← Quay lại trang sách

Lá thư của vợ

Cái vật chết nằm trong tủ không phải là mặt nạ, mà là chính bản thân anh. Về cái trò hóa trang của anh, không phải chỉ có con bé chơi iô-iô mới biết đâu. Ngay từ phút đầu... Ngay từ phút mà anh nói bằng giọng tự đắc về sự nhiễu loạn từ trường, tôi đã hiểu hết. Hẳn anh sẽ hỏi tôi hiểu điều đó như thế nào, xin đừng hỏi gì nữa. Cố nhiên lúc ấy tôi luống cuống, tôi bối rối, tôi sợ hãi. Nói gì thì nói, đấy là những hành động táo tợn không thể ngờ là lại có ở anh, một con người hết sức tầm thường. Vì thế khi thấy anh xử sự tự tin như thế, tôi tưởng như tôi mắc chứng ảo giác. Anh thừa hiểu rằng tôi nhìn thấu ruột gan anh. Và biết như thế mà anh vẫn cứ một mực muốn chúng ta lẳng lặng diễn tiếp vở kịch ấy. Thoạt đầu tôi thấy mọi chuyện đều khủng khiếp, nhưng rồi tôi tự chủ và cho rằng anh làm như thế là vì tôi. Anh cư xử hơi lúng túng, anh dịu dàng với tôi, mềm mỏng như thể anh mời tôi khiêu vũ. Khi thấy anh cố hết sức tỏ ra nghiêm chỉnh và làm ra vẻ như anh bị tôi lừa dối, lòng tôi tràn ngập niềm biết ơn và tôi muốn ngoan ngoãn đi theo anh.

Nhưng anh cứ luôn luôn lầm lạc. Anh viết rằng tôi xua đuổi anh, đó là dối trá. Chẳng phải là chính anh xua đuổi anh hay sao? Cái tình trạng chính anh muốn xua đuổi anh thì hình như tôi hiểu. Bởi vì đã gặp phải sự không may như thế, tôi gần như đành lòng chia xẻ những đau khổ của anh. Vì thế tôi vui sướng về cái mặt nạ của anh. Thậm chí tôi nghĩ về việc đã xảy ra với tình cảm hạnh phúc. Tình yêu lột bỏ mặt nạ, vì thế cần cố gắng đeo mặt nạ vì người yêu. Vì nếu không có mặt nạ thì cũng không có cái hạnh phúc lột bỏ mặt nạ. Anh hiểu tôi chứ?

Anh không thể không hiểu. Cho đến phút chót, anh vẫn hồ nghi: cái mà anh coi là mặt nạ phải chăng là mặt thật, cái mà anh coi là mặt thật, phải chăng là mặt nạ? Chẳng phải thế sao? Cố nhiên đúng là như thế. Bất cứ người nào bị quyến rũ cũng để cho mình bị quyến rũ mà vẫn ý thức rất rõ điều đó.

Vậy là cái mặt nạ sẽ không trở lại nữa. Thoạt đầu anh muốn nhờ cái mặt nạ để giành lại bản thân, nhưng từ lúc nào không rõ, anh bắt đầu xem nó chỉ như chiếc mũ tàng hình để trốn tránh chính bản thân mình. Vì thế nó đã trở thành không phải là mặt nạ mà thành bộ mặt khác của anh. Phải không nào? Rốt cuộc anh đã lộ nguyên hình. Đấy không phải là mặt nạ, mà là chính bản thân anh. Có điều, nếu không giấu diếm người khác rằng mặt nạ là mặt nạ thì mang mặt nạ vẫn có ý nghĩa. Hãy xét thuật mỹ dung của phụ nữ mà anh rất không ưa - chẳng ai có ý định che giấu rằng đó là thuật mỹ dung. Nói chung, không phải là mặt nạ tồi, chẳng qua là anh không biết sử dụng nó. Bằng chứng ư? Thì đấy, anh mang mặt nạ mà vẫn không làm nên trò trống gì. Anh không làm nổi điều tốt, cũng không làm nổi điều xấu. Anh chỉ lang thang qua các phố, rồi sau đó viết những lời thú nhận bất tận như con rắn cắn lấy đuôi mình. Dù anh có bị bỏng mặt hay không, dù anh mang mặt nạ hay không, điều đó tuyệt không ảnh hưởng gì đến anh. Anh không thể gọi cái mặt nạ trở về. Mà bởi vì cái mặt nạ sẽ không trở về thì cả tôi nữa, tôi có nên trở về không?

