quan tâm đến tình cảnh của tôi. Nhưng nghĩ cho kỹ thì chứng minh thư hoàn toàn không đủ để chứng nhận về con người. Sau sự việc xảy ra với tôi, tôi phải suy nghĩ lại nhiều điều. Phải chăng chúng ta đã quá ham chuộng những chứng minh thư đó? Phải chăng vì thế mà luôn luôn xuất hiện những kẻ tàn phế làm những trò giả mạo và đồ giả?
- Đồng ý, hoàn toàn... Giả mạo chẳng ích gì, tuyệt không... Trong số những phụ nữ son phấn quá lòe loẹt nghe bảo có nhiều người bị ixtêri...
- Nhưng mặt khác, lẽ nào có thể hình dung được mặt người nếu đấy chỉ là quả trứng trơn nhẵn không mắt, không mũi, không miệng?...
- Phải, như thế thì không thể phân biệt được người này với người kia.
- Kẻ cắp với cảnh sát... Kẻ phạm tội với nạn nhân...
- Và vợ mình với vợ người hàng xóm... - Dường như bám lấy chiếc phao cứu, anh ta châm thuốc hút và cất tiếng cười khe khẽ - Cái đó hay lắm. Hay, nhưng đồng thời lại nảy ra một số vấn đề. Chẳng hạn, cuộc sống do đó sẽ trở nên tiện lợi hơn hay trái lại, bất tiện hơn?...
Anh cũng cười với anh ta và thấy rõ rằng cuộc nói chuyện cần chấm dứt ở đấy. Nhưng anh bỗng bị lôi cuốn bởi cái vòng tuần hoàn mà trung tâm là bộ mặt và đến đây phanh hãm trở nên vô hiệu. Chừng nào lực ly tâm chưa giật sợi thừng ra khỏi tay anh, anh vẫn ý thức rất rõ mối nguy hiểm mà vẫn tiếp tục quay. Không lầm thế nào được.
- Chẳng tiện hơn mà cũng chẳng bất tiện hơn. Không thể có câu trả lời đơn nghĩa cho câu hỏi đó, dù là về mặt logic đơn thuần. Một khi đã không còn mâu thuẫn thì cũng không thể có sự so sánh được nữa.
- Nhưng mâu thuẫn biến mất có nghĩa là suy bại.
- Sao, thế anh cần mâu thuẫn lắm ư? Chẳng lẽ có thể khẳng định rằng sự khác màu da đem lại lợi ích gì đó cho lịch sử? Tôi tuyệt nhiên không cho rằng những mâu thuẫn loại đó có ý nghĩa gì.
- Ồ - ồ, tôi thấy anh bắt đầu bàn luận vấn đề dân tộc rồi. Nhưng anh hiểu nó quá rộng.
- Nếu có thể được, tôi muốn mở rộng vấn đề hơn nữa kia, tôi muốn mở rộng nó tới từng bộ mặt riêng biệt hiện có trên thế giới này... Khốn nỗi, với cái mặt như thế này, càng nói nhiều thì nghe càng giống khúc ca đơn điệu của tên phạm tội chứng minh sự vô tội của mình.
- Nếu anh cho phép chỉ đề cập tới vấn đề dân tộc... Có lẽ như thế là lầm: trút ráo cả trách nhiệm cho bộ mặt...
- Thế thì tôi lại muốn hỏi câu này: tại sao khi chúng ta bắt đầu tưởng tượng về người ở các thế giới khác thì trước hết ta lại thử hình dung ra dáng hình bên ngoài của họ?
- Cuộc chuyện trò này sẽ dẫn chúng ta đi quá xa... - Và anh ta dúi điếu thuốc mới rít có ba hơi vào cái gạt tàn - Để chấm dứt câu chuyện, ta sẽ giải thích đó là do tò mò.
Anh cảm thấy một cách nhạy bén tới mức đau đớn giọng nói đột nhiên đổi khác của người đối thoại, và bộ mặt giả của anh văng ra, lăn đi đâu không rõ, như cái đĩa rơi xuống khi người diễn viên tung hứng ngừng quay đĩa.
- Khoan, hãy nhìn bức tranh kia. Anh lại chẳng học được gì cả. Và anh đưa ngón tay trỏ cái phiên bản khá dễ coi của bức chân dung thời Phục hưng: - Anh sẽ nói gì về nó?
- Tôi thấy anh sẵn sàng chích nọc vào tôi nếu tôi trả lời bộp chộp. Nói chung đấy là một khuôn mặt khá đần độn.
- Ồ, có lẽ đúng thế. Nhưng còn vầng hào quang trên đầu? Cái đó cũng chứa đựng một ý nhất định. Cái ý tưởng về sự dối trá lừa lọc. Nhờ đó bộ mặt chìm trong sự dối trá...
Trên mặt người nói chuyện với anh thoáng hiện một nụ cười. Nụ cười tinh tế, thấu hiểu hết, lúc này không vương một chút bối rối.
- Tôi thật là vô tích sự. Mặc dù lời lẽ của anh hết sức cao cả, tôi vẫn không sao hiểu nổi, chừng nào tự tôi chưa thấy rõ hết mọi khía cạnh. Có lẽ chúng ta không tìm được tiếng nói chung chăng? Tôi làm công việc khai quật, nhưng khi nói về nghệ thuật thì tôi là người theo chủ nghĩa môđec.
Than phiền thật vô nghĩa. Tốt hơn hết là mau chóng quen với những điều đã nghe được ở anh bạn. Chờ đợi những kết quả rõ rệt hơn tức là tự phỉnh nịnh mình. Bởi vì, ngoài những cái khác ra, anh đã có được thông tin cần thiết, còn khắc phục sự hạ mình thực ra cũng là mục đích của anh, cũng nằm trong kế hoạch dự định.
Nhưng anh căm ghét cổ sinh vật học tới tận đáy lòng chỉ khi anh đã hiểu rằng, cái mà anh tưởng là vật kiếm được và tha về nhà thực ra là cái mồi nhử không ăn được. Không, không hẳn là không ăn được, chẳng qua là không ai biết cách để chế biến: nó gọi thêm, nhưng không thể nào ăn nổi.
