← Quay lại trang sách

Chương 1

Bước vào đời, tôi làm “thằng nhỏ” cho một hiệu giày “thời trang” ở phố chính của thành phố.[9]

Lão chủ của tôi người nhỏ bé, tròn trĩnh, mặt nhẵn lì ngăm ngăm nâu, răng nhờ nhờ xanh, cặp mắt đờ đẫn màu xám đục. Tôi tưởng lão mù và muốn thử xem có thật như vậy không, liền nhăn mặt lại.

- Này, đừng có nhăn cái mõm. – Lão nói nhỏ nhưng nghiêm khắc.

Thật là khó chịu khi cặp mắt mờ đục kia thấy được tôi. Và cũng khó mà tin được rằng chúng còn trông thấy rõ. Có lẽ lão chủ chỉ đoán mò là tôi nhăn nhó chăng?

- Tao đã bảo mày là đừng có nhăn cái mõm. – Lão nói nhỏ hơn trước, cặp môi dày hầu như không động đậy. – Đừng gãi tay. – Tiếng thì thào khô khan của lão vọng đến tôi. – Phải nhớ rằng mày làm việc trong một cửa hiệu sang nhất ở phố chính của thành phố. Làm thằng nhỏ thì phải đứng nghiêm bên cửa như một ông phỗng…

Tôi không biết “như ông phỗng” là thế nào và cũng không thể nào không gãi tay được: Hai tay tôi đầy nốt đỏ và mụn lở đến khuỷu, ghẻ cắn rứt ngứa không chịu được.

Lão chủ xem tay tôi và bảo:

- Mày làm những trò gì ở nhà?

Tôi kể hết mọi chuyện. Lão lúc lắc cái đầu tròn có dính mớ tóc hoa râm và khinh bỉ nói:

- Cái nghề đi lượm lặt và mua bán giẻ rách, đồ cũ của mày thật còn tồi tệ hơn cả nghề ăn mày, tồi tệ hơn cả nghề ăn cắp!

Tôi tuyên bố một cách kiêu hãnh:

- Thì cháu cũng đã từng ăn cắp rồi.

Lão chủ liền duỗi tay lên mặt quầy như con mèo duỗi chân, hoảng hốt nhìn chòng chọc vào mặt tôi bằng cặp mắt trống rỗng, rít lên:

- Sao…o? Ăn cắp à?

Tôi giải thích cho lão nghe tôi đã ăn cắp những gì và ăn cắp như thế nào.

- Hừ, những cái đó thì không hề gì. Nhưng nếu mày ăn cắp giày hoặc tiền của tao, tao sẽ tống cổ mày vào nhà tù cho đến tuổi thành niên…

Lão nói câu đó một cách bình thản. Tôi sợ hãi và càng không ưa lão.

Ngoài lão chủ ra, trong hiệu còn có em họ tôi là Sascha Yaakov[10] đảm nhiệm việc bán hàng và một gã quản lí người hồng hào, lanh lợi, ăn nói ngọt ngào. Sascha mặc áo khoác ngoài hoe hoe nâu, áo sơ mi hồ cứng ngực, thắt cà vạt, quần bỏ ngoài ủng. Nó có vẻ kiêu hãnh, không để ý đến tôi, khi ông ngoại dẫn tôi đến trước mặt lão chủ và nhờ Sascha giúp đỡ, dạy bảo tôi, nó cau mày ra vẻ trịnh trọng rồi giao hẹn:

- Cần nhất là nó phải nghe lời cháu mới được!

Ông ngoại đặt tay lên đầu tôi, cúi xuống bảo:

- Cháu hãy nghe lời nó nhé! Nó vừa lớn tuổi hơn cháu, vừa chức vụ cao hơn…

Sascha trợn tròn mắt nhấn mạnh:

- Nhớ lời ông dặn đấy!

Và ngay từ buổi đầu nó đã ra sức lợi dụng mọi quyền hành của nó.

- Kashmirin[11], đừng trợn mắt lên như vậy. – Lão chủ khuyên nó.

- Không… Có gì đâu.

Sascha trả lời và cúi đầu xuống, nhưng lão chủ chưa tha:

- Đừng có bướng. Khách mua hàng có thể nghĩ rằng mày là một con dê đấy…

Gã quản lí cười nịnh, lão chủ trề môi ra nom thật dị dạng, còn Sascha thì đỏ mặt tía tai chuồn ra phía sau quầy.

Tôi không thích những câu nói như vậy. Có nhiều chữ tôi nghe không hiểu. Đôi lúc tôi có cảm giác như họ nói với nhau bằng tiếng nước ngoài.

Mỗi khi có một bà khách vào cửa hiệu, lão chủ liền rút tay ra khỏi túi, vuốt vuốt bộ ria mép và gắn lên mặt một nụ cười đến là ngọt ngào làm cho má lão đầy những nếp nhăn, nhưng vẫn không thay đổi được cặp mắt gà mờ của lão. Gã quản lí đứng thẳng người lên, khép chặt cùi tay vào hông, bàn tay trang trọng duỗi ra trong không khí. Sascha thì sợ hãi chớp mắt lia lịa, cố giấu đôi mắt lồi đi. Tôi đứng cạnh cửa, lén gãi tay và theo dõi mọi nghi thức bán hàng.

Gã quản lí quỳ trước bà khách, ướm giày cho bà. Những ngón tay của gã xòe ra khéo léo lạ thường. Tay run rẩy, gã thận trọng chạm vào chân người đàn bà như sợ làm gãy mất chân người ta, mà chân bà khách thì to tướng, giống như một cái chai bầu bầu dốc ngược.

Có lần một bà khách giãy chân, co rúm người lại, thốt lên:

- Ôi, bác làm tôi buồn cười quá…

- Dạ, chúng tôi làm theo phép lịch sự ạ. – Gã quản lí vội vã giải thích một cách sôi nổi.

Thật là buồn cười khi trông gã quấn lấy các bà khách. Tôi phải quay mặt vào tấm kính cửa ra vào để khỏi bật cười. Nhưng vẫn không làm sao cưỡng lại được ý muốn theo dõi cảnh mua bán đó. Tôi rất thích thú được xem quản lí tiếp khách, bụng nghĩ rằng chẳng bao giờ mình lại có thể xòe tay ra, nhã nhặn được như thế kia, lại có thể ướm giày vào chân kẻ khác một cách khéo léo đến thế được.

Thường thì lão chủ hay bỏ vào căn buồng con ở sau quầy hàng và gọi cả Sascha vào theo để một mình gã quản lí ở ngoài với bà khách. Có lần, sau khi chạm vào chân một bà tóc hung, gã chụm ngón tay lại và hôn vào đầu mấy ngón tay đó.

