Chương 2
Ông ngoại gặp tôi ở ngoài sân. Ông đang quỳ, cầm rìu đẽo một cái chêm. Ông giơ rìu tựa hồ định quẳng nó lên đầu tôi, rồi bỏ mũ xuống mà nói với vẻ giễu cợt:
- Xin chào ngài, xin chào đức ông ạ! Ngài đã hết nhiệm kì phục vụ rồi à? Thôi được, bây giờ ngài muốn sống thế nào thì sống, phải! Ôi chao, lũ chúng bay…y…y thật là…
- Chúng tôi biết rồi, chúng tôi biết rồi! – Bà vội nói và xua tay đuổi ông.
Sau khi vào trong phòng và nhóm ấm samovar, bà kể lể:
- Ông cháu bây giờ hết sạch sành sanh rồi. Có bao nhiêu tiền đều cho thằng Nikolai con đỡ đầu vay lấy lãi, nhưng biên lai thì chắc lại không lấy. Bà cũng chẳng hiểu công việc ra sao, chỉ biết là sau đó ông cháu phá sản, tiền của mất hết. Tất cả những việc đó đều tại chúng ta không giúp đỡ người nghèo khổ, không thương xót kẻ hoạn nạn. Chúa mới nghĩ: “Tại sao mình lại ban phước cho nhà Kashmirin?” Chúa nghĩ thế và lấy hết…
Bà nhìn quanh rồi nói cho tôi biết:
- Bà cũng cố gắng làm Chúa vui lòng đôi chút, để Chúa giảm bớt hình phạt với cháu. Dạo này bà thường lấy tiền kiếm được đêm đêm kín đáo mang đi bố thí. Cháu có muốn thì hôm nay đi với bà: Bà có tiền đây!
Ông tôi chợt tới, nheo mắt hỏi:
- Định chén đấy à?
- Không phải việc của ông! – Bà nói. – Nếu muốn ăn thì ngồi xuống đây với chúng tôi. Đủ cho cả ông nữa đấy!
Ông ngồi vào bàn, nói khẽ:
- Rót cho một cốc…
Mọi vật trong phòng vẫn ở nguyên chỗ cũ. Chỉ có góc của mẹ tôi là trống trải một cách buồn thảm, và ở trên tường phía giường ông có treo thêm một tờ giấy to viết bằng chữ in:
“Chúa hằng sống đời đời! Danh Chúa đời đời sáng bên con, hằng ngày hằng giờ trong cuộc đời con.”
- Ai viết thế?
Ông không trả lời.
Bà chờ một lúc rồi vừa cười vừa nói:
- Tờ giấy ấy giá một trăm rúp đấy!
- Không phải việc của mụ. – Ông hét lên. – Tao sẽ đem cho người dưng hết!
- Còn quái gì nữa mà cho. Khi có thì chẳng thấy cho. – Bà bình tĩnh đối đáp.
- Câm họng! – Ông rít lên.
Ở đây mọi vật đều như xưa, cuộc sống cũng như xưa.
Phía góc nhà, thằng Kolya[19] đang nằm trong thúng quần áo đặt trên mặt hòm sực tỉnh dậy, nhìn ra, hai khe mắt xanh thấp thoáng dưới đôi mí mắt. Trông nó thiểu não, bủng beo, gầy gò hơn trước. Nó không nhận ra tôi, lặng thinh quay mặt đi và nhắm mắt lại.
Ra phố, tôi nhận được những tin buồn: Thằng Vyakhir bị trúng gió, chết trong tuần lễ Thánh, thằng Khabi thì rời lên tỉnh ở, còn thằng Yaz thì chân bị liệt, không đi chơi được. Báo cho tôi những tin đó xong, thằng Kostrom mắt đen cáu kỉnh:
- Bọn trẻ con sắp chết hết mất!
- Chỉ mới có mình thằng Vyakhir chết thôi mà?