Thừa nhận tính hợp quy luật của tình trạng có vô số khác biệt khi khôi phục hình dạng theo cùng một bộ xương là một bước nữa trên con đường tiến tới khả năng chế tạo mặt nạ. Như vậy là bất chấp nền tảng, có thể chọn bất cứ bộ mặt nào theo ý mình. Chọn theo ý thích của mình thật là dễ chịu, nhưng dù sao cũng vẫn phải chọn, cần lọc qua mạng sàng vô số khả năng và quyết định khuôn mặt duy nhất nào sẽ là mặt anh. Lấy đơn vị đo lường nào khi cân nhắc các bộ mặt?
Anh không có ý định gán cho bộ mặt một ý nghĩa đặc biệt, khác thường, vì thế với anh thì bộ mặt nào cũng thế thôi... Nhưng khi người ta làm riêng một bộ mặt thì chẳng ai muốn nó hum húp như mặt người đau tim. Cố nhiên cũng không cần lấy một diễn viên điện ảnh làm mẫu.
Mặt lý tưởng, dù chỉ mong muốn cái đó cũng đã là chuyện vô nghĩa rồi. Vả lại nói chung, không có cái như thế. Nhưng bởi vì anh cần lựa chọn, nên cần một cái gì làm chuẩn. Có một cái làm chuẩn, dù là rất không thích hợp và có thể sẽ đặt anh vào tình thế khó khăn đi nữa thì cũng vẫn là đã có một cái gì... cả về mặt chủ quan cũng như khách quan, không thể hình dung ra một cái chuẩn như thế. Nhưng rốt cuộc, sau chừng nửa năm lầm lạc, cuối cùng anh đã tìm ra giải pháp.
Ghi chú ngoài lề. Thực không đúng nếu đổ tất cả là do thiếu một chuẩn mẫu rõ ràng. Đúng hơn, nếu tính đến khuynh hướng nội tâm của anh muốn khước từ bất cứ chuẩn mẫu nào. Chọn chuẩn mẫu tức nhiên có nghĩa là làm cho mình giống với người khác. Nhưng con người đồng thời cũng mong muốn điều ngược lại - khác với người khác. Hai vấn đề đó phải có mối tương quan như sau:
A/B = F(1/n)
Ở đây, A là lượng biểu thị ý chí của người khác. B là sức đề kháng chống lại ý chí của người khác, n là tuổi, F là mức độ thích ứng. (Chẳng hạn, mức độ thích ứng thấp nghĩa là con người tự khẳng định, đồng thời khuynh hướng bảo thủ của người đó tăng lên. Thông thường, mức độ thích ứng tỷ lệ nghịch với tuổi, nhưng cũng có những sai lệch đáng kể đối với từng cá nhân, đường cong biểu thị những sai lệch đó tùy thuộc vào giới tính, tính cách, nghề nghiệp v.v...).
Chỉ riêng tuổi của anh cũng khiến cho độ thích ứng giảm sút đáng kể, vì thế anh cảm thấy có khuynh hướng chống đối mạnh mẽ chính ý định thay đổi bộ mặt. Cần nói rằng quan điểm của nhà cổ sinh vật học nọ hoàn toàn đúng với trường hợp này: anh ta cho rằng những phụ nữ son phấn quá lòe loẹt là những người mắc chứng ixtêri. Bởi vì theo phân tâm học, ixtêri là một dạng lẩn thẩn.
Cố nhiên anh không ngồi khoanh tay suốt thời gian đó... Anh lao vào những thí nghiệm về vật liệu làm biểu mô trơn. Chỉ cần vùi đầu vào những thí nghiệm đó là chúng trở thành cái cớ rất tốt để đẩy lùi cuộc đối chất của anh với vấn đề. Nói chung, anh đã gom góp được hàng núi tài liệu kỹ thuật.
Biểu mô trơn đòi hỏi rất nhiều thời gian, chứ không như anh tưởng, cả về mặt số lượng, nó chiếm một vị trí đáng kể trong da và ngoài ra, nó quyết định sự thành bại trong việc tạo được cảm giác về da có khả năng vận động. Lợi dụng sự tế nhị của các bạn đồng nghiệp cùng phòng thí nghiệm, bất chấp mọi điều, anh bắt đầu sử dụng các thiết bị và vật liệu, ấy thế mà công việc thí nghiệm vẫn lấy đứt mất trọn ba tháng. Hồi ấy dù sao anh cũng không lo ngại chi lắm về cái mâu thuẫn hơi tức cười: anh thực hiện kế hoạch làm mặt nạ mà lại không quyết định dứt khoát bộ mặt sẽ như thế nào. Nhưng không thể cứ trú mưa vô hạn định dưới mái che nhà người khác. Khi thời kỳ đó chấm dứt và công việc bắt đầu tương đối có kết quả, anh sẽ lâm vào ngõ cụt.
Để tạo lớp kêratin của biểu bì thì nhựa acrilic rất thích hợp - điều đó anh khám phá ra ngay. Còn về các lớp trong của da thì có lẽ hoàn toàn có thể dùng vẫn loại vật liệu dùng làm biểu mô, bằng cách cho nó sủi bọt. Lớp mỡ chắc chắn sẽ đáp ứng mọi đòi hỏi cần thiết nếu như vẫn với loại vật liệu ấy ta thêm vào đó dung dịch silic, tạo nên lớp màng bọc, làm cho nó không thâm nước. Rốt cuộc, sang tuần thứ hai của năm mới, toàn bộ công việc chuẩn bị cần thiết liên quan đến vật liệu đã xong xuôi.