- Ồ, cái bác này thật là tinh nghịch! – Người đàn bà dài giọng.

Gã phồng má lên và nói một cách khó nhọc:

- Ph…u!

Tôi không nén được, cười phá lên, đến nỗi sợ đứng không vững, tôi phải bám vào nắm đấm cửa. Cánh cửa bật ra, tôi đập đầu vào tấm kính và làm vỡ mất một mảng. Gã quản lí lấy chân đạp lên người tôi, lão chủ gõ chiếc nhẫn vàng mặt đá nặng lên đầu tôi. Còn Sascha thì cố sức véo tai tôi, chiều tối, lúc đi về nhà, nó nghiêm khắc bảo:

- Người ta sẽ đuổi mày vì những trò ấy đấy! Hừ, có cái gì đáng buồn cười đâu cơ chứ?

Và nó giảng giải cho tôi rõ, nếu gã quản lí được các bà khách hàng thích thì hiệu sẽ đắt hàng hơn.

- Các bà ấy cũng chẳng cần giày đâu, nhưng vẫn đến mua thêm một đôi cốt để nhìn bác quản lí dễ thương mà thôi. Có thế mà mày cũng không hiểu. Thật là vất vả vì mày.

Câu nói đó làm tôi rất ức. Có ai vất vả vì tôi đâu, nhất là Sascha thì lại càng không liên quan gì đến chuyện này cả.

Sáng nào mụ bếp – một người đàn bà ốm yếu và hay cáu kỉnh – cũng đánh thức tôi dậy trước Sascha một giờ. Tôi đánh giày, chải áo cho chủ, cho gã quản lí và Sascha, đun ấm samovar, chuyển củi vào tất cả các bếp lò, cọ rửa bát đĩa chuẩn bị cho bữa trưa. Sau đó tôi ra ngoài hiệu quét nhà, lau bụi, pha trà, đi giao hàng cho khách, rồi về nhà ăn trưa. Trong thời gian đó Sascha làm nhiệm vụ canh cửa thay tôi. Cảm thấy công việc này làm giảm giá trị của mình, nó chửi tôi:

- Đồ bị thịt! Tao phải làm thay cho mày như thế này đây…

Với tôi cuộc sống như vậy thật là nặng nề và buồn tẻ. Tôi đã quen sống độc lập từ sáng đến tối trên những đường phố đầy cát ở Kunavino, trên bờ sông Oka ngầu đục, giữa đồng ruộng, trong rừng cây. Thiếu bà ngoại và bè bạn, tôi chẳng biết trò chuyện cùng ai. Mà cuộc đời thì cứ trêu chọc tôi, phơi ra trước mắt tôi cái mặt trái đầy dối trá, xấu xa của nó.

Những khi khách ra khỏi hiệu mà không mua gì, cả ba đều có vẻ bực tức. Lão chủ cất ngay nụ cười ngọt ngào vào tủ, ra lệnh:

- Kashmirin, cất hàng đi!

Và chửi đổng:

- Hừ, đồ con lợn, lục lọi mãi! Con mụ ngu ngốc đó ngồi mãi ở nhà buồn tình nên mới lang thang mò vào các hiệu. Mày mà là vợ tao thì cứ gọi là…

Vợ lão chủ là một người đàn bà khô đét, mắt đen, mũi to. Mụ ta thường giậm chân quát tháo lão như quát tháo đầy tớ.

Thường thường, sau khi lịch sự cúi đầu chào và nói những câu nhã nhặn tiễn một bà khách quen, họ lại kể với nhau những điều bẩn thỉu, bỉ ổi về bà ta, khiến tôi chỉ muốn chạy ngay ra phố, đuổi kịp bà khách và kể hết cho bà nghe những điều người ta đã nói về bà.

Tất nhiên tôi cũng biết rằng người đời nói chung thường hay nói xấu nhau sau lưng, nhưng đằng này bọn họ bình phẩm mọi người một cách thật quá bỉ ổi, tựa hồ như họ đã được công nhận là những kẻ siêu việt nhất, có quyền phê phán cả thiên hạ. Vì lòng ganh tị nên chẳng bao giờ họ khen ai. Đối với ai họ cũng moi ra được một điều xấu xa nào đó.

Một lần có một thiếu phụ trẻ tuổi vào cửa hàng. Thiếu phụ có đôi gò má ửng hồng, cặp mắt sáng long lanh. Nàng khoác một cái áo choàng nhung cổ bọc lông thú đen. Khuôn mặt thiếu phụ nhô lên trên đám lông thú trông như một bông hoa kì diệu. Sau khi cởi áo choàng và ném lên tay Sascha, thiếu phụ trông càng diễm lệ. Thân hình cân đối của nàng bó sát trong tấm áo lụa màu xanh xám, trên tai nàng óng ánh những hạt kim cương. Trông nàng giống như Vassilissa xinh đẹp[12] và tôi chắc đó chính là bà tỉnh trưởng. Mọi người đối với nàng rất kính cẩn. Họ cúi rạp xuống trước mặt nàng như trước mặt nữ hoàng[13] và không ngớt lời ca tụng. Cả ba chạy lồng lộn trong cửa hàng như một lũ quỷ. Bóng họ lướt trên các tấm gương của tủ hàng, tựa như xung quanh mọi vật đều bốc cháy, tan biến và sắp hiện ra một cảnh khác, những hình dáng khác.

Nhưng sau khi thiếu phụ chọn mua xong rất nhanh một đôi giày đắt tiền và ra khỏi hiệu, lão chủ liền phì một cái và rít giọng:

- Đồ chó cái…

- Nữ tài tử mà lại! – Gã quản lí phụ họa với một vẻ khinh khi.

Và họ kể cho nhau nghe về những tình nhân của thiếu phụ, về sự ăn tiêu hoang tàng của nàng.

Ăn trưa xong, lão chủ ngủ trong căn buồng con sau cửa hiệu. Tôi mở cái đồng hồ vàng của lão ra và nhỏ dấm vào. Tôi rất thích thú thấy lão, sau khi thức giấc, cầm đồng hồ từ trong buồng ra ngoài hiệu, ngơ ngác lầm bầm:

- Quái, sao lại thế này? Tự dưng đồng hồ toát mồ hôi, chưa bao giờ có chuyện kì lạ như vậy! Có lẽ là điềm gở chăng?

Mặc dù suốt ngày chạy ngược chạy xuôi trong cửa hiệu, bận rộn với những công việc ở nhà, tôi vẫn thấy buồn tẻ vô cùng. Càng ngày tôi càng hay nghĩ đến cách làm thế nào để họ có thể đuổi mình khỏi cửa hiệu.