Dù sao đi nữa, những điều thú nhận thật khủng khiếp. Tôi có cảm giác rằng tôi, một phụ nữ hoàn toàn khỏe mạnh, bị cưỡng bức lôi lên bàn mổ, bị rạch và bị cắt vụn bằng hàng trăm chiếc dao mổ và chiếc kéo rắc rối, chẳng biết công dụng như thế nào. Dưới góc nhìn đó, anh hãy đọc lại lần nữa những gì anh đã viết. Nhất định anh sẽ nghe thấy tiếng rên xiết của tôi. Nếu tôi có thời gian, tôi sẽ giải thích anh rõ ý nghĩa từng tiếng rên của tôi. Nhưng tôi e rằng tôi mà nấn ná thì anh sẽ kịp đến đây. Anh là loài thân mềm. Tuy anh nói rằng bộ mặt là con đường mòn đặt mối liên hệ giữa người ta với nhau, nhưng bản thân anh là con vật thân mềm, anh như một viên chức thuế quan, chỉ cố đóng sập các cánh cửa lại. Anh, một người cao quý như vậy, anh không thể yên tâm được, anh sẽ làm rùm beng lên như tuồng tôi, một người đàn bà mà anh đã cố sức cầm giữ sau bức tường, đã vượt qua bức tường đó, bức tường không thua gì bức tường nhà tù, và tôi đã bắt cóc vợ anh. Và anh không thốt lên lời nào, hối hả bịt kín những cánh cửa mặt nạ, hễ mặt tôi lọt vào tầm mắt anh. Quả có như anh nói, thế giới đầy chết chóc. Nhưng gieo rắc cái chết chẳng phải là việc của những người tương tự như anh, không biết đến ai ngoài bản thân mình hay sao?

Chẳng phải là anh cần tôi, mà anh cần tấm gương soi. Đối với anh, bất cứ người nào khác cũng chỉ là tấm gương mang hình ảnh của anh. Tôi không muốn trở lại cái hoang mạc của những tấm gương đó. Tim tôi chỉ chực vỡ tung ra vì sự nhạo báng của anh - không bao giờ, không đời nào tôi cam chịu điều đó.

(Tiếp đó còn hai dòng nữa bị xóa đậm đến nỗi không thể nào đọc được gì hết).

... Một đòn quá bất ngờ. Nhận ra ngay cái mặt nạ của anh là mặt nạ, em vẫn cứ làm ra vẻ mình bị lừa. Sự hổ thẹn biến thành hàng nghìn con sâu bò trong anh, chọn những chỗ dễ sởn gai ốc nhất - nách, lưng, hai bên sườn. Những dây thần kinh cảm thụ sự xấu hổ chắc là ở mặt trên cùng của da. Anh sởn gai lên vì xấu hổ, toàn thân trương lên như kẻ chết trôi. Dùng lối diễn tả cũ nhàm rằng anh không muốn làm thằng hề không tự biết mình là thằng hề thì thật vô nghĩa, vì chính những lời đó đã thành lời của tên hề. Là vì em biết hết cả rồi mà. Phải chăng tình trạng đó giống như cái sân khấu chỉ có một diễn viên độc diễn, anh ta tự cho là mình vô hình đầy lòng tin vào những câu thần chú giả dối, thậm chí không hình dung nổi là mình lồ lộ trước mắt mọi người? Sự xấu hổ làm sởn lên những gai ốc cầy nát da. Còn trong những luống da bị cầy nát đâm lên những lông nhọn của con nhím biển. Chỉ chút xíu nữa thôi là anh sẽ biến thành con vật có gai...

Anh đứng lảo đảo, hoàn toàn bối rối. Khi thấy cái bóng cũng lảo đảo, anh hiểu rằng đấy không phải là do anh tưởng tượng, mà anh lảo đảo thực. Đúng, anh đã phạm sai lầm không tha thứ được. Hình như anh đã lên nhầm xe buýt ở chỗ nào đó. Đến chỗ nào thì anh phải quay trở lại để chuyển sang chuyến xe anh cần đi? Vẫn còn lảo đảo, anh thử phục hồi trí nhớ, đồng thời đối chiếu lại với tấm bản đồ cũ mờ, nhem nhuốc.

Cái đêm khuya khoắt đầy ghen tuông khi anh viết những ghi chép này... Cái ngày thực thi việc quyến rũ, khi lần đầu tiên anh nói với em. Buổi sáng khi anh quyết định trở thành kẻ phóng đãng... Cái buổi chiều ảm đạm khi đã làm xong mặt nạ... Và một thời kỳ dài với những cuộn băng và những con đỉa đã dẫn anh tới chỗ đó... Sao, vẫn còn ít ư?... Anh đã đi quá xa, nhưng nếu anh chuyển xe không đúng chỗ cần chuyển, anh sẽ phải tìm điểm khởi hành ở phía hoàn toàn khác. Chẳng lẽ ở trong anh, bất kể lấy từ bình chứa nào, bao giờ cũng chỉ là nước có mùi thum thủm như em khẳng định chăng?...

