← Quay lại trang sách

Quyển vở xám (2)

Các nhân viên bắt đầu đến đông, và mỗi người đều nhìn anh với vẻ ái ngại xen lẫn chút sợ hãi - hồn người đã trở lại cả với ngôi nhà cũng như với anh. Anh quá nóng nảy. Chẳng xảy ra điều gì đặc biệt tốt, nhưng cũng chẳng có chuyện gì xấu. Nếu như ở viện, anh có thể làm cho công việc trở thành con đường mòn đến với những người khác, còn chỗ thiếu hụt anh sẽ bổ sung nhờ mặt nạ và anh quen được với cách sống hai mặt như vậy, thì gộp những cái đó với nhau, anh sẽ thành con người lý tưởng. Không, mặt nạ không chỉ là cái thay thế mặt thật - nó đem lại cho mặt thật những đặc quyền phi thường trong việc khắc phục bất kỳ tấm rào cấm cản nào, mở ra mọi cánh cửa cho bộ mặt thật, vì thế anh sẽ sống cuộc sống không phải của một người, mà của vô số người cùng một lúc. Nhưng dù sao cứ phải quen đi đã. Anh sẽ thích nghi tùy theo địa điểm và thời gian, với việc thay đổi y phục mà không hề bận tâm. Cũng hệt như cái dĩa hát có khả năng đồng thời phát ra bao nhiêu âm thanh cũng được.

Buổi trưa đã xảy ra một việc rắc rối nhỏ. Trong góc phòng thí nghiệm có mấy người tụ tập thành một nhóm, anh đến gần họ với vẻ mặt dửng dưng, người trợ lý trẻ đứng ở giữa toan giấu cái gì đó. Anh hỏi, té ra chẳng có gì đáng che giấu: đấy là một bản kêu gọi nói về việc nên giải quyết vấn đề kiều dân Triều Tiên. Lại nữa, tuy anh không khiển trách anh ta, anh ta bắt đầu xin lỗi một cách dài dòng, còn những người khác bối rối theo dõi sự việc đang diễn ra.

... Phải chăng người không còn mặt không có quyền ký tên ủng hộ người Triều Tiên? Cố nhiên viên trợ lý không có ác ý - có lẽ chẳng qua vì anh ta để ý thấy anh đang cáu, và anh ta tránh tỏ ra thông cảm. Nếu như người ta không bao giờ có mặt, thì chưa chắc đã có thể nảy sinh vấn đề phân biệt chủng tộc, dù là ở người Nhật, người Triều Tiên, ngươi Nga, người Ý hay người Polynesia. Thế thì tại sao anh chàng trẻ tuổi này, một người hào hiệp như thế, lại có sự phân biệt như thế giữa anh, kẻ không còn mặt và những người Triều Tiên có mặt loại khác? Liệu có thể giả định được không rằng trong quá trình tiến hóa, con người tách khỏi con khỉ thì không phải là nhờ tay và công cụ như người ta thường khẳng định, mà bởi vì con người đã làm cho mình khác biệt hẳn về bộ mặt?

Tuy nhiên, không bực tức, anh yêu cầu họ để cho cả anh ký tên. Xem ra mọi người đều thở dài nhẹ nhõm. Nhưng vẫn cứ còn lại chút cặn khó chịu. Cái gì đã buộc anh làm một việc mà anh chẳng thiết gì? Một bức tường vô hình, mang tên là “mặt” đã cản đường anh. Liệu có thể gọi đấy là thế giới đã tỉnh cơn say được không?...

Bỗng nhiên anh cảm thấy mệt mỏi không thể gượng được, và viện một cớ xuôi tai, anh về nhà sớm hơn mọi khi. Anh chưa thể khẳng định rằng cảm giác như thể anh có mặt thực đã trở lại với anh, và chưa chắc đã có thể hy vọng có những thay đổi lớn. Dù sao đi nữa, mặt anh quấn băng, và nếu anh cất tiếng nói thì chẳng việc gì phải lo người ta sẽ nhận thấy sự xúc động của anh, vả chăng cũng chẳng phải chỉ riêng mình anh xúc động. Có lẽ đáng lo ngại nhiều hơn là lo làm sao để khi thấy sự xúc động của em thì giả táng như không thấy. Anh không ngớt nhắc nhở mình rằng thậm chí nếu anh nhận thấy em quá ngượng ngập thì cũng không được để cho điều đó làm mình bị kích động, khiến mình mất tự chủ.

Nhưng gặp anh sau một tuần xa cách, em không hề cho thấy bóng dáng của sự hổ thẹn - trong toàn bộ cách cư xử, trong mỗi đường nét trên mặt, cũng vẫn như một tuần trước, có ẩn chứa vẻ giễu cợt, thoạt đầu thậm chí anh sững sờ vì sự thờ ơ đó. Dường như em được chở tới bằng máy bay ướp lạnh, đúng y như em ở tình trạng trước khi anh ra đi. Có lẽ đối với em sự hiện hữu của anh ít có ý nghĩa đến mức em không cho là cần phải phí sức giữ gìn những bí mật của em chăng? Hay có lẽ thực ra em là con quỷ đội lốt thiên thần, sự vô sỉ trơ trẽn là bản chất thực của em? Cuối cùng anh cáu kỉnh yêu cầu em kể lại những gì xảy ra trong thời gian anh vắng nhà, và em vẻ mặt không mảy may thay đổi, vẫn hồn nhiên tiếp tục bận rộn với bộ quần áo của anh, bắt đầu huyên thuyên về những việc ở nhà khiến em bận tâm, chẳng khác nào đứa trẻ một mình chơi những khối lập phương: nào là nhà hàng xóm bất chấp quy định của các cơ quan kiến trúc, bắt đầu làm thêm nhà phụ bên nhà chính, và giữa họ với các nhà chức trách nổ ra cuộc đấu nhau bằng đơn từ, nào là đứa con của họ mất ngủ vì tiếng chó sủa, nào là những cành cây ở sân lòa xòa rủ xuống đường vướng quá, có lẽ nên đóng cửa sổ khi chúng ta bật máy thu hình, nào là máy giặt kêu khó chịu quá và có lẽ nên mua cái mới chăng. Lẽ nào đây chính là cái người mà đêm hôm qua, như một vòi phun nước, đã hậu hĩnh làm cho anh tràn đầy cảm giác, phải chăng trước mặt anh là một người phụ nữ thực sự, trưởng thành? Khó mà tin được... Anh vẫn luôn luôn đấu tranh kịch liệt với sự phân đôi giữa mặt và mặt nạ, sự phân đôi bắt đầu ngay sau khi anh vũ trang đầy đủ, còn em điềm nhiên chịu đựng sự phân đôi và đối với em là hoàn toàn bất ngờ, và ở em không hề có bóng dáng của sự ân hận... Sao lại thế nhỉ?... Sao mà bất công làm vậy? Thế nếu nói cho em rõ anh biết hết cả rồi thì sao nhỉ?... Giá như anh có trong tay chiếc cúc ấy thì lúc này anh sẽ lẳng lặng gí nó vào mũi em.