- Thì cũng thế cả: Đi nơi khác ở thì cũng coi như là chết rồi. Vừa mới kết bạn, quen nhau xong, đứa thì đi học việc, đứa thì chết, ở nhà Chesnokov, bên nhà mày ấy, có gia đình nhà Evseyenko mới đến ở. Thằng Niushka tạm được, nó ranh lắm. Nó có hai đứa em gái: Một đứa còn nhỏ, đứa kia thì thọt chân, phải chống nạng, trông xinh lắm.
Nghĩ ngợi một chút, nó nói thêm:
- Tao và thằng Tchurka cùng yêu con bé ấy. Bọn tao cãi nhau luôn.
- Với con bé ấy à?
- Không! Giữa tao với thằng Tchurka thôi. Với con bé ấy thì họa hoằn lắm.
Dĩ nhiên tôi biết những chuyện yêu đương của thanh niên trai tráng, tôi còn biết cả các ý tưởng thô thiển về chủ đề này. Tôi thấy khó chịu và thương hại thằng Kostrom. Nhìn thân hình xương xẩu với cặp mắt đen cáu kỉnh của nó, tôi lúng túng, ngượng ngập.
Ngay trong chiều hôm ấy, tôi trông thấy con bé thọt. Nó đánh rơi cái nạng lúc đang bước từ bậc tam cấp xuống sân, đứng lại, mảnh dẻ, yếu ớt, bất lực giữa bậc cửa, hai bàn tay trắng nhợt túm chặt lấy lan can. Tôi muốn nhặt cái nạng lên nhưng hai tay bị băng bó nên cử động rất khó khăn. Tôi loay hoay mãi và bực mình quá, còn con bé thì đứng cao hơn tôi, cười rất dễ thương:
- Tay đằng ấy làm sao thế?
- Bị bỏng.
- Còn tớ thì phải đi khập khiễng. Đằng ấy ở khu này đấy à? Nằm ở nhà thương có lâu không? Tớ nằm ở đây lâ…â…u… ghê…ê lắm!
Nó thở dài rồi nói thêm:
- Rất lâu!
Nó mặc áo trắng chấm xanh da trời, cũ nhưng sạch sẽ. Tóc chải mượt, tết thành một bím ngắn và dày, thõng xuống ngực. Mắt nó to và nghiêm trang. Trong cái sâu thẳm dịu dàng của cặp mắt ấy ánh lên một ngọn lửa màu xanh nhạt làm ngời sáng cả khuôn mặt gầy nhỏ với chiếc mũi nhọn. Nó cười rất có duyên, nhưng tôi thấy không thích. Thân hình ốm yếu của nó như muốn nói: “Xin chớ có đụng đến tôi!”
Không hiểu sao bọn bạn tôi lại có thể yêu được nó?
- Tớ què đã lâu rồi. – Nó sốt sắng kể, vẻ như khoe khoang. – Mụ láng giềng bỏ bùa tớ. Mụ ấy cãi nhau với mẹ tớ, rồi bỏ bùa tớ để trêu tức mẹ… Đằng ấy nằm trong nhà thương có sợ không?
- Có…
Tôi thấy lúng túng khi nói chuyện với nó, liền bỏ vào phòng.
Gần nửa đêm, bà tôi âu yếm đánh thức tôi.
- Bà cháu ta đi thôi chứ? cố giúp đỡ mọi người thì tay cháu sẽ chóng khỏi đấy!
Bà nắm lấy tay tôi và dẫn tôi đi trong bóng tối như dẫn một người mù. Đêm ẩm ướt, tối mò. Gió thổi liên tục tựa một dòng sông chảy xiết. Cát lạnh giữ lấy chân. Bà rón rén đến gần những ô cửa sổ tối om của các nhà nghèo, làm dấu ba lần rồi đặt trên bục cửa sổ năm kopek cùng ba chiếc bánh xoắn, sau đó bà lại làm dấu, nhìn lên bầu trời không trăng sao, thì thầm:
- Đức Mẹ Rất Thánh, xin Mẹ hãy cứu giúp chúng con! Tất cả chúng con đều là kẻ có tội đối với Mẹ!