Nói chung, anh chẳng việc gì phải ngoan ngoãn chấp nhận lời buộc tội của em. Trước hết, khó mà đồng ý với ý nghĩ rằng kẻ gieo rắc cái chết là những kẻ giống như anh, không muốn biết đến ai ngoài bản thân mình. Anh cho rằng bản thân câu “không biết đến ai khác ngoài bản thân mình” là hết sức đích đáng và hay, nhưng xét nó theo nghĩa rộng hơn là hậu quả thì trong bất cứ điều kiện nào cũng có nghĩa là gán ghép cho nó nhiều hơn là nó đáng có. Không muốn biết đến ai ngoài bản thân bao giờ cũng là hậu quả, nhưng tuyệt nhiên không phải là nguyên nhân, số là (điều đó anh đã viết cả trong những ghi chép này) xã hội hiện nay cần chủ yếu là những quan hệ trừu tượng của con người, vì thế ngay cả những con người không có mặt như anh vẫn có thể được lĩnh lương không bị cản trở gì. Trong hoàn cảnh tự nhiên, chúng ta ở trong mối quan hệ cụ thể giữa người với người. Những người xung quanh được xem là cặn bã; việc lớn lao nhất mà họ có khả năng làm là kéo lê kiếp sống vất vưởng chỉ trong sách vở hoặc trong những hòn đảo biệt lập được gọi là gia đình. Dù những vở kịch về đề tài gia đình, chiếu trên màn ảnh truyền hình có ca lên bao nhiêu lời ngọt ngào tán dương gia đình thì chính cái thế giới ngoài gia đình, trong đó chỉ toàn những kẻ thù và những kẻ phóng đãng mới quyết định giá trị của người này hay người khác, quy định tiền lương, bảo đảm những quyền lợi trong cuộc sống của kẻ đó. Mỗi con người khác với ta đều mang theo mùi thuốc độc và mùi cái chết, và rốt cuộc người ta bắt đầu mắc chứng bệnh sợ người khác. Sự cô đơn cố nhiên cũng đáng sợ nhưng trung thành với tấm mặt nạ người khác còn khủng khiếp hơn. Anh không muốn đóng vai những thằng đần, xum xoe bám lấy những mơ tưởng hão huyền của người khác và bị ném ra khỏi thực tại hiện nay. Chuỗi ngày lặp đi lặp lại một cách đơn điệu bất tận dường như là một bãi chiến trường đã biến thành cái thông thuộc hàng ngày. Người ta dốc hết tâm sức vào việc hạ tấm màn sắt che kín bộ mặt, khóa kín bộ mặt, không cho người khác lọt vào trong. Nếu như mọi chuyện đều êm đẹp thì họ mơ ước điều không thể thực hiện được (cũng hệt như cái mặt nạ của anh) - mơ làm sao lẩn tránh khuôn mặt của mình, thậm chí muốn trở nên trong suốt. Không có con người nào mà ta có thể nói rằng ta sẽ nhận biết được người đó nếu như ta muốn. Hiểu theo nghĩa đó thì em, vốn tin chắc rằng chỉ mấy tiếng “không biết đến ai khác ngoài bản thân mình” là có thể đánh gục được người khác, liệu có phải chính em mắc thứ bệnh nặng là không muốn biết đến ai ngoài bản thân mình không?

Bây giờ cố nhiên chẳng cần gì phải sa vào những tiểu tiết như vậy. Cái căn cốt không phải là những lời biện luận, những lời bào chữa, mà là sự kiện. Hai điều em nêu ra đánh trúng vào tim anh gây nên những vết thương trí mạng. Thứ nhất, đấy là lời thú nhận tàn ác rằng sau khi phát giác ra thực chất của mặt nạ, em vẫn làm ra vẻ như anh đã đánh lừa được em. Thứ hai là sự phê phán không thương xót về việc anh chồng chất hết lời bào chữa này lên lời bào chữa khác - nào là anh có chứng cứ ngoại phạm, nào là anh giấu được danh tính, anh có mục đích dưới dạng thuần túy, anh chỉ phá vỡ những điều cấm mà thôi, - nhưng thực ra anh không củng cố những lời ấy bằng một hành động thực sự nào và chỉ cố thực hiện cho được những ghi chép giống như con rắn tự bám lấy đuôi mình.

Cái mặt nạ của anh, mà anh đặt hy vọng vào nó như hy vọng vào tấm lá chắn bằng thép, đã vỡ vụn còn dễ dàng hơn cả kính - điều đó thì không có gì phải bác bỏ. Thực tế, anh cảm thấy rằng cái mặt nạ là mặt nạ thì ít, mà đúng hơn là một cái gì gần như bộ mặt thật mới mẻ. Mà nếu bảo vệ lý thuyết của anh thì mặt thật là bản sao không hoàn hảo của mặt nạ, vậy thì anh đã tốn quá nhiều công sức để tạo nên cái mặt nạ giả.