Nhưng anh chỉ có độc một cách - câm như thóc. Phơi bầy bí mật của cái mặt nạ tức là giải giáp. Không, nếu như anh hạ được em xuống ngang tầm với anh thì giải giáp cũng được. Nhưng dù sao, thế cân bằng cũng sẽ vẫn không có lợi cho anh. Cho dù anh có lột khỏi em chiếc mặt nạ đạo đức giả thì trên mặt em vẫn còn cả nghìn chiếc khác, và sẽ liên tiếp xuất hiện những mặt nạ mới, còn anh chỉ có mỗi một cái mặt nạ, và dưới cái mặt nạ ấy là mặt thật của anh.

Nhà chúng ta, mà ở đó anh vắng bóng đã một tuần, như cái bọt biển thấm đẫm chất sinh hoạt thường ngày quen thuộc, cả những bức tường, cả trần nhà, cả những chiếc chiếu trải trên sàn - tất cả đều có vẻ vững chắc không gì lay chuyển nổi. Nhưng đối với người biết rõ cái mặt nạ thì sự bền vững đó là thêm một hàng rào cấm cản nữa, cũng là thứ quen thuộc. Cũng như thể sự tồn tại của vật cản có tính ước lệ hơn là thực tế, sự tồn tại không có mặt nạ của anh trở nên huyền ảo khó nắm bắt, còn mặt nạ, hay một thế giới khác nữa mà anh đã tiếp xúc nhờ mặt nạ, thì anh lại thấy là cái có thực. Anh có cảm giác không chỉ riêng những bức tường nhà chúng ta nó như vậy, mà cả em cũng là như vậy... Chưa hết một ngày đêm anh được biết cái cảm giác thất bại vô vọng mà chỉ có thể so sánh với cái chết, vậy mà anh đã lại cảm thấy một sự thèm khát đến tê liệt: thèm khát cái hiện hữu có thực của em mà anh khám phá được bằng sờ mó. Anh run lên. Khi con chuột chũi không chạm đầu ria vào vật nào cả thì nó bắt đầu nóng nảy. Anh cũng thế, anh cần sờ tay vào một vật gì... Kẻ ghiền ma túy mà hết chất ma túy cũng cảm thấy như thế, tuy hắn hiểu rất rõ đó là chất độc cực mạnh... Chắc anh đã bắt đầu cảm thấy những dấu hiệu báo trước sự cấm đoán...

Anh không thể chịu đựng lâu hơn nữa. Anh bất chấp hết, anh chỉ muốn có một điều - mau mau cho thuyền quay trở lại, bước chân lên đất rắn. Anh coi đó là nhà chúng ta, nhưng hóa ra nó là chỗ trú tạm thời, thậm chí anh nảy ra ý nghĩ mặt nạ không phải là mặt “tạm thời”, mà là đất rắn thực sự, làm cho anh khỏi hẳn say sóng biển. Anh quyết định bỏ đi ngay sau bữa ăn tối, lấy cớ bất ngờ nhớ đến một việc thực nghiệm bỏ dở trong thời gian anh đi công cán, mà cần làm xong càng nhanh càng hay. Anh nói rằng việc thực nghiệm đó không thể để gián đoạn và có lẽ sẽ phải ngủ đêm ở viện. Và tuy trước kia chưa hề có chuyện như thế, em làm ra vẻ lấy làm tiếc và trên mặt em không hề có chút gì là hồ nghi, không hề có chút gì tỏ ra không hài lòng. Quả thực, có đáng bận tâm không về cái cớ nào đó mà một bóng ma không có mặt viện ra để không ngủ ở nhà một đêm.

Chưa đến chỗ ẩn náu của mình, anh đã không chờ nổi nữa, liền gọi điện cho em.

- Anh ta... về chưa?

- Rồi, nhưng lại đi ngay. Anh ấy bảo công việc...

- May là em đến máy. Nếu là anh ta thì sẽ phải bỏ máy xuống ngay...

Anh nói, lòng nhẹ lâng lâng như thể giải thích một cách lôgic sự rồ đại của mình, nhưng em im lặng một lát, rồi nói bằng giọng nhỏ nhẹ, thanh thanh:

- Tội nghiệp anh ấy quá...

Những lời ấy thấm vào anh như rượu nguyên chất, trong chớp mắt truyền lan khắp cơ thể. Nghĩ cho kỹ, đấy là ý nghĩ đầu tiên của em về “anh ta”. Nhưng lúc này anh chẳng hơi đâu bận tâm đến chuyện đó. Anh sẽ chết chìm nếu người ta không vứt cho anh bất cứ cái gì - một khúc gỗ hay cái thùng sắt cũng được, để anh có thể bám vào. Nếu thực có “anh ta” thì việc gặp gỡ bí mật giữa chúng ta hoàn toàn là rồ dại. Anh ta có thể trở về bất cứ lúc nào, về bất cứ việc gì. Cho dù anh ta không về thì cũng không loại trừ khả năng anh ta sẽ gọi điện. Ban ngày thì còn được, nhưng em sẽ biện bạch thế nào việc em vắng nhà vào quãng giờ này? Anh cho rằng em sẽ nghĩ tới chính điều ấy và cố nhiên sẽ ngần ngừ. Nhưng em ưng thuận ngay, không do dự. Này, chắc em cũng vùng vẫy trong sóng chẳng kém gì anh, đồng thời chăm chắm nhìn xem có thể bám vào cái gì, phải không? Ồ không, chẳng qua em là một kẻ cực kỳ vô sỉ. Em là kẻ giả dối, kẻ đạo đức giả, kẻ trâng tráo, kẻ lẳng lơ, một ả dâm đãng, kẻ mắc chứng xung động thỏa dục - anh nghiến răng ken két, nhếch mép cười gằn, lớp băng che giấu cái đó, rồi cơn run rung chuyển toàn thân chấm dứt tiếng nghiến răng và làm nụ cười ngưng đọng lại.