Ngoài cửa, những khách bộ hành người phủ đầy tuyết lặng lẽ lướt qua. Tựa như họ đi chôn cất ai, đưa tiễn ai ra nghĩa trang, nhưng vì chậm chân vào giờ khởi hành nên vội vã đuổi theo quan tài. Những con ngựa run rẩy vượt qua các tảng tuyết to một cách khó nhọc. Đương tuần chay lớn, hằng ngày những tiếng chuông rầu rĩ từ gác chuông nhà thờ sau cửa hiệu vọng tới. Tiếng chuông như một chiếc gối bông đập vào đầu: Không đau, nhưng nó làm cho mình đần độn đi và váng cả óc.

Một hôm, giữa lúc tôi đang tháo một thùng hàng mới về ở ngoài sân cạnh cửa hiệu thì ông già coi nhà thờ đến. Ông già bị vẹo sườn, người mềm như làm bằng giẻ rách. Trông ông lôi thôi lếch thếch như vừa bị chó cắn xé.

- Cháu là con của Chúa, cháu hãy lấy trộm cho ông một đôi giày cao su[14] nào! – Ông già gạ gẫm.

Tôi lặng thinh. Ông già ngồi lên chiếc thùng rỗng, ngáp dài, làm dấu thánh giá trước miệng rồi lại nằn nì:

- Thế nào, xoáy cho ông một đôi chứ?

Tôi bảo ông ta:

- Không được ăn cắp!

- Thế mà người ta vẫn ăn cắp đấy cháu ạ. Cháu nên kính trọng tuổi già mới được!

Thật là dễ chịu khi thấy ông già chẳng giống những người sống với tôi tí nào. Tôi cảm thấy ông ta hoàn toàn tin tưởng vào việc tôi sẽ lấy cắp. Tôi đồng ý đưa qua cửa sổ thông hơi cho ông một đôi giày cao su.

- Thế là tốt rồi. – Ông già thản nhiên nói, không tỏ vẻ gì là vui mừng. – Không lừa ông chứ? Hề hề, ông cũng biết là cháu không lừa ông đâu…

Ông ngồi yên một lúc, lấy đế giày gạt lớp tuyết ướt bẩn, kéo một hơi thuốc trong cái tẩu bằng đất nung rồi thình lình dọa tôi:

- Nhưng nếu ta lừa chú thì sao? Ta sẽ mang chính đôi giày cao su đó đến cho ông chủ và nói rằng chú đã bán cho ta để lấy nửa rúp. Chú nghĩ thế nào? Giá đôi giày cao su những hơn hai rúp, vậy mà chú bán chỉ có nửa rúp? Để lấy tiền đi ăn quà mà lại! Chú nghĩ sao?

Tôi sửng sốt nhìn ông già, tưởng đâu như ông đã thực hiện điều ông vừa nói, nhưng ông vẫn ngồi nhìn xuống đôi giày, thở phì phèo những luồng khói xanh nhạt rồi nói nhỏ bằng giọng mũi:

- Giả sử như ông chủ bày kế cho ta rằng: Lão hãy đi dò thử thằng bé con xem nó ăn cắp tới mức nào, lúc bấy giờ thì chú tính sao?

- Tôi sẽ không cho ông nữa! – Tôi cáu kỉnh.

- Bây giờ thì muộn mất rồi. Đã hứa là phải cho thôi.

Ông ta cầm tay tôi kéo lại gần, gõ ngón tay cóng lạnh lên trán tôi và tiếp tục nói một cách uể oải:

- Tại sao tự dưng cháu lại cho như vậy, hả?

- Tại ông xin chứ.

- Ông có thể xin đến hàng trăm thứ nữa! Lỡ ông rủ cháu đi cướp nhà thờ cháu cũng đi à? Có nên tin người như vậy không? Cháu còn dại dột lắm…

Ông đẩy tôi ra rồi đứng dậy:

- Ông không cần những của ăn cắp đâu! Chẳng phải là giàu có gì mà đi giày cao su. Ông đùa cháu đấy thôi… Còn để khen thưởng lòng chất phác của cháu thì khi nào đến lễ Phục sinh ông sẽ cho cháu lên gác chuông mà kéo chuông, xem thành phố…

- Cháu đã biết thành phố rồi.

- Nhưng đứng trên gác chuông trông xuống đẹp hơn nhiều…

Rồi ông chậm chạp đi về phía góc sau nhà thờ, mũi giày sục vào trong tuyết. Tôi nhìn theo, buồn bã và kinh hãi nghĩ: “Có thật là ông già đùa mình, hay là do lão chủ phái đến để thử mình?” Tôi sợ không dám bước vào cửa hiệu.

Bỗng Sascha vụt chạy ra sân và kêu lên:

- Mày làm quái gì mà lâu thế!

Tôi nổi cáu, vung kìm lên.

Tôi vẫn biết Sascha và gã quản lí thường lấy cắp của lão chủ. Họ giấu từng đôi giày đôi dép vào ống lò sưởi, đến khi về thì đút vào ống tay áo bành tô. Tôi không ưa việc đó và nhớ đến lời dọa của lão chủ, tôi đâm lo.

- Mày ăn cắp à? – Tôi hỏi Sascha.

- Không phải tao mà là bác quản lí đấy. – Sascha nghiêm khắc giải thích. – Tao chỉ giúp bác ta thôi. Bác ấy nhờ tao giúp. Tao phải nghe lời, nếu không bác ta sẽ gây nhiều trò đê tiện với mình. Lão chủ ấy à! Lão ta trước kia cũng đã từng làm quản lí, lão còn lạ gì! Còn mày thì cứ câm họng lại!

Vừa nói nó vừa nhìn vào gương, sửa lại cà vạt, những ngón tay xòe ra một cách thiếu tự nhiên như gã quản lí thường làm. Nó luôn tỏ ra ta đây hơn tuổi và có uy quyền với tôi, quát tháo tôi bằng giọng ồm ồm, mỗi khi sai bảo điều gì thì lại vung tay ra phía trước nom đến ghét. Tôi cao hơn và khỏe hơn, nhưng gầy gò, vụng về, còn nó thì người đầy đặn, mỡ màng và mềm mại. Trông nó có vẻ đường hoàng trong cái áo khoác ngắn, ống quần bỏ ra ngoài ủng. Nhưng trong con người nó vẫn có một vẻ gì khó chịu, buồn cười. Nó rất ghét mụ bếp, một mụ đàn bà lạ lùng, khó mà biết được mụ hiền lành hay độc ác.