Có thể... Bất ngờ anh nhớ tới cái mặt nạ của người mọi mà mới rồi anh đã thấy trên báo. Có lẽ nó là mặt thật chăng? Có lẽ gọi nó là mặt nạ thì hợp lý chính bởi vì nó không có gì chung với bộ mặt thật chăng? Đôi mắt to tướng lồi ra khỏi hốc mắt, cái mồm đồ sộ có nanh, cái mũi cắm những mảnh chai lóng lánh, hai bên gốc mũi là những búp tóc xoắn xuýt trên khắp mặt thành những vũng xoáy, xung quanh đó tua tủa những lông chim dài nom như những mũi tên. Càng nhìn lâu, anh càng thấy nó quái gở, không thực. Nhưng càng xem xét kỹ như thể định đeo nó lên mặt, thì anh bắt đầu dần dần đọc ra ý nghĩa của cái mặt nạ đó. Có lẽ là biểu hiện của sự cầu khấn cuồng nhiệt - khao khát vượt qua tất cả những gì mang tính người và nhập vào hàng chư thần. Sức mạnh đáng kinh sợ của tưởng tượng! Sự tích tụ ghê gớm của ý chí có sứ mạng chống lại những điều ngăn cấm của tự nhiên. Có thể anh nên dừng lại ở cái mặt nạ chính như thế, nếu anh có thể chế tạo được nó. Khi ấy anh sẽ phải từ bỏ ngay từ đầu cái cảm giác như tuồng người khác không thấy được anh... Không có chuyện như thế. Anh nói một cách nóng nảy đến mức em có đủ mọi lý do để chế nhạo con dao mổ và cái kéo rắc rối chẳng biết công dụng ra sao. Nếu làm quái vật là điều tốt thì có lẽ chẳng cần gì mặt nạ cho lắm, chỉ những con đỉa thôi cũng hoàn toàn đủ rồi chăng? Cả các thần cũng trở nên khác, cả người cũng trở nên khác. Người ta khởi đầu từ thời kỳ thay đổi bộ mặt, trải qua thời kỳ che mặt như các phụ nữ Ả Rập, các phụ nữ trong “Truyện Ghendozi”, rồi đến thời kỳ để lộ mặt ngày nay. Anh không có ý định bảo đó là tiến bộ. Cái đó chỉ có thể coi là thắng lợi của người đối với thần, đồng thời coi là sự vâng phục các thần. Bởi vậy chúng ta không biết ngày mai sẽ có chuyện gì. Không loại trừ sự thể là ngày mai đột nhiên sẽ bắt đầu thời đại từ bỏ bộ mặt thật. Nhưng hôm nay, nói cho đúng hơn, không phải là thời đại của các thần, mà là thời đại của người. Và việc cái mặt nạ của anh mô phỏng mặt thật cũng là có nguyên nhân của nó.

Mà thôi. Viện lý do đủ rồi. Muốn bào chữa thì có thể tìm ra vô vàn lý lẽ. Nhưng dù có đưa ra bao nhiêu lý lẽ dàn thành đội ngũ đi nữa thì anh cũng vẫn không thể bác bỏ hai sự thật mà em đã chỉ ra. Nhất là ý kiến thứ hai của em vạch ra rằng mặt nạ của anh rốt cuộc chẳng làm nổi trò trống gì, mà chỉ biện bạch, điều đó thì không có cách gì bác bỏ được, trái lại chính bản thân anh càng chứng tỏ điều đó nhiều hơn. Tự bêu xấu mình như thế đủ rồi. Nếu như anh chỉ đưa mình ra làm trò cười, anh đã thất bại thảm hại thì cũng được đi, nhưng mọi đau buồn của anh té ra là vô ích - cái đó mới đáng buồn hơn và đáng xấu hổ đến nỗi anh không còn đủ gan tự bào chữa. Mọi việc đều rõ ràng đến nỗi có thể lâm vào tình cảnh tuyệt vọng. Chứng cứ ngoại phạm không chê vào đâu được tự do vô giới hạn, vậy mà vẫn không nên công chuyên gì. Thêm nữa, để lại bản thuyết minh này, anh đã tự tay mình thủ tiêu chứng cứ ngoại phạm của mình, và bây giờ thì không làm cách nào được nữa. Phải chăng anh giống như một kẻ liệt dương chỉ có khả năng nói hươu nói vượn về sự ham mê tình dục...

Phải, cái duy nhất đáng viết thêm, đây là về điện ảnh. Theo anh, việc đó xảy ra vào khoảng đầu tháng hai. Trong những ghi chép, anh hoàn toàn không đả động đến phim đó, không phải vì nó chẳng can hệ gì đến anh, trái lại nó đụng chạm đến anh quá nhiều... Bất giác anh tránh nói về nó vì anh cảm thấy điều đó biến thành số không toàn bộ công sức nhọc nhằn của anh để tạo nên mặt nạ. Nhưng bây giờ anh đã đến giới hạn và mê tín chẳng ích gì. Hay có lẽ vì tình thế đã thay đổi, bây giờ anh nhìn nhận nó theo cách khác. Thực vậy, cái anh nhìn thấy không chỉ là sự tàn bạo. Bộ phim hơi khác thường và không được hoan nghênh lắm, nhưng tên phim chắc em còn nhớ: “Một phương diện của tình yêu”.