Vậy thì rốt cuộc em là người thế nào? Em là người thế nào mà đã vượt qua tất cả, không chống cự, không rụt rè, không phá vỡ trở ngại, quyến rũ kẻ đi quyến rũ, bắt kẻ đàn ông phóng đãng phải tự giày vò, rốt cuộc em vẫn không để cho mình bị lăng nhục? Và không một lần nào em có ý định hỏi cái mặt nạ về tên, họ, nghề nghiệp của nó... Cả tự do cũng như chứng cứ ngoại phạm của cái mặt nạ lu mờ đi trước cách xử sự của em... Nếu có thượng đế thì thượng đế hãy làm cho em thành người đi săn mặt nạ... Dù sao, anh đã bị em bắn trúng thương...

Trên con đường nhỏ gần lối đi sau, có ai gọi anh. Con gái viên quản lý. Nó đòi iô-iô. Anh suýt trả lời nó, nhưng tình trạng đó chỉ tồn tại trong giây lát, rồi anh khiếp sợ ngẩng đầu lên, gần như bỏ chạy. Giao hẹn với con bé không phải là anh, mà là cái mặt nạ. Gắng gượng tự kìm nén, hốt hoảng, anh làm điệu bộ giải thích rằng anh không hiểu đây là chuyện gì, - không còn cách nào khác, cần tỏ cho con bé thấy là anh nghĩ rằng nó lầm lẫn.

Nhưng con bé không để ý gì đến màn kịch anh trình diễn, mà cứ nhắc đi nhắc lại đòi hỏi của nó: iô-iô. Có lẽ nó nghĩ một cách đơn sơ rằng “mặt nạ” và “băng cuốn” là anh em thì giao hẹn với cái này đương nhiên là có giá trị cả đối với cái kia chăng? Không, cách giải thích có sức cám dỗ đó bị đập tan bởi chính lời con bé:

- Đừng lo... Chúng ta chơi trò giữ bí mật mà...

Chẳng lẽ ngay từ đầu nó đã biết tỏng mưu mô của anh chăng? Làm cách nào nó biết được? Anh phạm sai lầm ở chỗ nào? Có lẽ nó nhìn qua khe cửa và thấy anh đeo mặt nạ chăng?

Con bé lắc đầu ngờ vực, không ngớt nhắc đi nhắc lại rằng nó không hiểu anh vờ vịt thế để làm gì. Hẳn là cái mặt nạ của anh không có khả năng đánh lừa ngay cả mắt của một con bé ngây dại như thế... Có lẽ trái lại, chính vì con bé chậm phát triển về trí tuệ nên nó có thể nhìn thấu ruột gan anh. Cũng như thể chiếc mặt nạ của anh sẽ không đánh lừa nổi con chó. Trực giác toàn vẹn thường sắc sảo hơn cái nhìn phân tích của người lớn. Nhưng, cố nhiên, cái mặt nạ đã đánh lừa được ngay cả em, người ở liền ngay bên cạnh, thì không thể mắc khuyết điểm như thế.

Không, ý nghĩa của thí nghiệm đó tuyệt nhiên không đơn giản như tìm chứng cứ ngoại phạm. Đột nhiên anh nhìn thấy chiều sâu thăm thẳm của cái “trực giác toàn vẹn” ấy và không còn nén nổi cơn run truyền lan khắp cơ thể. Vẫn cái trực giác ấy gợi nên ý nghĩ rằng toàn bộ kinh nghiệm anh thu lượm được trong năm nay có thể tan tành chỉ vì một đòn duy nhất... Nhưng em hãy thử nghĩ mà xem, chẳng lẽ điều đó không chứng tỏ rằng ngoại hình của anh - băng, mặt nạ - không thể đánh lừa nổi con bé, và nó nhìn rõ thực chất của anh hay sao? Vậy là thực chất đó có thể bị nhận ra. Trong con mắt của đứa trẻ ấy, hành động của anh hiển nhiên là một trò đùa.

Đột nhiên anh hình dung thấy cả những cơn nhiệt hứng của mặt nạ, cả sự bực tức vì những con đỉa đều nhỏ mọn vô cùng, và cái tam giác quay cót két như vòng ngựa gỗ đã tắt động cơ bắt đầu dần dần chuyển động chậm lại...

Để con bé ở ngoài cửa, anh mang con iô-iô ra cho nó. Nó còn khẽ thì thầm lần nữa: “Chúng ta chơi trò giữ bí mật”. - rồi, với tâm tính trẻ thơ không giấu nổi nụ cười bên khóe miệng, nó quấn sợi chỉ vào ngón tay và nhảy chân sáo chạy xuống dưới. Chẳng có duyên cớ gì mà mắt anh đẫm lệ. Rửa mặt xong, anh lau sạch thuốc mỡ, bôi chất dính và đeo mặt nạ, nhưng không hiểu sao nó không dính sát vào mặt! A, cóc cần... Anh buồn lặng như mặt nước hồ ngưng đọng dưới bầu trời mây, nhưng anh vẫn luôn luôn nhắc lại với mình rằng cần triệt để tin ở con mắt trẻ em. Bất cứ người nào nghiêm chỉnh muốn tiếp xúc với những người khác thì chỉ có một lối thoát - trước hết phải trở về với chính cái trực giác ấy...