- Trên đời này tao thích nhất các cuộc đánh lộn. – Mụ nói, giương to cặp mắt đen đầy nhiệt tình. – Bất kì cuộc nào: chọi gà, chó cắn nhau, người vật nhau đều thế cả.

Hễ ngoài sân có gà hay chim cu cu chọi nhau là mụ vứt ngay công việc đấy rồi đứng ngây người nhìn qua cửa sổ, theo dõi cuộc kịch chiến cho đến khi kết thúc mới thôi. Chiều nào mụ cũng giục tôi và Sascha:

- Này, lỏi con, sao lại ngồi suông thế? Đánh nhau có hơn không?

Sascha cáu:

- Tôi không phải lỏi con của mụ, mụ nỡm ạ! Tôi là phó quản lí!

- Hừ, tao chẳng biết phó phiếc gì cả, đối với tao thì đứa nào chưa vợ đều là nhóc con tất.

- Mụ nỡm, sao mụ ngu ngốc thế…

- Quỷ sứ dù có thông minh thì Thượng đế cũng chẳng yêu nào.

Những câu ví von của mụ làm Sascha càng cáu tiết. Nó nhại mụ, mụ lườm nó một cách khinh bỉ:

- Mày là đồ bọ hung[15]! Trời nhầm đấy thôi!

Nhiều lần Sascha xui tôi nhằm lúc mụ ngủ bôi xi đen hay nhọ nồi lên mặt mụ, cắm đinh ghim vào gối của mụ hoặc tìm lối “đùa” mụ, nhưng tôi sợ không dám làm. Hơn nữa, mụ rất thính ngủ, hay tỉnh giấc. Thức dậy, mụ thắp đèn, ngồi trên giường nhìn vào một góc nào đó. Đôi khi mụ lại chỗ tôi nằm phía sau lò sưởi, đánh thức tôi dậy và nói, giọng khàn khàn:

- Mụ không sao ngủ được Leksejka[16] ạ. Trong người cứ bồn chồn lo sợ thế nào ấy! Chú nói chuyện với mụ đi!

Trong lúc nửa mơ nửa tỉnh, không hiểu tôi đã kể với mụ những gì. Mụ ngồi lặng lẽ, người lắc lư. Tôi có cảm giác như thân thể nóng bừng của mụ thoảng mùi trầm, mùi nến và tưởng như mụ sắp chết đến nơi. Rất có thể là ngay lập tức mụ sẽ ngã sấp mặt xuống sàn mà chết. Tôi nói to lên để át ý nghĩ kinh khủng đó, nhưng mụ ngăn tôi lại:

- Suỵt… Nói khẽ chứ, kẻo bọn đểu cáng kia thức giấc lại ngỡ chú là tình nhân của mụ đấy…

Bao giờ mụ cũng ngồi cạnh tôi theo một kiểu: Lưng khom khom, hai tay thu vào bụng, hai đầu gối xương xẩu kẹp chặt lấy bàn tay. Vú mụ lép kẹp. Thậm chí những cái xương sườn nhô ra dưới lần áo gai dày trông hệt như đai của một cái thùng khô rạn. Mụ ngồi lặng hồi lâu rồi bỗng thầm thì:

- Thà chết quách đi còn hơn là cứ buồn phiền thế này… – Và như hỏi một người nào. – Sống thế là đủ rồi đấy, còn gì nữa? Thôi, ngủ đi! – Mụ ngắt lời tôi đang kể, rồi vươn vai, lặng lẽ biến trong màn đen tối của căn bếp.

“Thật là một mụ phù thủy!…” Sascha nói sau lưng mụ như vậy.

Tôi bảo nó:

- Mày cứ nói thẳng vào mặt mụ ấy xem nào!

- Mày tưởng tao sợ à? – Sascha cãi nhưng rồi nhăn mặt. – Thôi, chẳng dại gì mà nói. Lỡ mụ là phù thủy thật thì cũng phiền…

Vốn tính quen khinh miệt và hay nổi nóng nên kể cả với tôi mụ cũng chẳng nể nang gì. Mới sáu giờ sáng mụ đã lôi chân tôi, quát tháo:

- Ngủ thế là đủ chảy thây ra rồi. Khuân củi vào đây! Đặt ấm samovar lên! Gọt khoai đi!

Sascha bị tỉnh giấc, càu nhàu:

- Mụ réo cái gì đấy? Không còn cho ai ngủ nữa. Tôi sẽ mách ông chủ cho mà xem…

Bước nhanh trong bếp với tấm thân gầy đét chỉ còn da bọc xương, mụ ngoảnh nhìn Sascha bằng đôi mắt đỏ ngầu vì mất ngủ.

- Thật là trời nhầm! Mày mà là con tao thì tao sẽ vặt lông mày.

- Đồ chết giẫm. – Sascha rủa mụ, và khi đi từ nhà tới cửa hiệu, nó bảo tôi. – Phải làm cho người ta tống cổ mụ đi mới được. Phải lén bỏ muối vào thức ăn. Nếu cái gì cũng mặn quá người ta sẽ đuổi mụ đi. Không thì đổ dầu hỏa càng tốt! Mày còn đợi gì nữa mà không làm?

- Thế sao mày không làm?

Nó “xì” một tiếng vẻ cáu kỉnh:

- Đồ hèn nhát!

Mụ bếp chết ngay trước mắt chúng tôi: Mụ đang cúi người để bưng ấm samovar, thì bỗng ngồi thụp xuống sàn như bị ai hích vào ngực. Mụ lặng lẽ ngã nghiêng người, hai tay duỗi ra phía trước, máu ộc từ miệng.

Hai đứa chúng tôi hiểu ngay là mụ đã chết, nhưng vì quá kinh hãi nên cứ đứng nép vào nhau nhìn mụ hồi lâu, không thốt lên được một lời nào. Cuối cùng Sascha ba chân bốn cẳng chạy vụt ra khỏi bếp. Còn tôi thì không biết làm gì, nép mãi người về phía ánh sáng bên cửa sổ.

Lão chủ vào, lo lắng ngồi xổm bên cạnh, đưa ngón tay sờ vào mặt mụ bếp rồi nói:

- Chết thật rồi… Sao lại thế này?

Lão đi tới góc nhà, làm dấu trước tượng thánh “Nikolai Anh Linh”, cầu nguyện xong, lão truyền lệnh ra nhà ngoài:

- Kashmirin, chạy đi báo cảnh sát!

Một viên cảnh sát đến. Y đứng quanh quẩn một lúc, nhận tiền thù lao rồi bỏ đi. Một lát sau y lại đến, mang theo một người đánh xe ngựa. Kẻ nâng đầu, người đỡ chân, họ khiêng mụ bếp ra đường.