Không thể trì hoãn lâu hơn nữa. Nếu không giải quyết vấn đề bộ mặt sẽ như thế nào thì không thể nhích lên lấy một bước. Nhưng mặc dù anh suy nghĩ rất lung, giải pháp vẫn không đến - đầu óc anh lộn xộn như trong kho nhà bảo tàng, chồng chất vô số bộ mặt rất khác nhau. Nhưng tránh né vấn đề thì không thể giải quyết nó được. Không còn cách nào khác ngoài việc dũng cảm điểm từng bộ mặt một, vì thế anh kiếm lấy tập phiếu của kho bảo tàng. Ngay trên trang đầu có một chỉ dẫn dễ mến lạ thường “các quy tắc hệ thống hóa”, và anh nén xúc động, đọc:
1. Các tiêu chuẩn đánh giá bộ mặt hết sức khách quan. Tuyệt đối không nên phạm một sai lầm như thế này: do ấn tượng chủ quan nên không cố tìm cho được bản gốc.
2. Không có tiêu chuẩn nào để đánh giá bộ mặt! Bộ mặt chỉ có thể làm cho ta hài lòng hoặc không hài lòng. Tiêu chuẩn chọn lựa phải được đề ra bằng cách trau dồi thị hiếu.
Đúng như anh chờ đợi. Người ta khẳng định rằng đen đồng thời là trắng. Khuyên như thế thà đừng khuyên còn hơn. Vậy mà khi so sánh hai quy tắc đó, anh có cảm giác rằng cả hai đều có lý như nhau, vì thế tình hình càng rắc rối hơn. Cuối cùng, anh rối ruột vì ý nghĩ rằng trên đời này có biết bao nhiêu bộ mặt hết sức khác nhau. Thế mà cho đến giờ anh vẫn cứ nát óc suy nghĩ, tại sao anh không từ bỏ hắn kế hoạch của mình?
Lại bàn về hội họa chân dung. Nhà cổ sinh vật học có lẽ sẽ ban cho anh nụ cười chua cay, nhưng anh không thể không đề cập đến chuyện đó. Theo anh nghĩ, ý tưởng về chân dung, chưa nói đến mặt nghệ thuật của nó, có một triết lý đáng cho ta suy nghĩ.
Chẳng hạn, muốn chân dung tái hiện được một hình ảnh phổ quát, cần xuất phát từ tính phổ quát của vẻ mặt người. Như vậy, cần làm sao cho đa số mọi người tin chắc rằng vẻ biểu hiện như nhau giả định một hình ảnh như nhau. Hiển nhiên là niềm tin như thế được duy trì nhờ kinh nghiệm, do hiểu rằng mặt và tâm hồn ở trong mối quan hệ lẫn nhau hoàn toàn xác định, cố nhiên không có gì đảm bảo rằng kinh nghiêm bao giờ cũng đúng. Nhưng cũng không thể khẳng định rằng kinh nghiệm thông thường là một cục dối trá. Phải chăng thích đáng hơn là nên cho rằng kinh nghiệm càng lem luốc vì bị những bàn tay bẩn sờ vào thì thường thường số phần trăm chân lý chứa trong đó càng nhiều hơn. Hiểu theo ý nghĩa đó thì nói chung không còn phải bàn cãi gì về lời khẳng định rằng có tiêu chuẩn khách quan của giá trị.
Mặt khác, cũng không thể không biết đến một sự thật là nền hội họa chân dung qua nhiều thế kỷ đã thay đổi tính chất của mình: nó chuyển, dịch quan điểm từ sự hài hòa cổ điển của mặt và tâm hồn tới vẻ biểu cảm cá biệt, đúng hơn là thiếu sự hài hòa đó, thâm chí đi tới sự phá hoại triệt để như trong những bộ mặt hình bát giác của Picatxô hay “Bộ mặt giả” của Klêê.
Vậy thì tin ở cái gì được? Nếu người ta hỏi anh riêng anh muốn như thế nào thì cố nhiên anh dừng lại ở quan điểm sau. Anh cho rằng để ra cho mặt những tiêu chuẩn khách quan nào đó thì thật quá ngây thơ - đấy không phải là cuộc triển lãm chó. Ngay thuở bé anh cũng đã từng liên hệ cái cá tính lý tưởng mà anh muốn hình thành cho mình với một bộ mặt nhất định.
Ghi chú ngoài lề: Sức đề kháng cao có được là nhờ độ thích ứng cao.
Lẽ tự nhiên, diện mạo lãng mạn, xuất chúng hội tụ trong trí tưởng tượng của anh qua cái thấu kính sương mù. Nhưng anh không được phép mãi mãi đắm trong giấc mơ đầy lạc thú. Tiền mặt quý hơn bất cứ kỳ phiếu nào. Không còn cách nào khác, ngoài việc chỉ trả cho cái mà anh có thể trả bằng bộ mặt mà anh thực có. Có lẽ đàn ông tránh mỹ dung, chống lại khuynh hướng trút trách nhiệm về bộ mặt của mình. (Cố nhiên phụ nữ... Thuật mỹ dung của phụ nữ... Nghĩ cho kỹ phải chăng họ dùng đến thuật mỹ dung là vì họ bí tiền mặt?...)
Vậy là anh chẳng đi đến một quyết định nào cả. Vì anh cảm thấy một cái gì bấp bênh, dường như trước một cơn cảm lạnh... Nhưng mọi khó khăn của anh chỉ gắn với diện mạo bên ngoài, bởi vậy anh vẫn tiếp tục ra sức một mình nghiên cứu các vấn đề kỹ thuật liên quan đến các phần khác của mặt nạ. Tuy anh đã nói rằng người ta dành cho anh mọi khả năng, song ở phòng thí nghiệm, anh không muốn đi quá xa trong công việc của mình, nên anh quyết định chuyển mọi thiết bị cần thiết về nhà và đặt trong phòng làm việc. (Còn em, hình như em tưởng rằng sự hăm hở của anh trong công việc là một cách bù đắp cho vết thương trên mặt, và em ứa nước mắt, tìm cách giúp đỡ anh. Cố nhiên đó là sự bù đắp, nhưng còn sự hăm hở không phải là cái hăm hở như em tưởng đâu. Anh đóng cửa phòng làm việc, thậm chí khóa cửa lại, khước từ cả lòng tốt của em khi em có ý định đem bữa ăn tối đến cho anh).
Công việc mà anh vùi đầu vào làm sau cánh cửa đóng kín là như thế này.