Tối hôm ấy, trở về sau cuộc hẹn hò lần thứ hai với em, cuối cùng anh quyết định bắt đầu viết những ghi chép này.

Vào lúc rạo rực nhất của sự gần gụi giữa chúng ta anh sẵn sàng dứt bỏ mặt nạ. Không thể chịu đụng nổi khi nhìn thấy em không một chút hồ nghi, để cho chiếc mặt nạ của anh cám dỗ em, chiếc mặt nạ mà ngay cả con gái viên quản lý cũng đoán ra một cách dễ dàng. Thêm nữa quả thật là anh mệt mỏi. Cái mặt nạ từ chỗ là phương tiện để giành lại em, đã biến thành cái máy quay phim giấu kín giúp thấy rõ sự phản bội của em. Anh làm ra mặt nạ là để khôi phục bản thân anh, nhưng vừa xuất hiện, nó liền vuột khỏi tay anh, khi thì khoái trá chạy trốn anh, khi thì tức tối vì anh đứng trên đường đi của nó. Chỉ có em đứng giữa anh và nó là không bị đụng chạm đến. Sự thể sẽ ra sao nếu anh để cho mọi việc tiếp tục triển khai như thế? “Anh”, hễ có dịp là sẽ tìm cách giết cái mặt nạ, còn “mặt na”, vẫn cứ là mặt nạ, sẽ bằng một cách ngăn chặn sự trả thù của anh. Chẳng hạn, nó sẽ can anh đừng giết em.

Rốt cuộc, nếu anh không muốn tình thế trở nên gay gắt hơn thì không còn cách nào khác ngoài việc thủ tiêu cái tam giác đó bằng sự thỏa hiệp ba bên, trong đó cả em cũng phải tham gia. Đó là lý do vì sao anh bắt đầu viết những ghi chép nay... Thoạt đầu, mặt nạ tỏ ra coi khinh cách giải quyết của anh, nhưng nó không làm gì được và bắt đầu lẳng lặng chế nhạo anh... Từ bấy đến nay đã ngót hai tháng. Trong thời gian ấy, anh còn gặp gỡ em khoảng mười lần nữa, và lần nào anh cũng khổ tâm khi nghĩ đến sự chia tay đang đến gần. Nhiều lần anh không còn vững tâm nữa và đã toan vứt bỏ những ghi chép của mình. Anh vẫn hy vọng sẽ xảy ra điều kỳ diệu. - một sáng kia thức dậy, anh sẽ phát hiện ra rằng cái mặt nạ đã dính liền vào mặt và biến thành mặt thật của anh, thậm chí anh còn thử đeo cả mặt nạ mà ngủ. Nhưng phép lạ không diễn ra. Anh lại tiếp tục viết, không còn lối thoát nào khác.

Trong những ngày ấy, sự quan sát con bé khích lệ anh nhiều nhất: nó lẩn trong bóng tối cạnh lối đi sau để tránh người khác nhìn thấy, lén lút chơi con iô-iô của mình. Phải gánh chịu một tai họa vô cùng lớn lao mà không biết đó là tai họa, nó hạnh phúc biết chừng nào so với những người bình thường đau khổ vì tai họa của mình. Có lẽ đây là bản năng - con bé chẳng sợ mất cái gì hết. Và anh cũng muốn có khả năng chịu đựng được những mất mát của mình giống như con bé.

Tình cờ, trên số báo hôm nay anh thấy tấm ảnh chụp một mặt nạ kỳ dị: hình như là mặt nạ của một bộ lạc mọi rợ nào đó. Những vết như vết ấn lõm vào bằng sợi thừng giăng khắp mặt, tạo nên một bức vẽ hình học: cái mũi giống như con rết, uốn khúc ở giữa mặt, trườn lên phía trên, về phía sọ: ở cằm có những vật gì khó hiểu buông lủng lẳng. Bản in không rõ, nhưng anh như bị bỏ bùa mê, cứ nhìn bức ảnh không dứt. Hình bị phân đôi, trên ảnh bập bềnh hiện lên bộ mặt xăm chàm của một người mọi, bồng bềnh hiện lên những bộ mặt phụ nữ Ả Rập che bằng những mảnh vải, và anh nhớ tới câu chuyện ai đó đã thuật lại những phụ nữ trong “Truyện Ghenđơzi” [2] cho rằng để hở mặt cũng chẳng khác nào phơi ra sự ô nhục. Mà chính em kể, chứ chẳng phải ai khác. Điều đó cái mặt nạ đã được nghe trong một lần gặp gỡ giữa chúng ta. Em cần gợi nên cuộc nói chuyện đó để làm gì nhỉ? Những người phụ nữ ấy tin chắc rằng đàn ông chỉ có thể để lộ tóc, thậm chí khi sắp chết họ cũng che mặt bằng tay áo kimônô. Cố đoán ý định của em, anh đã nghĩ nhiều về những phụ nữ che mặt, đột nhiên trước mắt anh, những thời kỳ mà con người chưa có bộ mặt tỏ ra như một cuộn chỉ - anh bàng hoàng. Như vậy là ngay từ thời cổ xưa, mặt không phải là cái được phô bày ra, chỉ có nền văn minh mới chiếu ánh sáng chói lọi vào bộ mặt, và lần đầu tiền mặt biến thành tâm hồn con người... Còn nếu mặt không chỉ tồn tại, mà được tạo ra thì điều đó có nghĩa là anh định chế tạo mặt nạ mà thực ra chẳng tạo được cái mặt nạ nào cả. Đấy là bộ mặt thật của anh, còn cái mà anh coi là mặt thật thực ra là mặt nạ... Thôi được, đủ rồi, bây giờ thì đàng nào cũng thế thôi... Dường như cả cái mặt nạ cũng có tinh thần hòa giải, thành thử có lẽ có thể chấm dứt ở đó, em cho là như thế chứ gì?... Có điều là sau này, nếu có điều kiện, anh muốn nghe lời thú nhận của em... Anh không biết tất cả những cái đó sẽ dẫn chúng ta đến đâu, nhưng anh nghĩ rằng chúng ta vẫn còn chuyện để mà nói.