Phong cảnh im lìm. Trên cái nền ấy, một cô gái mảnh mai vận chiếc áo dài khá giản dị nhưng tươm tất lê bước uể oải, vừa đi vừa vấp, dáng hình trông nghiêng của cô trong suốt như bóng ma. Trên màn ảnh cô đi từ mé phải sang mé trái, vì thế chỉ nhìn thấy nửa mặt bên trái của cô. Ở cảnh sau là một tòa nhà bê-tông cốt thép, và cô gái đi, vai phải của cô mà người xem không thấy được gần như chạm vào tòa nhà đó. Dường như cô hổ thẹn với mọi người, điều đó rất hợp với cái hình trông nghiêng đau xót của cô và càng làm tăng thêm cái cảm tưởng tội nghiệp mà cô gây nên cho người xem.

Phía bên kia đường, ba gã trai coi bộ du côn đứng chống khuỷu tay vào thanh ray ngăn bờ hè với mặt đường, đợi nạn nhân của chúng. Thấy cô gái, một trong ba tên huýt lên một tiếng sáo. Nhưng cô gái chẳng hề có phản ứng gì, tuồng như cô đã mất những khí quan tiếp nhận các kích thích bên ngoài. Một tên khác trong bọn, được thúc giục bởi tiếng sáo của tên kia, đứng lên tới gần cô gái. Bằng một động tác quen thuộc, từ phía sau hắn tóm lấy tay trái cô gái, toan kéo cô về phía hắn, và hắn văng câu chửi tục. Cô gái dường như sẵn sàng chờ đón điều đó, dừng lại và chậm chạp quay về phía gã trai... Mé mặt bên phải lộ ra, nó bị cắt nát bởi những vết sẹo lồi và xấu xí vô cùng. (Không có lời giải thích kỹ, nhưng trong đối thoại tiếp sau đó, từ “Hiroshima” được nhắc đến thường xuyên, chắc cô gái là nạn nhân của sự phóng xạ). Gã trai sững người, không đủ sức thốt lên một lời nào còn cô gái quay đi và lại có bộ mặt của một bóng ma tuyệt đẹp, cô tiếp tục đi như không có chuyện gì xảy ra...

Rồi cô đi qua mấy phố, đấu tranh bản thân một cách tuyệt vụng mỗi khi ra chỗ quang không có gì che chắn phía bên phải, hay khi đến chỗ ngã tư mà cô phải vượt qua (anh bị chạm nọc đến mức đích thị là anh bật dậy khỏi chỗ), cuối cùng thì cô đến mấy cái quán gỗ rào quanh bằng dây thép gai.

Những kiến trúc kỳ lạ. Dường như đột nhiên ta trở lại hai mươi năm xưa - những người lính mặc quân phục của quân đội cũ. Một số có vẻ mặt thẫn thờ, số khác đi đều bước, cứ ba bước lại đứng nghiêm và chào kiểu quân nhân. Trong số họ, để lại ấn tượng mạnh nhất là một người lính già luôn miệng hối hả nhẩm đọc chỉ dụ của hoàng đế cho binh lính. Lời nói nhòa đi và mất ý nghĩa - chỉ còn đường viền chung và giọng điệu.

Đấy là bệnh viện thần kinh cho các cựu quân nhân. Người bệnh không biết sự bại trận và sống bằng dĩ vãng, họ vẫn ở cái thời kỳ đã dừng lại đối với họ hai mươi năm về trước. Dáng đi của cô gái lúc cô vượt ngang qua những cảnh ấy trở nên thanh thoát và bình tĩnh đến mức không thể nhận ra được nữa. Cô chẳng chuyện trò với ai, nhưng ta cảm thấy giữa cô và những người bệnh có sự tin cậy lẫn nhau và thân mật như bạn bè, tuy lúc này họ rất bận. Còn cô gái, trong lúc người hộ lý cám ơn cô về chuyện gì không rõ, cô ngồi trong góc cái lán gỗ, bắt đầu giặt đồ vải. Công việc từ thiện này do cô tự chọn và mỗi tuần cô làm một lần. Khi cô gái ngẩng đầu lên, ở khoảng giữa các lần hiện ra khoảng không gian có ánh mặt trời chiếu sáng, ở đó trẻ em đang nhởn nhơ chơi bóng.

Rồi phim chuyển cảnh. Bây giờ chúng ta thấy cuộc sống của cô gái ở nhà. Nhà cô, một xưởng thợ nhỏ ở ngoại ô, nơi người ta rập đồ chơi bằng sắt tây, là một ngôi nhà xoàng xĩnh, buồn tẻ. Nhưng khi khán giả nhìn thấy lúc thì phía bên phải, lúc thì phía bên trái khuôn mặt đỏ bừng của cô gái thì trong vẻ ngoài đơn sơ của ngôi nhà xảy ra một sự thay đổi kỳ lạ và ngay cả những cỗ máy rập thủ công mộc mạc xếp thành hàng cũng bắt đầu rên lên ai oán. Và trong lúc những chi tiết đó của đời sống thường ngày được tái hiện tỉ mỉ đến phát bực, ta chợt cảm thấy lo lắng cho tương lai cô gái, cái tương lai sẽ không bao giờ đến, lo cho nửa mặt tuyệt đẹp của cô mà sẽ không bao giờ được đánh giá đúng. Đồng thời rõ ràng sự ái ngại như thế làm cô gái bực tức, gây khó chịu cho cô. Vì thế sẽ không có gì bất ngờ nếu một ngày kia, trong cơn tuyệt vọng, cô sẽ đổ a xít vào nửa mặt còn nguyên vẹn và làm cho nó cũng bị méo mó đi như nửa mặt kia. Thực ra, đấy cũng không phải là lối thoát. Nhưng chẳng ai có quyền buộc tội cô về việc cô không nghĩ ra được phương tiện nào khác.