Trước hết anh làm một cái chậu có kích thước đủ để nhúng cả mặt vào, đổ vào đó dung dịch anginat kali, thạch cao, fôxfat natri và silic, rồi thả lỏng cơ mặt, chầm chậm nhúng mặt vào chậu. Dung dịch ngưng kết lại trong vòng hai ba phút. Trong khoảng thời gian ấy, anh không thở được, vì vậy anh ngậm trong miệng một ống cao su nhỏ, đầu ống để ra ngoài chậu. Em hãy tưởng tượng trong vòng mấy phút em phải ngồi bất động trước máy ảnh, vẻ mặt không thay đổi. Điều đó khó vô cùng. Sau vô số thất bại - khi thì ngứa mũi, khi thì nháy mắt - đến ngày thứ tư, rốt cuộc anh đã đạt được kết quả thỏa đáng.
Bây giờ đến việc phủ một lớp kền lên cái khuôn đã có được và thực hiện điều đó trong chân không. Không thể làm ở nhà được. Anh bí mật đem nó vào phòng thí nghiệm và trốn tránh con mắt người ngoài, làm tất cả công việc cần thiết.
Cuối cùng chỉ còn một số việc cần làm nốt. Đêm hôm ấy, biết chắc là em đã đi ngủ, anh đặt cái xoong sắt có chì và antimon lên cái bếp hơi xách tay. Antimon nóng chảy có màu ca cao pha quá nhiều sữa. Khi anh bắt đầu thận trọng đổ dung dịch vào khuôn thì những giọt hơi màu trắng chầm chậm nổi lên trên. Từ cái lỗ do cái ống cao su mà anh thở để lại, rồi từ khắp mọi chỗ dọc theo rìa khuôn, khói màu da trời trong suốt tỏa ra nghi ngút. Có lẽ là axit cháy. Mùi thật kinh tởm, anh mở cửa sổ. Gió tháng giêng giá buốt như những móng tay cấu vào mũi. Anh lật cái khuôn, lấy rời ra bản đúc bằng antimon đã cứng lại và làm lạnh cái khuôn còn bốc khói bằng cách nhúng nó vào chậu nước. Từ trên bàn, cụm đỉa lấp lánh ánh bạc mờ đục nhìn cái tổ đỉa màu đỏ máu trên mặt anh.
Nhưng dù sao vẫn không thể tin được đây là mặt anh. Bộ mặt khác... hoàn toàn khác... Anh không thể tin được rằng đấy là những con đỉa mà nhờ chiếc gương, đã trở nên quen thuộc đến ghê tởm đối với anh... Cố nhiên, bản sao antimon đó của khuôn mặt và hình anh trong gương thì mặt trái và mặt phải đổi chỗ cho nhau, bởi vậy giữa chúng có sự khác nhau nhất định. Tuy nhiên sự khác nhau như thế, có thể quan sát thấy tùy thích nhờ ảnh chụp, cho nên cái đó chẳng lấy gì làm quan trọng cho lắm.
Rồi đến vấn đề màu chứ gì? Qua cuốn “Bộ mặt” của Hăng ri Blăng, một bác sĩ người Pháp, cuốn sách mà anh tìm thấy trong thư viện, thì giữa màu của mặt và vẻ mặt có mối liên hệ chặt chẽ hơn ta tưởng rất nhiều. Chẳng hạn, cái khuôn mặt đúc bằng thạch cao làm sau khi con người qua đời, chỉ cần tạo cho nó màu này hoặc màu nọ là nó có thể biến thành mặt đàn ông hay mặt đàn bà. Có thể thấy điều đó nhờ một dẫn chứng như thế này: chỉ cần chụp ảnh đen trắng một người đàn ông cải trang phụ nữ là lập tức sự cải trang bị đoán nhận ra. Như vậy toàn bộ vấn đề quả thực là ở màu. Những chỗ hơi dầy lên ở bản đúc bằng antimon, nếu không bị ánh sáng rọi vào thì không phát hiện ra được... Những chỗ sần sùi tí chút có lẽ không đáng gây nên những lo lắng về chiếc mặt nạ... Có một lúc thậm chí anh nghĩ rằng phải chăng anh tránh né một bóng ma, phải chăng anh chiến đấu với một kẻ thù do trí tưởng tượng của anh tạo nên. Nhưng có lẽ nếu nhuộm màu thịt đỏ máu cho ngay cả những búi đỉa kim loại đó thì chúng sẽ bộc lộ tức thời sự quái gở của chúng. Có thể như thế. Rất tiếc con người ta không phải bằng kim loại.
Nhưng nếu như màu quan trọng đến như thế thì khi tạo hình dứt khoát cho mặt nạ, cần đặc biệt chú ý đến việc tạo màu. Như một người mù vui sướng với bất cứ cảm giác nào, trong lúc trìu mến vuốt ve bản đúc antimon vẫn còn giữ được chút hơi ấm, anh cảm thấy một cách sắc bén con đường chế tạo mặt nạ gai góc biết bao, làm xong một việc thì lập tức nảy ra khó khăn mới. Quả thực là anh mưu tính một sự thách thức táo tợn. Nếu như nói về khối lương công việc đã làm và thời gian đã sử dụng thì đáng ra anh phải đi rất xa, nhưng cũng nên nghĩ đến sự thể là cho đến nay anh vẫn chưa bắt tay vào công việc chính - chọn nguyên mẫu. Thêm vào đó lại nảy ra một khó khăn mới: màu. Liệu rồi đây anh có thực hiện được mơ ước của mình hay không - bắt đầu một cuộc đời mới dưới hình dạng một người khác?...
Cố nhiên, không phải chỉ có những dấu hiệu không tốt. Tưởng tượng mình đi lang thang giữa các nếp uốn của những con đỉa kim toại, anh nghĩ về việc bộ mặt có vai trò lố lăng biết bao; vì những chỗ dày lên có mấy milimét mà con người phải chịu đựng sự xua đuổi như một con chó hoang ghẻ lở, và đột nhiên, như thể tấm khăn che mắt bỗng rơi xuống, anh phát hiện ra chỗ yếu của kẻ thù đầu sỏ của anh.