Hôm qua, để tổ chức cuộc gặp gỡ cuối cùng của chúng ta, anh đã trao cho em sơ đồ tìm đến nơi ẩn náu của anh. Sắp đến giờ hẹn rồi. Anh có bỏ sót điều gì không nhỉ? Ờ, thôi mặc kệ, không còn thời gian nữa. Cái mặt nạ luyến tiếc chia tay với em. Cái cúc áo nọ thuộc về cái mặt nạ vậy thì ta hãy chôn vùi cả hai thứ đó cùng với nhau.

Vậy là em đã đọc hết. Chìa khóa ở dưới cái gạt tàn ở đầu giường - anh muốn em mở tủ áo. Ngay trước mặt, em sẽ thấy đôi ủng cao su, còn ở phía bên trái là phần còn sót lại của chiếc mặt nạ và cái cúc. Em muốn làm gì chúng thì làm, anh dành quyền đó cho em. Khi em đến thì anh đã ngồi nhà rồi. Anh hết lòng hy vọng rằng lúc trở về em sẽ có vẻ mặt bình thường như không có chuyện gì xảy ra.

Ghi cho riêng mình, viết trên những tờ giắy trắng còn lại ở cuối quyển vở xám.

... Anh vẫn chờ đợi. Chẳng qua là anh tiếp tục chờ đợi trong trạng thái hoàn toàn vô tri giác, như cái chồi mầm trong cánh đồng, suốt mùa đông bị chân người giày xéo lên và chỉ còn có việc chờ đợi một dấu hiệu phát ra để được phép ngóc đầu lên.

Tưởng tượng thấy em ngồi trong một tư thế gò bó - thậm chí không kịp duỗi chân ra - và đọc những quyển vở này ở nơi ẩn náu của anh, một nơi dường như sinh ra đã mang bộ mặt ông già, anh biến thành con quái vật thời hoang sơ chỉ có một dây thần kinh duy nhất và lặng lẽ bay lượn trong những chờ mong không màu sắc, không ánh sáng...

Nhưng kỳ lạ thay, trong óc anh chỉ chập chờn hiện lên hình ảnh của em, còn dấu vết mà những ghi chép này để lại trong em thì không hiểu sao anh không nắm bắt được. Hơn thế nữa, ngay cả nội dung những điều anh viết đây mà anh đã đọc đi đọc lại nhiều lần, mà anh phải biết kỹ đến mức không cần dời khỏi chỗ vẫn có thể kể lại thuộc lòng từ đầu chí cuối, - cái nội dung ấy như phong cảnh nhìn qua tấm kính bẩn, đã chuội khỏi anh, và anh không thể nhìn thấy rõ ngay cả sợi chỉ mà nhờ nó những hồi ức sẽ sống lại.

Tim anh lạnh lùng không cảm giác và ngấm mặn như con cá mực khô. Có lẽ vì anh đã thây kệ hết, - bây giờ dù có tíu tít thế nào đi nữa thì cũng không thể thay đổi gì được nữa. Cảm giác trống rỗng như thể anh đã từng trải qua khi làm xong một loạt thí nghiệm. Và những thí nghiệm càng quan trọng thì cái trống rỗng càng sâu.

Trạng thái của anh chính là kết quả của trò chơi liều lĩnh của chúng ta - em cứ quyết định hết đi, cho dù có rơi ra bất cứ cái xương nào cũng mặc. Anh hiểu rất rõ rằng tố giác cái mặt nạ sẽ gây thương tích đau đớn cho em, em sẽ xấu hổ. Nhưng bằng sự phản bội của em, em cũng đã gây thương tích cho anh - vậy là chúng ta hết nợ nần, hòa cả làng. Dù sao anh cũng chẳng có căn cứ gì để giữ thái độ khiêu khích, anh tuyệt nhiên không có ý định trách móc em, dù em có phản ứng ra sao về những điều anh viết đây. Cho dù tình hình có xấu hơn đi so với khi chưa có mặt nạ và quan hệ giữa chúng ta tuồng như đông cứng lại trong khối băng thì anh vẫn cứ sẵn lòng chấp nhận bất cứ phản ứng nào của em đối với những ghi chép này - dẫu sao cũng sẽ có một giải pháp nào đó.

Không, có lẽ không thể gọi đó là giải pháp theo nghĩa đầy đủ của từ, nhưng ít ra cũng là một lối thoát. Sự ân hận cay đắng, sự buồn bực, cảm giác thất bại, sự nguyền rủa, sự tự hạ mình... Anh bóp nát mọi ý nghĩ độc ác đã xâm nhập vào anh, và dù hay hay dở, anh thở dài nhẹ nhõm như đã làm xong một việc lớn lao. Cố nhiên không thể nói rằng anh không muốn mọi chuyện đều tốt dẹp, nhưng chỉ riêng việc ngay lúc ở trong giường, anh không lột phăng mặt nạ ra, mà lại cho rằng kể lại với em mọi chuyện trong những ghi chép này thì hơn, riêng điều đó đã có nghĩa là anh giương cờ trắng. Dù cho điều đó có dẫn đến đâu thì cũng còn hơn cuộc tình tay ba - tự đầu độc mình bằng sự ghen tuông không ngừng lan rộng như ung thư.

Thế nhưng, nghĩ cho kỹ thì không thể nói rằng hoàn toàn không thu hoạch được gì. Tuy thoạt nhìn thì những cố gắng của anh là vô ích và anh chẳng thành tựu được gì, nhưng những điều đã trải qua không phải là không để lại dấu vết gì cho anh. Dù sao, chỉ riêng việc anh đã hiểu bộ mặt thật chỉ là cái mặt nạ không hoàn hảo thì đó chẳng phải là một khoản thu cực kỳ lớn lao hay sao? Có lẽ anh quá lạc quan, nhưng đối với anh, việc nhận ra điều đó biến thành một sức mạnh vô cùng to lớn, và anh cho rằng nếu như số phận của anh là sẽ vĩnh viễn bị ướp trong khối băng không tan thì ngay cả trong khối băng ấy anh cũng sẽ tìm được sự sống và sẽ cố gắng lần thứ hai để khỏi có những cố gắng vô ích... Nhưng tốt hơn hết là lúc yên ổn hãy nghĩ đến tất cả những cái đó, sau khi em về, nắm trong tay những điều kiện đầu hàng. Lúc này, muốn gì thì gì, anh cũng chỉ có cách chờ đợi...