Sáng hôm sau. Cô gái quay về phía người anh trai, đột nhiên nói.

- Chiến tranh. Sao mãi nó không bùng nổ nhỉ?

Tuy thế, trong giọng nói của cô không có gì là hằn thù những người khác. Cô nói điều ấy hoàn toàn không phải vì cô khao khát trả thù những người không bị chiến tranh làm cho tàn tật. Chẳng qua cô nuôi một niềm hy vọng ngây thơ rằng nếu chiến tranh nổ ra thì sẽ xảy ra sự đánh giá lại các giá trị, sự quan tâm của mọi người sẽ không tập trung nhiều vào khuôn mặt, mà sẽ tập trung nhiều hơn vào cái dạ dày, không tập trung nhiều vào hình thức bên ngoài, mà tập trung nhiều hơn vào đời sống. Hình như người anh hiểu cái ý ngầm của câu hỏi và trả lời buông xỗng, giọng thờ ơ:

- Ờ... Nhưng ngày mai thời tiết thế nào thậm chí người ta cũng không thể đoán trước chính xác được kia mà.

- Đúng thế, nếu đoán biết ngày mai sẽ xảy ra chuyện gì dễ dàng như vậy thì thầy bói sẽ không có ăn.

- Cố nhiên. Hãy xét chiến tranh chẳng hạn, chỉ sau khi nó nổ ra thì mới biết là nó đã khởi diễn.

- Mà đúng thế. Nếu biết trước là ta sẽ bị thương thì sẽ chẳng bao giờ có ai bị thương.

Họ nói về chiến tranh bằng giọng như thế, thản nhiên như chờ mong thư ai, điều đó thật chưa cải tạo nên bầu không khí không thể chịu đựng nổi.

Nhưng trên các đường phố không có gì báo trước sự khôi phục quyền của cái dạ dày và đời sống. Chiều lòng cô gái, máy quay phim lồng qua các đường phố, nhưng điều duy nhất mà nó ghi nhận được là thói tham lam vô độ, sự phung phí cuộc đời không thương tiếc. Cái biển không đáy của khí thải... Hàng hà sa số những công trường... Những ống khói rú rít của những nhà máy bẩn thĩu, bụi bậm... Những ô-tô chữa cháy lao vùn vụt... Cảnh chen đầy dữ dội ở những nơi giải trí và bán đấu giá... Tiếng chuông réo liên hồi ở bót cảnh sát. Tiếng la gào bất tận của quảng cáo trên màn ảnh truyền hình...

Cuối cùng, cô gái có cảm giác rằng cô không đủ sức chờ đợi nữa. Không thể chờ đợi lâu hơn nữa. Thế là cô gái ấy, xưa nay chưa hề cầu xin điều bao giờ, đã cầu khẩn người anh: Cô nài anh cùng đi với cô đến một nơi nào thật xa (dù chỉ một lần trong đời). Người anh nhận thấy ngay rằng cô nhấn mạnh tiếng “đời” hơn là tiếng “một lần”, nhưng anh cấm thấy mình không có quyền hãm em gái ở cảnh cô đơn như trước, không còn con đường nào khác, và anh gật đầu ưng thuận, vì yêu tức là chia sẻ nỗi đau xót.

Và mấy tuần sau, anh trai và em gái ra đi. Căn buồng chìm ngập trong bóng tối ở một khách sạn tỉnh lẻ có cửa sổ trông ra biển. Cô gái cố làm sao giữ cho nửa mặt bị hủy hoại ở trong bóng tối, để người anh chỉ nhìn thấy bên mặt đẹp, cô buộc tóc bằng một dải băng, cô náo nức lạ thường, vui sướng. Cô nói rằng biển vô tri giác. Người anh trả lời rằng nói như thế không đúng, biển là người kể chuyện hay tuyệt. Nhưng hai anh em chỉ bất đồng về điểm ấy thôi. Còn thì họ hoàn toàn hòa hợp với nhau về mọi chuyện, ngay cả những cái vặt vãnh nhất, như một cặp tình nhân, mỗi lời đối với họ đều có hai nghĩa. Cô gái lấy một điếu thuốc lá của anh, thử hút. Sự kích động của họ chuyển thành sự mệt mỏi dễ chịu, và họ nằm xuống cạnh nhau trên giường. Qua khung cửa sổ mà họ vẫn bỏ ngỏ để nhìn thấy mặt trăng, cô em thấy những giọt vàng theo nhau rơi xuống, tràn ngập khoảng giáp giới giữa biển và trời. Cô nói với người anh, nhưng người anh không trả lời.