Những con đỉa kim loại ấy tự bản thân nó chỉ có thể tồn tại dưới hình thức bản âm để tạo nên mặt trong của mặt nạ. Nói cách khác, đấy là sự tồn tại âm phải được che lấp và hủy bỏ nhờ mặt nạ. Nhưng chỉ thế thôi ư? Đúng, sự tồn tại âm, đấy là điều hiển nhiên. Nhưng nếu không lấy nó làm cơ sở thì cũng không thể có cả cái mặt nạ có nhiệm vụ xóa bỏ nó. Vậy, cái nền tảng kim loại là mục tiêu mà mặt nạ phải xóa bỏ, đồng thời là điểm xuất phát để tạo nên mặt nạ.
Ta hãy hình dung vấn đề cụ thể hơn một chút. Chẳng hạn nếu nói về mắt thì chỉ còn có việc sử dụng chúng, không thay đổi vị trí hình dạng cũng như độ lớn của chúng. Nhưng giả sử anh cả gan động đến chúng, khi ấy thì lấy vị trí của mắt làm giới hạn, anh phải làm cho trán nằm ở phía trên giới hạn đó nhô ra, hay trái lại, chỉ làm cho phần mặt ở dưới giới hạn đó trồi lên, nếu không làm cả hai việc đó thì có lẽ phải là mắt lồi ra và mặt nhô hẳn về phía trước chăng? Chỉ có những giải pháp ấy là có thể chấp nhận được. Cũng có thể nói như thế khi sự việc liên can đến mũi hay miệng. Khi đó việc chọn kiểu mặt không còn mập mờ lắm nữa. Sự hạn chế chăng? Có lẽ đúng là sự hạn chế. Nhưng theo ý anh, cái đó tốt hơn nhiều so với cái tự do hão huyền rẻ tiền. Dù sao nó vạch rõ cái đích mà anh phải đạt tới. Cho dù anh sẽ phải đi đường vòng qua những lệch lạc và sai lầm thì khởi đầu tốt hơn hết là thực sự làm mô hình bộ mặt và trong khi sửa cho nó sát với nguyên tác, nghiên cứu xem kiểu nào có thể lấy được. Đối với anh đấy là con đường thích hợp nhất. (Không phải là nhà bác học, mà chỉ là một nhân viên kỹ thuật, - các bạn đồng nghiệp nhận xét về anh như thế, và có lẽ họ nhận định có phần đúng).
Đặt một ngón tay vào những phần khác nhau của cái cốt kim loại, dùng hai tay che sáng để hắt bóng tối lên nó, tự dưng anh buông thả mình theo những mơ ước. Dù sao, đây là một vật tinh vi... Chỉ cần chạm ngón tay vào, thế là đã thành một người khác, mà không phải là anh em hay anh em họ... Đặt bàn tay lên, thế là thành một người hoàn toàn không quen biết... Từ khi anh bắt tay vào việc chế tạo mặt nạ, có lẽ đây là lần đầu tiên anh có tâm trạng hào hứng, hăng hái như thế.
... Đúng, có thể mạnh dạn nói rằng điều mà anh cảm thấy đêm hôm ấy là cái đỉnh rất quan trọng của toàn bộ công việc của anh. Nó không dốc lắm, không phải là cái đỉnh cao uy nghi, nhưng anh cho rằng nó là điểm nhỏ của địa hình, tạo hướng đi nhất định cho luồng nước chảy ra từ nguồn, nói chung có đủ uy lực để hướng dòng chảy, sở dĩ như vậy là vì từ lúc ấy, giữa vấn đề tiêu chuẩn chọn bộ mặt và vấn đề thực thi kế hoạch về mặt kỹ thuật mà trước đó vẫn như hai đường song song thì nay thực sự đã có một cái gì tương tự như con kênh phác họa lờ mờ nối chúng với nhau. Bản sao antimon của mặt, tuy không đem lại triển vọng nào theo nghĩa chế tạo mặt nạ, nhưng nó khích lệ anh, gieo cho anh niềm tin rằng nhờ công việc cụ thể hết ngày này sang ngày khác, những khả năng của anh sẽ ngày càng mở rộng.
Anh quyết định hôm sau mua đất sét và bắt đầu thực tập làm mô hình mặt. Anh không có mục đích rõ ràng, vì thế anh đi mò mẫm lần tới đích. Bằng cách đối chiếu với tập atlat giải phẫu của các hệ cơ điệu mặt, anh đắp lớp đất sét mỏng này chồng lên lớp khác. Công việc căng thẳng kinh khủng, tưởng như anh tham gia vào quá trình phát triển phôi của con người, dường như tiêu chuẩn lựa chọn mà nói chung anh không thể nào nắm bắt được bắt đầu đông cứng lại như giêlatin đang nguội dần, với cảm giác như thế anh dần dần tạo hình dạng cho thứ vật liệu dễ sai khiến. Có những thám tử thiên tài ngồi trong ghế bành mà tìm kẻ phạm tội, cũng có những thám tử tầm thường không tiếc chân chạy đi săn đuổi chứng cứ. Anh thích nhất là hành động bằng tay.
Đúng vào thời gian ấy, anh lại bắt đầu cảm thấy hứng thú đối với cuốn “Bộ mặt” của Hăngri Blăng mà anh đã nói đến. Khi lần đầu tiên nó lọt vào mắt anh, anh coi sự phân tích trong sách là sự phân loại cực kỳ tỉ mỉ mà các nhà bác học hết sức ưa thích, thậm chí anh nghĩ một cách cáu kỉnh: tất cả những lập luận ấy đem lại gì cho anh, một người đang làm công việc cụ thể. Nhưng khi anh đúng là mò mẫm đi tới vấn đề tạo ra bộ mặt thì rốt cuộc anh phát hiện ra rằng trong lý thuyết và hình dạng của Blăng có một cái gì lớn lao hơn là cái ta có thể phát hiện thấy trong cuốn sách tham khảo bình thường. Bản đồ một địa phương quen thuộc với bản đồ một nước ngoài cũng khác nhau như vậy.