Như con rối bị cắt những sợi dây điều khiển, anh đổ vật xuống sàn một cách bất lực, anh chỉ muốn có một điều: giảm bớt càng nhiều càng hay sự chống cưỡng lại dòng thời gian. Khoảng trời sáng hình chữ nhật được cắt nét bởi khung cửa sổ và tòa nhà bên nom như bức tường nhà tù. Anh không rời mắt khỏi nó và cố làm cho mình tin như thế. Ý nghĩ rằng không phải chỉ riêng mình bị giam cầm, mà cả thế giới là cái nhà tù khổng lồ hòa điệu với tâm trạng anh lúc ấy. Anh tiếp tục suy nghĩ: mỗi người đều khát khao vượt ra khỏi cái thế giới này. Tuy nhiên, bộ mặt thật, một khi đã trở nên thừa như cái đuôi, liền đột nhiên biến thành cái cùm, và không người nào vượt thoát ra được. Anh thì lại là việc khác... Chỉ có anh, dù chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi, đã được nếm mùi cuộc sống ở bên ngoài bức tường giam. Anh không chịu nổi bầu không khí quá đặc quánh và lập tức quay trở lại, dù vậy anh biết cuộc sống ấy. Bây giờ, nghe lời thú nhận của anh, anh nghĩ rằng em có thể phản đối, ít nhất là phản đối điều đó.

Nhưng bức tường bê-tông che khuất bầu trời càng dần dần mất màu sắc và hòa tan vào bóng tối thì anh càng tức điên lên vì phải cố gắng để không bận tâm đến thời gian đang vận động một cách không thương xót. Em đọc đến chỗ nào rồi nhỉ? Chẳng khó gì mà không ước chừng được, nếu biết trung bình có thể đọc bao nhiêu trang trong một giờ. Giả sử là một phút một trang, như vậy là sáu mươi trang... Đã bốn giờ hai mươi phút trôi qua kể từ lúc ấy, như vậy là em sắp đọc xong. Nhưng cố nhiên, vì nhãng ý, em không thể không đọc lại một số chỗ. Có những lúc, như trong thời gian tầu tròng trành trên biển, em phải nghiến răng tự kìm nén. Nhưng dù em đọc ngắt quãng thế nào đi nữa, em sẽ chỉ cần một tiếng nữa là cùng... Đến đây, chẳng có nguyên nhân gì, anh bật dậy và lập tức nghĩ rằng nói chung anh chẳng có việc gì phải trở dậy, nhưng bây giờ anh chẳng muốn đi nằm lại nữa. Anh trở dậy, bật đèn và đặt ấm trà lên bếp hơi.

Lúc ở bếp ra, bất ngờ anh cảm thấy hơi hướng của em. Có lẽ đấy là mùi mỹ phẩm từ bàn điểm trang đặt trong phòng ngủ cạnh cửa.

Anh lợm giọng như thường thấy khi bôi iốt vào sâu trong họng. Có lẽ đấy là phản ứng tức thời của những con đỉa đã bò ra ngoài. Nhưng anh đã một lần thủ vai trong vở kịch những mặt nạ, vậy bây giờ anh có quyền nhăn mặt khinh bỉ đối với những mỹ phẩm mà người khác dùng hay không? Cần dễ tính hơn. Anh phải mãi mãi vượt lên trên cái thành kiến trẻ con chống lại mỹ phẩm và tóc giả. Thế là, theo phương pháp người ta dùng để chữa sự ghê tởm rắn, anh tập trung tất cả sức chú ý vào tâm lý mỹ dung. Mỹ dung... Tạo tác ra bộ mặt... Đương nhiên nó là sự phủ định bộ mặt thật. Một cố gắng táo bạo - bằng cách thay đổi vẻ mặt, cố gắng nhích lại gần người khác dù chỉ là một bước. Nhưng khi thuật mỹ dung đem lại hiệu quả mong đọi... Khi ấy liệu phụ nữ có cảm thấy ghen với thuật mỹ dung ấy không? Có cái gì khó nhận ra... Và đây mới là điều kỳ lạ này. Tại sao ngay cả người phụ nữ cả ghen nhất cũng không hề phản ứng đối với một người khác đã chiếm đoạt bộ mặt của mình? Có lẽ đó là do sự dư thừa lòng hy sinh và trí tưởng tượng không cho phép định rõ sự khác nhau giữa mình và người khác chăng?... Tất cả những cái đó đều bắn trệch đích và không chữa khỏi sự ghê tởm mỹ phẩm. (Cố nhiên bây giờ thì mọi chuyện đều khác. Nếu là bây giờ thì anh nghĩ rằng anh sẽ tiếp tục lập luận như sau. Phụ nữ có khả năng ghen với thuật mỹ dung của mình, có lẽ do bản năng họ thấy rõ sự xuống giá của bộ mặt thật. Quên đi quyền sở hữu, bằng bản năng họ cảm thấy giá trị của bộ mặt thật chẳng qua chỉ là dấu tích còn sót lại của cái thời mà tài sản thừa kế là sự đảm bảo cho địa vị xã hội. Có lẽ điều đó chứng minh rằng họ thực tế và có lý hơn nhiều so với cánh đàn ông vẫn cứ bám lấy giá trị của bộ mặt thật chăng? Của đáng tội, chính những phụ nữ ấy lại đề ra việc cấm dùng mỹ phẩm khi chuyện đó dính líu đến trẻ em. Có lẽ trong thâm tâm họ, sự lo ngại vẫn làm tổ ở một nơi nào đó chăng? Nhưng dẫu sao, trách nhiệm về điều đó không chỉ ở sự thiếu tự tin của phụ nữ, mà chủ yếu là ở tính bảo thủ của nền giáo dục tiểu học. Nếu như ngay từ ghế nhà trường phổ thông ta đã tiêm nhiễm vào ý thức học sinh quan niệm về ích lợi của thuật mỹ dung thì đàn ông sẽ tiếp nhận mỹ dung mà không chống đối... Thôi được, đủ rồi. Dù anh có đưa ra bao nhiêu cách thanh minh thì rốt cuộc đấy cũng chỉ là những lời bào chữa thảm hại của kẻ bị cáo. Bất kể thế nào, duy có một điều rõ ràng - ngay cả cái mặt nạ cũng không có khả năng chữa cho anh khỏi sự ghê tởm các mỹ phẩm).