Từ nhà ngoài, mụ chủ thò đầu ra sai tôi:

- Mày lau sàn đi nhé!

Lão chủ nói:

- Cũng may mà nó chết vào buổi chiều đấy…

Tôi không hiểu tại sao như thế lại là may. Khi đi ngủ, Sascha nói với tôi bằng một giọng dịu dàng khác thường:

- Đừng tắt đèn nhé!

- Mày sợ à?

Nó kéo chăn trùm đầu và nằm yên lặng một lúc lâu. Đêm tĩnh mịch tựa như đang lắng nghe, chờ đợi điều gì. Tôi có cảm giác như chỉ phút chốc nữa người ta sẽ rung chuông báo động và dân chúng cả thành phố sẽ kéo nhau chạy, vừa hốt hoảng vừa la hét ầm ĩ.

Sascha ló mũi ra khỏi chăn, khe khẽ rủ:

- Ta leo lên lò sưởi nằm với nhau đi!

- Trên ấy nóng lắm!

Sau một lúc yên lặng, nó nói:

- Mụ ta chết nhanh nhỉ? Đúng là một mụ phù thủy… Tao không làm sao mà ngủ được!…

- Tao cũng khó ngủ quá.

Sascha liền kể cho tôi nghe những chuyện về người chết. Họ chui ra khỏi mộ, lang thang đến nửa đêm trong thành phố để tìm nơi ở cũ, tìm họ hàng thân thuộc.

- Ma chỉ nhớ có thành phố thôi. – Sascha thì thào. – Nó không nhớ phố và số nhà đâu.

Không khí như trầm hẳn. Trời như tối hơn. Sascha ngóc đầu lên hỏi:

- Mày có muốn xem hòm của tao không?

Đã từ lâu tôi muốn biết nó giấu những gì trong hòm. Nhưng nó khóa hòm bằng một ổ khóa treo, lúc nào trước khi mở cũng nhìn trước nhìn sau cẩn thận. Nếu bắt gặp tôi định ngó xem, nó hỏi một cách thô bạo:

- Mày muốn cái gì? Hử?

Thấy tôi đồng ý, nó ngồi trên giường không cho chân xuống sàn và lên giọng sai tôi bưng hòm đặt lên giường, sát tận chân cho nó. Chiếc chìa khóa cùng với cây thánh giá được nó đeo trước ngực. Sau khi nhìn quanh các góc bếp tối om, nó trịnh trọng mở khóa rồi thổi lên nắp hòm tựa như nóng lắm, sau đó mới hé nắp, lôi vài bộ quần áo ra.

Một nửa hòm chất đầy vỏ hộp thuốc, những bó giấy gói chè đủ các màu, những vỏ hộp đựng xi, đựng cá trích…

- Gì thế này?

- Rồi mày sẽ thấy…

Nó cúi lom khom, hai chân cặp chắc lấy cái hòm và hát nho nhỏ:

- Lạy Cha ở trên trời…

Tôi chờ đợi được trông thấy các món đồ chơi: Xưa nay tôi chưa bao giờ có lấy một thứ đồ chơi gì. Bề ngoài tôi có vẻ khinh thường nhưng trong bụng vẫn ngầm ganh tị với những kẻ có đồ chơi. Tôi rất thích thấy một tay đứng đắn như Sascha mà cũng có đồ chơi. Mặc dầu nó xấu hổ vì chuyện đó và che giấu tôi, tôi vô cùng thông cảm với sự xấu hổ đó.

Mở hộp đầu tiên, nó lôi ra một cái gọng kính, đeo lên mũi, rồi vừa nhìn tôi một cách đạo mạo vừa nói:

- Tuy không có mắt nhưng cũng chẳng sao. Như thế này cũng đã là kính rồi!

- Đưa tao xem nào!

- Không hợp với mặt mày đâu! Kính này dùng cho mắt màu sẫm, còn mắt mày thì trong quá. – Nó giảng giải và đằng hắng bắt chước lão chủ, nhưng đột nhiên hốt hoảng nhìn quanh bếp.

Trong vỏ hộp xi có đựng nhiều loại khuy khác nhau. Nó kiêu hãnh giải thích:

- Tất cả những cái này tao đều nhặt ở ngoài phố đấy. Đã được ba mươi bảy cái rồi…

Hộp thứ ba đựng đầy kim găm to bằng đồng – cũng đều nhặt được ở ngoài phố. Rồi đến các loại đế giày, có cái mòn cũ, có cái đã gãy, có cái còn nguyên, những khóa giày, khóa dép, một quả đấm cửa bằng đồng, mảnh cán ngà gãy của chiếc can, một cái trâm cài đầu của con gái, một quyển Đoán mộng và bói toán cùng vô số những vật linh tinh đại loại như thế.

Trong quá trình “hành nghề” lượm giẻ rách và xương xẩu, tôi có thể dễ dàng sưu tầm những của vớ vẩn như thế này nhiều gấp mười lần trong vòng một tháng. Những món đồ của Sascha khiến tôi thất vọng. Tôi ngượng ngùng và xót xa thương hại nó. Còn nó thì vẫn chăm chú xem xét từng cái một, vuốt ve chúng một cách trìu mến, đôi môi dày trịnh trọng bĩu ra, cặp mắt lồi nhìn một cách xúc động và lo âu. Cái kính làm cho khuôn mặt non trẻ của nó trở nên buồn cười.

- Mày lấy những cái này làm gì?

Nó liếc tôi qua cặp gọng kính rồi hỏi, giọng lanh lảnh:

- Mày có muốn tao cho mày một cái gì không?

- Không, tao chẳng cần…

Rõ ràng bị chạm tự ái vì tôi từ chối và hờ hững với kho tàng của nó, yên lặng một lúc, nó khẽ tiếp:

- Đem khăn mặt lại đây, ta cùng lau tất cả đi, bụi lắm…

Sau khi lau chùi và cất các món đồ, nó lại tót vào chăn, nằm quay mặt vào tường. Trời đổ mưa, nước nhỏ giọt từ mái xuống. Gió đập vào cửa sổ.

Sascha nói, không quay mặt về phía tôi:

- Chờ đấy. Khi nào khô ráo, tao sẽ cho mày xem cái này trong vườn. Cứ gọi là choáng người ra kia!

Tôi lặng thinh, nằm ngủ.

Sau chừng vài giây, Sascha đột nhiên vùng dậy, cào vào tường và nói với giọng đầy khích động:

- Con sợ quá… Lạy Chúa, con sợ quá mất thôi! Xin Chúa che chở cho con! Sao thế này?