Về đại thể, sự phân loại của Blăng là như sau:
Trước hết về một vòng tròn lớn mà tâm là mũi, bán kính là khoảng cách từ đầu mũi đến phía dưới cằm. Rồi vẽ mặt vòng tròn nhỏ, bán kính là khoảng cách giữa mũi và môi, tùy theo tương quan của những vòng tròn đó mà mặt chia thành hai kiểu: kiểu có tâm dời về phía dưới, kiểu có tâm dời lên trên. Rồi các kiểu đó lại phân thành loại khô gầy và loại đầy dặn. Như vậy cả thảy có bốn kiểu mặt:
1. Tâm dời về phía dưới, khô gầy - trên trán, hai má, cằm có những cục u dày.
2. Tâm dời về phía dưới, đầy đặn - trên trán, má, cằm có những lớp đọng mỡ mềm mại.
3. Tầm dời lên trên, khô gầy - mặt thót về phía mũi.
4. Tâm dời lên trên, đầy đặn - mặt nhô về phía trước một cách mềm mại ở gần mũi.
Bốn kiểu mặt ấy dĩ nhiên không bao gồm đủ hết các loại. Bốn cái thân ấy phân nhánh vô hạn tùy theo sự tổng hợp một loạt những yếu tố loại trừ lẫn nhau, tùy theo việc làm nổi bật lên những phần nhất định, làm mờ đi những chi tiết. Nhưng anh không cần đi vào những cái đó. Bởi vì anh đắp lớp nọ chồng lên lớp kia, bắt đầu từ lớp dưới, nên có thể không đếm xỉa đến tất cả những cái đó. Cái chính là không quên cái cơ bản, tiếp đó thì cứ mặc cho công việc diễn tiến.
Nếu xét bốn kiểu cơ bản đã kể ra ở trên dưới ánh sáng của hỉnh thái tâm lý học thì sẽ có kết quả như sau. Hai kiểu đầu là kiểu của những người hướng nội, tập trung vào thế giới bên trong của họ, còn hai kiểu sau là kiểu của những người hướng ngoại, tập trung vào những gì diễn ra xung quanh họ. Các kiểu đánh số lẻ thì thù địch hay dù sao cũng chống lại thế giới bên ngoài. Các kiểu mang số chẵn thì trái lại, có khuynh hướng thỏa hiệp hay thậm chí hòa hợp với thế giới bên ngoài. Bằng cách kết hợp hai kiểu phân loại đó, có thể ấn định những đặc điểm của mỗi kiểu mặt.
Nếu cùng với phương pháp phân loại còn thêm vào đó cái ý tưởng vẫn của Blăng về hệ số điệu mặt thì vấn đề càng có tính cân đối hơn. Hệ số điệu mặt là sự đánh giá định lượng tác động vẻ mặt của mỗi một điểm trong số mười chín điểm sắp xếp theo độ linh hoạt và chọn trong số hơn ba mươi cơ điệu mặt. Cả phương phàp tính cũng rất lý thú. Sau khi chụp liên tiếp chừng mười hai ngàn trường hợp biểu hiện vui và buồn, rồi bằng phương pháp chiếu mà phân chúng trên mặt bằng, như lập bản đồ tôpô, Blăng xác định độ linh hoạt trung bình của mỗi điểm. Những kết luận mà ông rút ra đại thể như sau. Mật độ hệ số điệu mặt đặc biệt cao trong khu tam giác giới hạn bởi đầu mũi và các khóe miệng. Rồi nó giảm dần theo trình tự sau: khu vực giữa miệng và gò má, các khu vực dưới mắt và cuối cùng là sống mũi. Trán có hệ số thấp nhất. Như vậy hoạt động điệu mặt tập trung ở phần dưới của mặt, trước hết là xung quanh môi.
Tất cả những cái đó là sự phân phối hệ số theo vị trí. Nhưng tính chất của mô dưới da cũng có ảnh hưởng đến hệ số, sửa đổi nó. Mật độ hệ số giảm tỷ lệ với độ dày của mô. Đồng thời rõ ràng không thể đồng nhất độ lớn không đáng kể của hệ số với sự thiếu điệu mặt. Ngay cả khi mật độ hệ số cao cũng có thể có vô số trường hợp thiếu điệu mặt, mà khi hệ số không đáng kể vẫn có những trường hợp điệu mặt phong phú. Như vậy, sự thiếu điệu mặt có thể xảy ra cả khi mật độ hệ số cao cũng như khi mật độ thấp.
Post-scriplum. - Có lẽ ta sẽ thử áp dụng phương pháp phân loại của Blăng cho mặt chúng ta chăng? Thoạt tiên là mặt em. Nếu nói về việc nó thuộc loại nào thì có lẽ nên xếp nó vào loại mặt có tâm dời lên trên. Mô dưới da có lớp đọng mỡ. Vì vậy nó gần với kiểu thứ tư: ở gần mũi, mặt hơi nhô vè phía trước. Theo quan điểm tâm lý hình thái học, em thuộc loại người hướng ngoại, tập trung vào những gì diễn ra xung quanh mình và hòa hợp với xung quanh. Hệ số điệu mặt tương đối thấp và vẻ mặt em ổn định, ít dao động.
Sao? Anh hy vọng rằng anh nói trúng, phải không nào? Hình như chính em đã kể lại rằng ở trường phổ thông, các bạn gán cho em cái biệt hiệu ià Bôđixatva. Khi lần đầu tiên anh nghe thấy chuyện đó, anh phá lên cười. Nhưng cái gì khiến anh buồn cười đến như thế? Nghĩ cho kỹ thì rõ ràng là anh hình dung không đúng cả Bôđixatva và em. Bề ngoài cố nhiên em chẳng có chút gì giống tượng Phật. Cho dù em có muốn đi nữa, em cũng không thể trở nên lạnh lùng và khó gần đến như thế. Anh muốn nói rằng mặt em thể hiện tính hăng say và đa tình thì đúng hơn. Song nếu xem xét em từ phía trong thì theo sự phân loại của Blăng, ở em thực sự có những nét của Bôđixatva. Tập trung vào những gì xảy ra xung quanh, hòa hợp với thế giới bên ngoài - đấy là bức tường cao su sống động dày một mét. Hết sức mềm nó không bao giờ gây đau. Mặt hơi mỉm cười, mắt nửa nhắm nửa mở - người có khuôn mặt như thế tay không cũng chiến thắng. Ở xa thì đó là nụ cười vô cùng hấp dẫn, rất có duyên. Nhưng đến gần thì nó bất đầu tan ra thành sương mù, che mờ mắt. Anh thực lòng khâm phục người nào đã nghĩ ra cho em cái biệt hiệu “Bôđixatva”.