Để khuây lắng đi, anh bật máy thu hình. Không may vẫn cứ là không may - đang mục thời sự nước ngoài lại đúng là truyền hình cuộc đấu tranh của người Mỹ da đen. Một người da đen bất hạnh, sơ-mi rách xoạc, bị mấy tên cảnh sát da trắng lôi xềnh xệch đi, còn phát thanh viên cho biết bằng một giọng thông thạo:

- Những vụ lộn xộn ở Nữu Ước về vấn đề chủng tộc gây nên bao nhiêu phiền nhiễu khi sắp bước vào một mùa hè đen tối dài đằng đẵng và đã dẫn tới những kết quả mà những người am hiểu đã dự đoán. Năm trăm cảnh sát, da trắng và da đen, đội mũ sắt, tràn ngập các đường phố Harlem. Đã thi hành những biện pháp phòng ngừa như hồi mùa hè năm 1943. Ở nhiều nhà thờ, đồng thời với việc làm lễ ngày chủ nhật đã có những cuộc mít tinh phản đối. Cảnh sát và dân phố Harlem nhìn nhau một cách khinh bỉ và ngờ vực...

Anh lâm vào một trạng thái thật đáng ghét, đau đớn và buồn tiếc, như thể có chiếc xương cá nhọn mắc trong răng. Cố nhiên, giữa anh và người da đen không có gì chung, trừ một điều cả hai đều là đối tượng của thành kiến. Người da đen có các đồng chí, những người cũng như anh ta, còn anh hoàn toàn cô độc. Vấn đề người da đen có thể thành vấn đề xã hội nghiêm trọng, còn sự việc liên can đến anh chỉ nằm trong khuôn khổ cá nhân và không thể nhích một bước ra khỏi khuôn khổ đó. Nhưng những cảnh rối loạn đó khiến anh nghẹt thở, vì anh bỗng hình dung ra mấy ngàn người đàn ông và đàn bà cũng không còn mặt như anh tụ tập với nhau. Không biết chúng tôi chống thành kiến có kiên quyết như những người da đen không nhỉ? Không, không thể được. Đúng hơn cả là chúng tôi sẽ choảng nhau vì chúng tôi cũng ghê tởm sự xấu xí của chính chúng tôi, hay chúng tôi sẽ chạy thất tán đi để khỏi phải nhìn thấy nhau. Nhưng cái đó vẫn còn có thể chịu đựng được. Cái gay là anh bị lôi cuốn bởi ý nghĩ về tình trạng rối loạn. Không có gì cần thiết rõ rệt, nhân cái cớ đầu tiên vừa chộp được, bầy quái vật chúng tôi sẽ tấn công vào mặt của những người bình thường. Vì căm thù chăng? Hay có lẽ vì một ý muốn bí mật hoàn toàn vụ lợi: tiêu diệt bộ mặt bình thường và bổ sung thêm cho hàng ngũ của mình dù chỉ là một người? Chắc hẳn cả cái này lẫn cái kia đều có thể là tác nhân kích thích đủ xác đáng, nhưng bao trùm lên tất cả là niềm mong muốn thiết tha được làm người lính thường lẫn trong cái vũng xoáy của cuộc nổi đậy. Thì chính người lính thực hiện một sự hiện hữu hoàn toàn vô danh. Tuy anh ta không có bộ mặt, điều đó không ngăn cản anh ta làm tròn bổn phận, và như vậy ý nghĩa sự hiện hữu được đảm bảo đối với anh ta. Đột nhiên mới vỡ lẽ ra rằng đơn vị quân đội không có diện mạo là một tốp lính lý tưởng. Một đơn vị chiến đấu lý tưởng không run sợ xông lên phá hoại để mà phá hoại.

Trong mơ ước, mọi việc có thể xảy ra chính như vậy. Nhưng thực ra anh vẫn cô độc như trước. Anh, kẻ chưa từng giết hại lấy một con chim nhỏ, tuy trong túi có khẩu súng lục hơi. Anh căm ghét tắt máy thu hình, nhìn đồng hồ - thời gian anh dành cho em sắp hết.

Lập tức, anh mất hết bình tâm. Anh lắng nghe tùng âm thanh, cứ mấy phút lại nhìn đồng hồ - cái cảm giác đáng ghét như trong thời gian lụt, khi nước dâng lên không cách gì ngăn lại được. Khoan, tiếng bước chân!... Không, đấy là con chó hàng xóm cất tiếng sủa, rõ ràng là người khác, Còn bây giờ? Lại không phải rồi... Chân em bước không nặng như vậy. Đấy này, ô-tô đã dừng lại, tiếng cửa xe sập lại, nhưng tiếc thay lại ở cái ngõ sau nhà. Anh mỗi lúc một lo lắng hơn. Rốt cuộc thì đã xảy ra chuyện gì? Có chuyện gì xảy ra không? Có lẽ em bị hỏng xe chăng? Hay một kẻ phóng đãng nào bám theo em chăng? Nhưng nếu vậy thì ít ra em cũng có thể gọi điện thoại. Ngay cả em, một người đàn bà thích hư hỏng như thế... Không nên, có những cái không thể đem ra đùa cợt được. Sự việc đã xảy ra mang một lớp da mềm mại, mỏng mảnh đến nỗi không thể đụng chạm đến nó bằng ngôn từ được...