Tôi sợ cứng người. Tôi tưởng như cạnh cái cửa sổ nhìn ra sân, mụ bếp đang đứng quay lưng lại, đầu cúi xuống, trán áp vào cửa kính, giống hệt hồi mụ còn sống đứng xem chọi gà vậy.

Sascha nức nở, tay vẫn cào tường, hai chân run giật. Tôi không nhìn xung quanh, lần qua bếp một cách khó nhọc như người bước trên đống than hồng, lại nằm với Sascha. Khóc một lúc, mệt quá, chúng tôi ngủ thiếp đi.

Sau đó ít hôm là ngày hội. Cửa hàng mở bán đến trưa rồi mọi người nghỉ ăn cơm. Khi lão chủ ăn xong đi ngủ, Sascha bảo tôi với một vẻ bí mật:

- Đi ra đây!

Tôi đoán ngay là giờ tôi sẽ được xem “cái này” của nó – cái khiến tôi phải “choáng người ra” đây.

Chúng tôi ra vườn. Trên một dải đất hẹp, mười lăm cây bồ đề già đứng giữa hai ngôi nhà, thân to phủ rêu xanh mượt như nhung; những cành trụi lá đen đủi nhô lên im lìm vắng lặng. Không có lấy một tổ quạ nào giữa những cành cây đó. Hàng cây đứng như những tấm bia trên nghĩa địa. Ngoài những cây bồ đề, trong vườn không có một bụi cây, một đám cỏ nào. Đất trên các lối đi bị giẫm nhiều, đen như gang. Ngay những khoảnh đất loang lổ phía dưới đám lá khô từ năm ngoái còn sót lại cũng phủ một lớp mốc trông như váng bèo trên mặt nước ao tù.

Sascha bước tới phía góc hàng rào sát với con phố và dừng lại dưới một gốc bồ đề. Nó trố mắt nhìn lên những ô cửa sổ mờ đục của nhà hàng xóm rồi ngồi xổm xuống, lấy tay bới đám lá, để lộ ra một cái rễ cây lớn, hai bên chèn hai hòn gạch vùi sâu xuống đất.

Nó nhấc gạch lên. Dưới hai hòn gạch là một tấm tôn. Dưới tấm tôn còn một mảnh ván hình vuông. Cuối cùng, trước mắt tôi hiện ra một cái hang to nằm sâu dưới rễ cây.

Sascha đánh diêm, đốt một mẩu nến cháy dở, luồn mẩu nến vào trong hang và bảo:

- Nhìn xem? Cốt là đừng có sợ…

Nhưng rõ ràng là chính nó cũng sợ. Mẩu nến trong tay nó rung rung. Mặt nó tái đi, đôi môi trễ ra nom rất khó coi, cặp mắt trở nên ươn ướt. Nó giấu cánh tay kia ra sau lưng. Sự kinh hãi của nó lây sang tôi. Tôi dè dặt nhìn cái hang dưới rễ cây. Khúc rễ làm thành vòm hang. Trong cùng, Sascha đốt ba ngọn nến, khiến cả hang tràn ngập một ánh sáng xanh nhờ nhờ. Hang khá to, sâu cỡ lòng một cái thùng nhưng rộng hơn, hai bên thành lát những miếng kính xanh đỏ và những mảnh ấm chén vỡ. Giữa hang, trên mô đất phủ vải đỏ là một chiếc quan tài nhỏ bọc giấy thiếc, một nửa quấn bằng một miếng vải liệm trông giống bằng gấm. Từ dưới tấm vải liệm nhô ra hai cái chân xám ngắt và một cái đầu chim sẻ mỏ nhọn hoắt. Một bàn thờ nhô cao sau quan tài, trên có đặt một cây thánh giá nhỏ bằng đồng mà người ta thường đeo trước ngực. Xung quanh bàn thờ, ba mẩu nến đang cháy trên những chân nến quấn giấy trang kim bọc kẹo.

Đầu ba ngọn lửa hướng về phía cửa hang. Các tia lửa – các đốm xanh đỏ tím vàng – chiếu sáng lờ mờ. Mùi sáp nến, mùi xác rữa và mùi đất nồng nồng phả vào mặt tôi. Những mảnh cầu vồng nhảy nhót, lấp lánh trước mắt. Tất cả những thứ đó gây nên một nỗi kinh ngạc nặng nề khiến tôi không cảm thấy sợ nữa.

- Có đẹp không? – Sascha hỏi.

- Cái này để làm gì thế?

- Miếu thờ đấy. – Nó giải thích. – Có giống không?

- Tao cũng chẳng biết nữa.

- Con chim sẻ là người chết đấy! Xác nó có thể thành thánh tích vì nó là kẻ vô tội bị hành hạ.

- Mày nhặt được xác nó à?

- Không, nó bay vào nhà kho, tao lấy mũ úp được và bóp chết.

- Sao lại làm thế?

- Thích thì làm…

Nó nhìn vào mắt tôi và lại hỏi:

- Có đẹp không?

- Không!

Thế là nó cúi xuống hang, đậy nhanh mảnh ván và tấm tôn lên, chèn hai hòn gạch, rồi đứng dậy, phủi bụi ở đầu gối và nghiêm khắc hỏi:

- Tại sao mày không thích?

- Tội nghiệp cho con sẻ quá!

Nó nhìn tôi với cặp mắt đờ đẫn như mắt người mù rồi hích vào ngực tôi, quát:

- Đồ ngốc! Đó là vì mày ghen tị nên mới nói không thích. Mày tưởng vườn nhà mày ở phố Kannatnaya đẹp hơn thế đấy hẳn?

Tôi nhớ đến ngôi nhà nghỉ mát con con của tôi và rắn rỏi trả lời:

- Đẹp hơn hẳn chứ lị!

Sascha liền cởi áo ngoài ném xuống đất, xắn tay áo rồi nhổ nước bọt vào lòng bàn tay, đề nghị:

- Nếu vậy thì đánh nhau!

Tôi không muốn đánh nhau. Một nỗi buồn man mác đè nặng lên người tôi. Nhìn bộ mặt hùng hổ của thằng em họ, tôi thấy khó chịu.

Nó nhảy xổ lại, húc đầu vào ngực, đè ngửa tôi ra rồi ngồi lên mình tôi, hét:

- Muốn sống hay chết?