Quan sát vầng trăng giống như lưng con cá voi bằng vàng, cô gái vẫn mong đợi điều gì, nhưng chợt nhớ ra rằng hai anh em ra biển là để chấm dứt sự mong đợi, cô đặt tay lên vai anh, cố đánh thức anh dậy và thì thầm:

- Anh không hôn em ư?

Người anh quá bối rối, không thể giả vờ ngủ được nữa. Hé mở mắt và nhìn bên mặt trông nghiêng sáng rõ như men sứ của em gái, người anh không đủ gan mắng em, nhưng cố nhiên cũng không thể thực hiện yêu cầu đó. Song cô em không chịu thua.

- Ngày mai có thể xảy ra chiến tranh mà... - Cô thì thầm, nghẹn ngào cầu khẩn van lơn, và mỗi lúc một áp môi lại gần môi anh.

Sự phạm cấm một cách táo tợn như thế sinh ra sự cháy không hết giữa hai pít tông hoạt động không ăn nhịp giữa tức giận và thèm muốn. Tình yêu và chán ghét... Trìu mến và ý muốn giết... Ưng thuận và khước từ... Âu yếm và đánh đập - Sự rơi mỗi lúc một nhanh chứa đựng sự đùa bỡn với những đam mê không thể điều hòa, sự rơi cắt đứt đường trở lui... Nếu gọi đó là thói vô sỉ thì liệu có lấy một người nào trong thế hệ chúng ta có thể không bị cuốn hút theo cái vô sỉ như thế chăng?

Trời đã hé sáng, sắp rạng đông. Cô gái lắng nghe hơi thở của người anh đang ngủ, cô len lén trở dậy và bắt đầu mặc áo xống. Ở đầu giường anh, cô đặt hai cái phong bì đã chuẩn bị sẵn và rón rén ra khỏi buồng, cửa vừa đóng lại sau lưng cô thì người anh tưởng đâu đang ngủ bỗng mở mắt. Từ cặp môi hé mở buột ra tiếng rên nghẹn ngào và nước mắt chảy xuống tai. Anh trở dậy, rời khỏi giường và răng nghiến ken két, hơi nhoài ra trên bậu cửa sổ, bắt đầu thận trọng nhìn. Anh thấy cô gái như con chim trắng, chạy vùn vụt ra biển tối tăm đang nổi sóng. Sóng từng đợt từng đợt bắt com chim trắng trở lại, nhưng cô gái rốt cuộc đã chiến thắng được sóng, lúc thì biến mất, lúc thì lại hiện ra, bơi ra giữa biển khơi.

Người anh không còn đủ gan quỳ gối trên mặt sàn cứng nữa: ở đằng xa hiện ra một dãy đèn đường màu đỏ, việc đó làm anh lãng ý giây lát, nhưng khi anh lại nhìn về phía ấy, nơi vừa rồi em gái anh bơi đi như một chấm trắng thì không còn thấy gì nữa.

Mọi người đều tin chắc rằng câu chuyện cổ tích về chú vịt con xấu xí nhất định phải kết thúc bằng bài ca thiên nga. Chính ở đây nảy sinh chủ nghĩa cơ hội. Thật là tốt khi tự mình thử nghiệm những gì mà con thiên nga từng nếm trải. Dù những người khác có hát cho anh nghe bài ca hay thế nào đi nữa thì đó vẫn là cái chết, là sự thất bại hoàn toàn. Anh ghê tởm cái đó. Nếu rồi đây anh chết, sẽ chẳng có ai nghĩ về anh như nghĩ về con thiên nga, như vậy là anh có thể trông mong ở thắng lợi. Khi anh xem bộ phim đó, nó chỉ khiến anh bực tức, nhưng bây giờ thì lại khác. Anh không thể không ghen với cô gái.

Ít ra cô ta cũng hành động. Với lòng dũng cảm lớn lao biết bao, cô ta đã phá cái hàng rào cấm cản tưởng như không thể nào vượt được. Còn về việc cô chết thì đó là do tự ý cô, và như thế tốt hơn nhiều so với tình trạng không hành động. Đấy là lý do vì sao cô gái ấy khiến cho người hoàn toàn ngoài cuộc cảm thấy nỗi ân hận chua xót, cảm thấy mình gần như là tòng phạm.

Thôi được, anh cũng sẽ cho cái mặt nạ thêm một cơ hội nữa, may thay nó vẫn còn. Anh coi khinh hết thảy cho nên cần có một hành động, nó sẽ phá tan tình trạng hiện nay và cứu những mưu toan của anh khỏi biến thành mây khói. Bộ y phục mà anh thay ra và khẩu súng lục hơi vẫn còn ở chỗ cũ. Chỉ cần anh tháo băng và đeo mặt nạ vào là lập tức trong phổ tâm lý của anh xảy ra những thay đổi. Chẳng hạn, cảm giác vẻ mặt thật, về việc anh đã bốn mươi tuổi biến thành cảm giác anh mới có bốn mươi. Nhìn vào gương, anh cảm thấy vui sướng như gặp người bạn cũ. Với tiếng vo vo như tiếng ruồi bay, cái mặt nạ lại bắt đầu tích nạp sự say sưa và thói tự tin vốn là đặc điểm của nó, đó là những cái mà anh đã quên hẳn rồi. Chẳng cần rút ra những kết luận vội vã. Cái mặt nạ không đúng, nhưng cũng không sai. Không thể tìm ra câu trả lời thích hợp cho mọi trường hợp.