Nếu anh lo lắng đến thế thì có lẽ hay nhất là đi đón em chăng? Chẳng can gì phải nóng vội! Anh sẽ đi ra ngay bây giờ, và chúng ta sẽ không gặp nhau, sự việc sẽ kết thúc ở đó. Mà cho dù em đã đọc hết đi nữa thì em vẫn có thể cần nhiều thời giờ hơn anh tưởng để tiêu hóa những cái đã đọc, để nghiền ngẫm xem trả lời anh như thế nào thì hơn. Ngoài ra, em còn phải chôn vùi cái mặt nạ mà anh phó thác cho em định liệu. Mấy quyển vở thì em sẽ giữ lại để làm tang chứng, nhưng dù sao, để xóa sạch hết vết tích của giấc mơ xấu đó, em sẽ muốn băm vằm, xé vụn cái mặt nạ và cái cúc, việc đó có thể đòi hỏi nhiều thời gian hơn anh dự tính. Nói chung, bây giờ tất cả là ở thời gian. Không loại trừ khả năng là em đang trên đường về nhà. Chỉ một phút nữa em sẽ đi lên bậc tam cấp, sẽ bấm hai hồi chuông ngắn như thường lệ... Thêm hai phút nữa... Thêm một phút nữa...

Không có gì. Anh sẽ thử lại từ đầu. Thêm năm phút nữa... Bốn phút nữa... Ba phút nữa... Hai phút nữa... Một phút nữa... Anh lắp đi lắp lại trò đó bất tận, đã chín giờ, mười giờ, rồi kim nhích gần tới mười một giờ. Thân hình anh căng thẳng, biến thành những ống thép ngân lên lanh lảnh, dội tiếng theo tiếng ồn ào ngoài đường. Anh thì thầm tự hỏi mình. Còn có thể xảy ra chuyện gì nữa?... Em không về nhà thì còn đi đâu được nữa?... Nhưng không tìm được câu trả lời nào cả... Lẽ đương nhiên thôi... Không thể có câu trả lời... Nếu em hiểu đúng những ghi chép của anh...

Đột nhiên anh văng ra câu chửi. Anh vừa chửi vừa lật bật lấy băng quấn mặt, rồi hé cửa nhảy đại ra đường. Cớ sao anh còn chần chừ? Nếu vậy thì cuối cùng phải quyết một bề. Có lẽ đã muộn rồi! Muộn rồi ự? Muộn cái gì? Chính anh cũng không biết rõ tại sao anh dùng tiếng đó, nhưng những linh cảm thật ảm đạm, tràn đầy không khí bất hạnh nóng bỏng, như thể anh bị dồn sâu vào họng con quái vật.

... Và những linh cảm ấy thế mà đúng. Khi anh đến gần ngôi nhà mà anh thuê buồng thì đã ngót mười hai giờ. Trong phòng không sáng đèn, không có dấu hiệu nào chứng tỏ có người hiện ở đây. Tự chửi rủa mình không tiếc lời về thói tự thị quá đáng nó xui anh chờ đợi đến tận giờ này, anh lên cầu thang sau và cảm thấy miệng đắng ngắt, anh mở cửa. Tim đập thình thịch như nện vào tờ giấy parfin mỏng. Thấy rõ ràng trong buồng không vang ra một âm thanh nào cả, anh bật đèn. Không có em. Cũng không có xác em. Trong buồng không có gì thay đổi kể từ lúc anh rời khỏi đấy. Trên bàn ba quyển vở nằm ngay ngắn và thậm chí mẩu giấy trên đó anh viết, bảo em đọc từ trang đầu của quyển đầu, cũng vẫn còn đấy, được chặn bằng lọ mực. Có lẽ em không đến căn buồng này chăng? Anh càng băn khoăn hơn... Tuy rằng chắc anh sẽ thanh thản hơn nếu em biệt tăm mà không đọc, chứ không phải là đọc xong rồi trốn tránh. Đằng nào thì sự bất hạnh cũng đã xảy ra. Anh nhìn vào tủ. Không có dấu hiệu nào chứng tỏ em đã động đến cái mặt nạ và cái cúc.

Tuy rằng, hãy khoan... Hơi hướng... cái mùi chớm lên mốc lẫn với bụi, chắc chắn là hơi hướng của em. Như vậy là em có đến. Nhưng mọi vật, cho đến cả mẩu giấy anh viết cho em, đâu vẫn ở đấy, có thể là dấu hiệu chứng tỏ rằng em không ngó ngàng gì đến mấy quyển vở... Nhưng vậy thì em đến để làm gì?

Tình cờ nhìn mảnh giấy, anh giật mình, vẫn là mảnh giấy anh viết, nhưng nét chữ hoàn toàn khác. Đây là thư cho anh mà em viết ở mặt sau mảnh giấy. Có lẽ đọc xong mấy quyển vở, em bỏ chạy. Vậy là đã xảy ra điều tệ hại nhất trong những điều anh dự đoán.

Không, không nên dùng những tiếng “tệ hại nhất” một cách dễ dãi như thế. Nội dung lá thư vượt quá mọi giả định của anh, làm anh bàng hoàng. Sợ hãi, bối rối, đau đớn, khổ tâm - tất cả những điều đó không thấm vào đâu so với cái mà anh cảm thấy lúc đó. Như trong bức tranh nhỏ bí ẩn mà chỉ một nét vẽ đủ biến con bọ thành con voi, mọi mưu toan của anh biến thành cái đối lập với điều anh dự tính. Quyết tâm của cái mặt nạ. Những sáng kiến của cái mặt nạ... Cuộc đấu tranh với bộ mặt thật... Mọi hy vọng của anh mà anh thử thực hiện nhờ những ghi chép này hóa ra lại biến thành một trò hề ngớ ngẩn. Khủng khiếp. Ai có thể tưởng tượng rằng con người có khả năng chế nhạo mình như thế, phỉ nhổ bản thân mình như thế?...

Chú thích:

[1] Tiếng Nga là blijnhi, tiếng Pháp là prochaine, một khái niệm tôn giáo để chỉ tất cả những ai khác ta. Có khi dịch là đồng loại, hoặc là người xung quanh (ND).

[2] “Truyện Ghenđơzi” - một cuốn tiểu thuyết của Nhật thế kỷ XI (N.D).