Nhưng tôi khỏe hơn nó và nổi cáu. Chỉ một phút sau nó đã nằm úp xuống đất, tay duỗi sau đầu, thở khò khè. Tôi sợ hãi, định nâng nó dậy, nhưng nó vùng, nó đạp khiến tôi càng thêm lo sợ. Tôi lùi sang một bên, không biết làm thế nào, còn nó thì ngóc đầu lên nói:

- Thế nào, thắng rồi chứ? Tao cứ nằm ở đây cho đến khi nhà chủ trông thấy. Bấy giờ tao mới kể tội mày và người ta sẽ tống cổ mày đi.

Nó la chửi, dọa dẫm. Những lời nói của nó làm tôi nổi xung. Tôi chạy lại cái hang, giật tung gạch ra, lôi chiếc quan tài cùng con chim sẻ ném qua bờ rào ra ngoài đường, phá phách mọi thứ trong hang và giậm chân lên trên hang.

- Đây này, thấy chưa?

Trước hành động hung bạo của tôi, Sascha có một thái độ lạ lùng: Nó ngồi trên đất, miệng hơi mở, lông mày nhíu lại, lặng lẽ theo dõi tôi, không nói một lời nào. Khi tôi làm xong, nó thong thả đứng dậy, phủi bụi, khoác áo ngoài lên vai rồi nói với vẻ bình tĩnh và dọa nạt:

- Rồi mày sẽ thấy hậu quả. Cứ chờ đấy. Đó là tao cố tình sắp đặt làm cho mày mắc lỡm. Chính là phép phù thủy đấy! Thế nào?…

Tôi ngồi thụp xuống, tựa như bị những lời nói của nó đánh gục. Toàn thân tôi lạnh toát. Còn nó thì bỏ đi không ngoái lại. Vẻ bình tĩnh của nó càng khiến tôi cảm thấy nặng nề.

Tôi định ngay ngày mai sẽ trốn khỏi thành phố, rời bỏ lão chủ, rời bỏ Sascha cùng những trò phù thủy của nó, rời bỏ cái cuộc sống buồn tẻ và ngu ngốc này.

Sáng hôm sau, mụ bếp mới đánh thức tôi dậy và bỗng kêu lên:

- Eo ơi! Mặt mũi sao thế kia?…

“Chết, phép phù thủy bắt đầu rồi!” Tôi lo lắng nghĩ bụng.

Nhưng mụ bếp cười rũ rượi khiến tôi tự nhiên cũng phì cười và nhìn vào cái gương của mụ: Mặt tôi bị trát đầy bồ hóng.

- Sascha bôi phải không?

- Dễ thường tao đấy hẳn! – Mụ bếp vừa cười vừa kêu lên.

Tôi bắt đầu đánh giày. Vừa thò tay vào trong giày thì một chiếc đinh ghim đâm vào ngón tay tôi.

“A, phép phù thủy đấy!”

Trong chiếc giày nào cũng có kim và đinh ghim cắm rất khéo nên đã đâm vào lòng bàn tay tôi. Tôi liền múc một gàu nước lạnh và giội một cách vô cùng thích thú lên đầu tên “phù thủy” đang ngủ hoặc vờ ngủ kia.

Nhưng dầu sao tôi vẫn thấy khó chịu. Lúc nào tôi cũng mường tượng thấy chiếc quan tài với con chim sẻ, đôi chân xám ngắt, cong queo và cái mỏ màu sáp vểnh lên một cách đáng thương, xung quanh là những tia lửa nhiều màu sắc lập lòe nối tiếp nhau hiện ra như muốn kết thành một cái cầu vồng nhưng không sao kết được. Chiếc quan tài rộng ra, những móng chân chim phình to, vươn dài và run rẩy sống lại.

Tôi quyết định trốn đi ngay tối hôm ấy. Nhưng trước bữa ăn, trong khi nấu một nồi xúp cải bắp trên bếp cồn, vì mải suy nghĩ, để canh sôi sùng sục, tôi vội tắt bếp và làm đổ lật xoong canh lên tay. Thế là người ta đưa tôi vào nhà thương.

Tôi còn nhớ mãi cơn ác mộng nặng nề khi nằm ở nhà thương. Những dáng hình xám và trắng quấn vải liệm cựa quậy, ú ớ, rền rĩ trong khoảng không hoang vu nhờ nhờ vàng. Một thân người dài ngoẵng chống nạng có bộ lông mày giống như đôi ria mép vừa lúc lắc bộ râu cằm rậm đen vừa nức nở rít lên:

- Ta sẽ thưa với giá…áo chủ…ủ…

Dãy giường giống như những chiếc quan tài. Bệnh nhân nằm hếch mũi lên như những con chim sẻ chết. Các bức tường vàng chập chờn. Trần nhà căng ra như một cánh buồm. Sàn nhà rung rinh, lúc thì đưa những dãy giường lại gần nhau, lúc thì đẩy chúng tách xa. Mọi vật đều không vững chắc, khiến người ta sợ hãi. Ngoài cửa sổ, những nhánh cây nhô lên như những chiếc roi ai đó lúc lắc.

Một “xác chết” gầy gò, tóc hung đang nhảy nhót trong khung cửa ra vào. Anh ta kéo chiếc áo liệm của mình bằng đôi tay ngắn ngủn và rít lên the thé:

- Tôi không cần lũ điên ở đây!

Còn người chống nạng thì ghé vào tai người kia mà hét:

- Tao sẽ thưa với giá…áo chủ…ủ…

Ông bà tôi và mọi người thường nói ở nhà thương người ta làm chết bệnh nhân. Tôi cho rằng đời mình thế là xong. Một người đàn bà đeo kính đến bên cạnh tôi. Bà ta cũng quấn vải liệm trắng và viết gì đó trên một tấm bảng đen ở đầu giường. Cục phấn vỡ ra, bụi phấn rắc lên đầu tôi.

- Tên em là gì? – Bà ta hỏi.

- Chẳng là gì cả.

- Em có tên cơ mà?

- Không có.

- Này đừng có trẻ ranh, người ta nện cho đấy!

Trước khi bà ta nói, tôi cũng đã nghĩ rằng người ta sẽ nện tôi, vì thế tôi không trả lời nữa. Bà ta giận dữ, phì phì như con mèo, và cũng nhẹ nhàng như con mèo, lẳng lặng đi ra.

Hai chiếc đèn được thắp lên, những ngọn lửa vàng lủng lẳng trên trần tựa những con mắt ai bỏ quên đang treo và nhấp nháy, vừa chói sáng một cách khó chịu vừa cố xích lại gần nhau.

Trong góc nhà có người nói:

- Chơi bài nhé!

- Tớ mất tay rồi còn chơi gì nữa?

- A, họ cắt mất tay cậu rồi nhỉ!