Như bị xiềng xích, anh ra đường phố đêm. Khuya lắm rồi, chẳng còn ai qua lại nữa. Bầu trời bù xù như con chó ốm, lơ lủng ngay sát các mái nhà. Gió ẩm gây ngứa ngáy trong cổ họng, báo trước cơn mưa. Ở trạm điện thoại gần nhất, anh giở cuốn danh bạ, thử tìm những nơi em có thể nương náu. Nhà cha mẹ em, nhà người bạn gái cùng học phổ thông với em, nhà cô em họ em.

Nhưng cả ba lần thử ấy đều không đi đến đâu. Cứ theo những câu trả lời mù mờ - tin hay không thì tùy - thì khó mà hiểu được sự thật. Anh đã lường trước sự thể đó trong chừng mực nào đó, vì thế không đến nỗi hoang mang lắm. Có lẽ nên về nhà chăng? Chỉ một lát nữa là có chuyến xe điện cuối cùng, mà nếu không kịp thì có thể thuê tắc xi.

Dần dần anh mỗi lúc một tức giận thêm. Anh hiểu sự phẫn nộ của em, nhưng đây có thể nói là vấn đề tự ái và kiêu hãnh - thằng hề đã buộc em phải đi lại với nó. Anh không có ý coi sự kiêu hãnh của em như khúc ruột thừa vô tích sự, nhưng anh chỉ có thể nhún vai: nó có đáng để vì nó mà trao công hàm cắt đứt quan hệ hay không? Anh muốn hỏi: trong bộ phim ấy, người anh hôn bên mặt nào của cô em? Chưa chắc em đã có thể trả lời được. Thì em đâu có giúp anh như người anh kia đã giúp em gái mình. Tuy em thừa nhận mặt nạ là cần thiết, nhưng đối với em, nó là cái mặt nạ đã được thuần hóa, không có khả năng phạm cấm. Mà thôi, bây giờ thì hãy coi chừng. Bây giờ truy lùng em là cái mặt nạ - thú dữ. Bởi vì thực chất của nó đã bị vạch trần, từ chỗ là cái mặt nạ yếu đuối mù quáng vì ghen tuông nó biến thành cái mặt nạ có khả năng làm bất cứ việc phạm pháp nào. Chính em tự đào mồ cho mình. Chưa bao giờ những điều anh viết ra mang lại thành quả như thế.

Đột nhiên anh nghe thấy tiếng gót giầy phụ nữ bước một cách gay gắt. Chỉ còn lại cái mặt nạ - anh biến đi. Chớp nhoáng, không chần chừ phút nào, anh nấp trong góc buồng, nhả chốt khóa súng và nín thở. Anh làm những trò đó để làm gì nhỉ? Có lẽ đấy chỉ là vở kịch để tự thử thách mình, mà cũng có lẽ quả thực anh mưu tính chuyện gì chăng? Anh không thể giải đáp cho mình câu hỏi đó trước khi người đàn bà đến đúng tầm bắn, trước khoảnh khắc cuối cùng, khoảnh khoắc quyết định.

Nhưng ta hãy suy xét xem. Làm như thế, liệu anh có thể biến thành con thiên nga không? Liệu anh có thể bắt mọi người cảm thấy mình là kẻ đồng mưu phạm tội không? Có cần như thế không? Duy có một điều rõ ràng - anh chỉ có thể trở thành kẻ phóng đãng bị bỏ mặc cho số phận tùy ý định đoạt. Tội của anh sẽ là cái tội có tính khôi hài, vì thế người ta sẽ bào chữa cho anh, có thế thôi. Giữa phim ảnh và thực tế rành rành là có sự khác nhau. Đằng nào cũng vậy thôi, chẳng làm thế nào được, muốn thắng bộ mặt thật thì không còn phương tiện nào khác. Anh biết đấy không phải là lỗi chỉ riêng của cái mặt nạ, duyên do ở ngay trong bản thân anh thì đúng hơn... Nhưng cái chứa chất trong anh cũng có trong tất cả mọi người, nó là cái chung cho mọi người, vì thế anh không mong muốn gánh lấy tất cả gánh nặng tội lỗi trên vai mình... Chỉ kết tội mình anh thôi thì không xong... Anh căm thù cả thiên hạ. Anh không có ý định bào chữa trước bất cứ kẻ nào! Tiếng bước chân mỗi lúc một gần...

Tôi sẽ không bao giờ viết gì được nữa. Có lẽ chỉ cần viết khi không có chuyện gì xảy ra.

HẾT