... Em cảm thấy như thế là cay độc chăng? Có lẽ, nếu như ở chỗ nào đó có gai thì đấy chỉ là lỗi tại anh, em chẳng liên can gì đến đây. Chắc anh thuộc loại người đau đớn tiếp nhận lòng tốt của người khác.
Bây giờ đến mặt anh... Mà thôi... Liệu có đáng nói về bộ mặt đã mất đi rồi chăng? Nếu có dịp, anh cho rằng hay hơn cả là được nghe nói về việc theo lý thuyết của Blăng, người ta nhìn nhận như thế nào về mặt của những người thuộc bộ lạc xarakap, họ làm cho mặt của họ biến dạng đi đến nỗi không thể xếp vào một mục nào trong sự phân loại.
Đúng như anh chờ đợi, những ngón tay đưa anh đến triển vọng thành công đầu tiên, điều mà cái đầu anh không thể nào đạt tới được. Do kết quả của những thí nghiệm sơ bộ với mỗi kiểu trong bốn kiểu mặt, anh thờa nhận có hai kiểu thích hợp.
Thoạt tiên, kiểu thứ tư bị loại: “Mặt hơi nhô về phía trước ở gần mũi”. Kiểu này có lớp mỡ đọng xung quanh khu vực có mật độ hệ số điệu mặt cao, vì thế có độ ổn định lốn: nó khó thích nghi - một khi đã được tạo nên thì nó đòi hỏi giữ chính xác hình dạng của mình. Như vậy anh sẽ vấp phải những khó khăn hết sức nghiêm trọng nếu ngay từ đầu anh phải lập kế hoạch hoàn toàn chính xác toàn bộ công việc cho đến khâu chót. Vì thế, tuy hơi tiếc, anh vẫn quyết từ bỏ kiểu mặt đó.
Post scriptum cho Post scriptum. Có thể em nghĩ rằng trong post scriptum trên, anh còn muốn nói thêm điều gì nữa. Nhưng anh thề rằng anh không có ẩn ý gì hết. Thì giữa những ghi chép cơ bản của anh và Post scriptum có sự gián đoạn ngót ba tháng kia mà...
Bây giờ đến kiểu mặt có tâm dời xuống phía dưới, có “những cục u to mập trên trán, trên má và cằm”. Theo quan điểm hình thái tâm lý học, đây là loại mặt hướng nội, tập trung vào thế giới nội tâm của mình, chứa đựng mâu thuẫn, thiếu tính ổn định. Dù thiên vị đến đâu đi nữa, cũng không thể không thừa nhận rằng đó là mặt của kẻ cho vay lãi không bao giờ bị thua thiệt. Nhưng dứt khoát không phải là mặt nạ của kẻ cám dỗ. Chỉ xuất phát từ ấn tượng bên ngoài, anh gạt bỏ cả kiểu này không hề tiếc rẻ.
Chỉ còn lại hai...
“Trên trán, má và cằm có lớp đọng mỡ mềm mại”... Theo quan điểm của hình thái tâm lý học, đấy là mặt của những người hướng nội, tập trung vào thế giới bên trong của mình, hài hòa hay có tính nội quan, hết sức tự chủ.
“Mặt thót về phía mũi... Theo quan điểm hình thái tâm lý, đây là mặt của những người hướng ngoại, tập trung vào thế giới xung quanh, không hài hoa, hoặc cương nghị, thiên về hành động”.
Anh có cảm giác rằng trước mắt anh đã mở ra một bức tranh khá rõ. Chọn trong bốn hay hai kiểu là khác nhau rất nhiều. Bốn không đơn giản là hai với hai, trong đó có sáu tổ hợp để so sánh. Như vậy anh có thể quy giản công việc của mình về một phần sáu. Thêm nữa, hai kiểu còn lại trực tiếp đối lập nhau: chọn lầm cái nay thay cái kia là chuyện không thể được. Chỉ bằng cách làm mô hình thực nghiệm như anh đang làm mới biết được bộ mặt nào là cái anh cần.
Có một thời gian, anh dồn hết tâm trí vào việc nghiên cứu so sánh hai kiểu mặt đó. Nhưng bởi vì anh chỉ có một bản sao dùng làm cơ sở, anh cảm thấy hết sức bất tiện khi mỗi lần lại đập vỡ cái này và làm cái khác. Suy nghĩ một hồi, anh quyết định mua một máy quay pôliarôit [6]. Chỉ cần ấn cái chốt là trong tay đã có tấm ảnh đã hiện hình. Cái tiện là ngay tức thời, không mất thời gian, chẳng những có thể so sánh ảnh, mà có thể ghi lại từng bước toàn bộ quá trình tạo mặt nạ.
Đúng, trong những ngày ấy, tim anh ca hát như con ve sầu mọc cánh.
Thậm chí anh không hề thoáng nghĩ rằng bất cứ lúc nào công việc của anh cũng có thể lâm vào ngõ cụt...
Một hôm bầu trời cuồn cuộn mây trôi trong gió nam, hệ thống sưởi hơi vẫn hoạt động tỏa hơi nóng không thể chịu đựng nổi. Xem lịch thì đã quá nửa tháng hai rồi. Anh bối rối. Anh muốn làm xong mọi việc khi thời tiết còn lạnh. Về cấu trúc của vật liệu và tính linh hoạt của mặt nạ thì anh có thể hành động hầu như chắc chắn, nhưng còn về khoản thông hơi thì anh vẫn chưa biết làm thế nào. Nói chung, cái mùa làm đổ mồ hôi không báo trước điều gì tốt lành. Gắn mặt nạ trong điều kiện đó thì khó. Anh cho rằng sẽ xuất hiện cả một loạt những trở ngại có tính chất sinh lý. Nhưng anh còn phải đi đường vòng ba tháng nữa rồi mới đến cái chỗ mà anh khởi đầu những ghi chép này - tức là trước khi tìm được chỗ ẩn náu ở nhà S.