Tôi lập tức suy luận: Đấy, họ đã cắt tay những người nào chơi bài. Còn tôi thì họ sẽ làm gì đây, trước khi giết chết tôi?

Tay tôi nóng bỏng và nhức nhối tựa như bị ai rút xương. Tôi khóc thút thít vì đau đớn và sợ hãi. Muốn cho người ta khỏi thấy nước mắt, tôi nhắm mắt lại. Nhưng nước mắt cứ nâng mí mắt lên, chảy qua thái dương, nhỏ vào tai.

Đêm đến, mọi người lăn kềnh ra giường và nấp dưới những cái chăn xám. Không khí mỗi lúc một trầm lặng, chỉ có ai đó phía góc nhà lầm bầm:

- Chẳng ăn thua gì đâu. Lão ta là đồ đểu, còn mụ ta cũng là loại bỏ đi…

Tôi muốn viết thư, muốn gọi bà tôi đến đưa trộm tôi ra khỏi nhà thương nhân lúc tôi hãy còn sống, nhưng không sao viết được: Tay tôi không cử động nổi và cũng chẳng có gì dùng để viết. Hay thử xem có thể tự chuồn khỏi nơi này không?

Đêm càng trở nên trầm lắng như ngưng đọng lại mãi mãi. Tôi nhẹ nhàng thả chân xuống sàn và đi ra cửa. Một cánh cửa đang mở hé. Dưới ngọn đèn ngoài hành lang, trên cái ghế gỗ dài có lưng tựa, một mái đầu bạc tóc lởm chởm như lông nhím đang nhô lên và tỏa khói, đôi hõm mắt đen ngòm nhìn về phía tôi. Tôi không kịp nấp.

- Ai đi lang thang đấy? Lại đây!

Giọng nói nhẹ nhàng, không đáng sợ. Tôi lại gần và nhìn vào bộ mặt tròn lởm chởm những sợi râu ngắn. Tóc dài hơn và tủa ra tứ phía, bao lấy đầu bằng những sợi cước bạc. Bên sườn người ấy đeo một chùm chìa khóa. Giá râu tóc ông ta dài chút nữa thì ông ta sẽ giống thánh tông đồ Peter đấy.

- Tay bỏng à? Đêm hôm sao cháu còn lang thang ở đây? Ai cho phép?

Ông ta phả hàng đống khói vào ngực và mặt tôi rồi lấy bàn tay ấm áp ôm cổ tôi, kéo lại gần mình:

- Cháu sợ hả?

- Cháu sợ!

- Ở đây ai mới đến cũng sợ cả. Nhưng chẳng có gì đáng sợ đâu. Nhất là với bác. Chẳng bao giờ bác để ai phải mất lòng… Cháu có muốn hút thuốc không? Phải, đừng hút làm gì. Hãy còn sớm quá đối với cháu, chờ chừng hai năm nữa… Cha mẹ cháu ở đâu? Không có cha mẹ à? Ờ, cũng chẳng sao. Không có họ, chúng ta vẫn cứ sống được, cốt là đừng sợ. Cháu hiểu chứ?

Đã từ lâu tôi không thấy ai biết nói chuyện một cách giản dị và thân mật bằng lối nói dễ hiểu như vậy. Tôi lắng nghe bác một cách thích thú không thể tả được.

Khi bác dẫn tôi về giường, tôi yêu cầu:

- Bác ngồi đây với cháu!

- Được. – Bác đồng ý.

- Bác là ai vậy?

- Bác ấy à? Bác là lính, một người lính chính cống, lính Cossack. Bác đã từng tham gia chiến tranh. Làm thế nào khác được. Lính sống vì chiến tranh mà lại: Bác đã đánh nhau với người Hungary, người Circassia, người Ba Lan…[17] nhiều vô kể. Chiến tranh là một trò đùa ghê gớm, cháu ạ!

Tôi nhắm mắt lại một lúc. Khi mở mắt ra tôi thấy bà tôi mặc áo sẫm màu đang ngồi ở chỗ người lính, còn bác ta thì đứng bên cạnh bà và nói:

- Thế nào, cụ? Ông bà ấy chết cả rồi à?

Ánh nắng đùa giỡn trong phòng làm óng vàng mọi vật rồi trốn đi, sau đó lại chói chang ngó nhìn con người, tựa như một đứa trẻ nghịch ngợm.

Bà cúi xuống hỏi tôi:

- Thế nào cháu? Chúng hành hạ cháu như vậy đấy à? Bà đã bảo ông cháu, cái lão quỷ tóc hung ấy rằng…

- Bây giờ tôi sẽ thu xếp mọi việc đâu vào đấy. – Người lính nói và bỏ đi.

Bà thì chùi nước mắt và bảo:

- Bác ấy là lính vùng ta, dân Balakhna đấy…

Tôi vẫn tưởng rằng mình đang nằm mơ nên lặng thinh. Bác sĩ đến thay băng cho tôi. Thế rồi tôi cùng bà đi xe ngựa trên các đường phố. Bà kể lể:

- Ông cháu đến điên mất thôi. Ông trở nên bủn xỉn quá quắt, thật đau lòng! Đã thế gần đây lão thợ lông thú Khlyts lại còn rút mất của ông một tờ bạc trăm rúp để trong quyển Thánh thi nữa chứ. Bạn mới của ông đấy! Thật đáng đời, cháu ạ!

Mặt trời chói lọi. Những đám mây trôi trên bầu trời như những con chim trắng. Hai bà cháu đi trên những tấm ván bắc qua sông Volga. Mặt băng phồng lên, lào xào. Nước óc ách dưới những tấm ván cầu. Những cây thánh giá vàng rực trên ngôi nhà thờ màu đỏ loẹt bên khu hội chợ. Chúng tôi gặp một người đàn bà mặt to ôm một bó cành liễu mềm mại trong tay – mùa xuân đang đến, sắp đến lễ Phục sinh rồi!

Tim tôi hồi hộp nhảy nhót như con chim sơn ca.

- Bà ơi, cháu yêu bà lắm!

Câu nói đó không làm bà ngạc nhiên. Bà bình thản đáp:

- Bởi vì cháu là ruột thịt của bà. Bà chẳng khoe chứ ngay đến những người dưng nước lã cũng yêu bà nữa cơ. Lạy Đức Mẹ!

Bà mỉm cười nói thêm:

- Đấy. Đức Mẹ sắp đến ngày vui mừng rồi, con của Đức Mẹ sắp sống lại rồi. Còn Varusha[18], con gái tôi…

Và bà nín lặng.

Chú thích:

[1] Em cùng mẹ khác cha của Gorky.

[2] Một dân tộc phương Bắc sống ở Kamsatka.