Thế thì tại sao anh vẫn cứ phải đi đường vòng như vậy? Thoạt nhìn thì công việc tiến hành bình thường. Anh đã thành thạo đến mức có thể vẽ ra trong óc, từng kiểu trong hai kiểu mặt, thậm chí nhìn thấy bộ mặt thuộc kiểu này hoặc kiểu kia anh có thể phân tích nó trong trí tưởng tượng thành những yếu tố cơ bản và bắt đầu đưa ra những sửa đổi. Thì vật liệu ở trong tay anh, anh có thể chọn bất cứ bộ mặt nào anh thích kia mà. Nhưng không thể chọn một trong hai cái nếu không có một tiêu chuẩn nhất định. Chắng cần gì phải chọn lựa đỏ hoặc trắng nếu không biết đấy là nói về cái gì - màu vé hay màu cờ. Ôi chao, đối với anh đấy là những tiêu chuẩn cứ lẩn biến đi trong bóng tối! Chẳng lẽ có những câu đố mà ta không thể giải đáp được bằng cách chỉ dí lại trong buồng ư? Bây giờ anh đã tìm được tiêu chuẩn, cố nhiên hoàn toàn không theo nghĩa như trước kia. Nhưng quan niệm của anh về đối tượng càng rõ thì anh càng cáu kỉnh. Kiểu hài hòa có cái duyên ưa của kiểu hài hoa, kiểu không hài hòa cũng có cái duyên riêng của nó. Giải quyết vấn đề theo quan điểm giá trị của kiểu này hay kiểu khác là không thể được. Càng biết kỹ hơn thì anh cảm thấy hứng thú lớn lao, khó mà tách bạch được đối với cả hai kiểu. Lâm vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng, đã nhiều lần anh nghĩ: hay ta gieo xúc xắc chăng? Nhưng bởi vì bộ mặt chứa đựng ít ra là một ý nghĩa siêu hình nào đó, nên anh không thể giải quyết vấn đề một cách vô trách nhiệm như thế. Xuất phát từ kết quả của những công trình nghiên cứu mà anh đã tiến hành từ trước đến nay, không thể không thừa nhận, mặc dù rất đỗi đau xót, rằng diện mạo bên ngoài có liên quan tới chừng mực nhất định với tâm lý và những đặc điểm cá nhân.
... Nhưng chỉ cần nhớ tới những phần còn lại của mặt đã bị những con đỉa gặm nát, nham nhở là anh gạt phăng mọi ý nghĩa của bộ mặt, và rốt cuộc anh run lên như con chó bị ướt thấu xương. Nó là cái quái gì - tâm lý, những đặc điểm cá nhân? Chẳng lẻ khi anh làm việc trong viện nghiên cứu, những cái đó có ý nghĩa gì chăng? Mặc dù con người có những đặc điểm cá nhân như thế nào, một cộng với một vẫn là hai. Có những trường hợp đặc biệt mà mặt là chuẩn đo con người, chẳng hạn diễn viên, nhà ngoại giao, nhân viên khách sạn hay tiệm ăn, thư ký riêng, tên bịp bợm. Nhưng nếu con người không làm một trong những nghề đó thì những đặc điểm cá nhân liệu có ý nghĩa lớn hơn hình của lá trên cây được không?
Thế là anh bất cần gì nữa và quyết định gieo dồng tiền. Nhưng anh gieo bao nhiêu lần thì sấp ngửa vẫn cứ bằng nhau.
May thay hay là bất hạnh thay, vẫn còn một việc cần làm mà không phải quyết định về kiểu mặt. Việc đó là: tìm cái bề mặt của mặt, cái bề mặt có thể dùng được khi hoàn tất mặt nạ. Anh chẳng còn cách nào khác ngoài cách mua bộ mặt của một người lạ mà anh sẽ không bao giờ còn gặp nữa. Nhưng dự định đó có một đặc tính là về mặt tâm lý nó rất khó thực hiện, và nếu như không lâm vào tình trạng không lối thoát thì không bao giờ anh có thể cưỡng ép mình bắt tay vào làm. Hiểu theo nghĩa đó, thời điểm này là hết sức thích hợp.
Cố nhiên anh hiểu rất rõ rằng hễ anh làm xong công việc là nhất thiết anh sẽ nhận được tối hậu thư, nhưng như người ta thường nói, lấy độc trị độc - chất độc này diệt chất độc kia, - khi ấy anh có thể được yên ổn một thời gian. Đã sang tháng ba, và chủ nhật đầu tiên, anh xếp vào va-li những khí cụ lạ thường và quyết định từ sáng sớm đi xe điện vào thành phố.
Xe điện ra ngoài thành phố đầy chật người, còn xe điện đi vào trung tâm thì hiện thời còn tương đối vắng. Tuy nhiên, đối với anh thật là một khổ hình khi mà sau ngần ấy tháng anh lại ở giữa đám đông. Anh cần sẵn sàng chờ đón mọi sự, thế mà anh lại đứng cạnh cửa, nhìn ra ngoài, không đủ sức bắt mình ngoảnh lại nhìn xem trong toa xe đang diễn ra chuyện gì và hiểu rằng mình nom kỳ cục như thế nào, anh trốn trong cái cổ áo măng tô dựng cao đến tai, - tuy hệ thống sưởi hoạt động đến nỗi không còn thở được nữa, - không dám động cựa, cứ như con sâu giả vờ chết. Thế thì làm sao anh có thể nói với một người không quen biết kia chứ? Mỗi lần xe dừng lại, anh lại bám lấy tay cửa, đúng là phải đấu tranh với sự hèn nhát mu?