Chúng tôi càng đi xa nhà, bóng tối xung quanh càng dày đặc, quạnh hiu. Bầu trời đêm sâu thăm thẳm, tựa hồ che giấu mãi mãi cả trăng sao. Một con chó ở đâu chạy tới, dừng lại trước mặt hai bà cháu, sủa ầm lên. Đôi mắt nó lóe sáng trong màn đêm. Tôi sợ hãi nép vào bà.
- Không có gì đâu. – Bà nói. – Con chó đấy mà! Bây giờ muộn rồi, không phải là giờ của ma quỷ nữa. Gà đã gáy rồi!
Bà vẫy con chó lại, vuốt ve nó:
- Này cún, liệu hồn đấy, đừng có dọa cháu tao!
Con chó cọ cọ vào chân tôi. Cả ba lại đi xa hơn nữa. Mười hai lần bà tôi đến bên cửa sổ, để lại chút quà kín đáo trên bậu cửa. Trời hửng sáng. Từ bóng đêm, những ngôi nhà xám, rồi cả gác chuông nhà thờ Đức Mẹ hiện ra. Ruộng đồng nhô lên trắng như đường; bức tường gạch mắt cáo ở nghĩa địa trông thưa như tấm vải gai rách.
- Bà lão mệt rồi! Về thôi! – Bà nói. – Ngày mai họ sẽ thức dậy và thấy Đức Mẹ đã dành chút ít cho con họ. Khi thiếu thốn đủ mọi thứ thì một chút cũng là quý rồi! Chao ôi! Alyosha, dân chúng thì sống nghèo khổ mà chẳng có ai chú ý đến cả!
Người giàu đâu có nghĩ đến Trời,
Đâu có nghĩ đến tội chờ xét xử,
Đâu có nghĩ đến những người nghèo khổ,
Chẳng họ hàng, chẳng bè bạn với ai!
Họ chỉ lo vàng bạc vét cho đầy,
Nhưng mỗi thỏi vàng là một hòn than địa ngục,
Đang chờ họ – lửa vạc dầu sôi sục…
- Như vậy đấy! Người này sống phải nghĩ đến kẻ khác. Còn Chúa, Chúa sẽ nghĩ đến mọi người. Bà rất mừng vì cháu lại trở về bên bà…
Tôi cũng cảm thấy một niềm vui thanh thản. Tôi mơ hồ thấy mình đang tham dự vào một việc mà không bao giờ tôi quên được. Cạnh tôi, con chó màu hung có mõm cáo, đôi mắt hiền lành, vẻ sợ sệt, đang run rẩy.
- Nó sẽ sống với chúng ta chứ bà?
- Chứ sao? Nó muốn ở thì ở. Để bà cho nó chiếc bánh xoắn, bà còn hai chiếc đây. Ta ngồi nghỉ ở ghế này đã, bà mệt mệt thế nào ấy…
Hai bà cháu ngồi trên chiếc ghế dài gần một cái cổng. Con chó nằm dưới chân chúng tôi, gặm chiếc bánh khô. Bà tôi kể:
- Ở nhà này, có một bà người Do Thái. Bà ta có chín đứa con, sàn sàn như trứng gà trứng vịt. Bà hỏi bà ta: “Bà sống thế nào được hở bà Moisey?” Bà ấy trả lời: “Tôi sống được là nhờ có Chúa phù hộ, chứ còn có ai nữa?”
Tôi dựa vào bên sườn ấm áp của bà tôi và ngủ thiếp đi.
* * *
Cuộc sống của tôi lại trôi qua nhanh chóng và đầy hứng thú với những sự kiện dồn dập. Những dòng ấn tượng phong phú mỗi ngày lại mang đến cho tâm hồn tôi một điều gì mới mẻ, khiến cho tôi khi thì say mê, khi thì lo âu, khi thì buồn tủi, khi thì nghĩ ngợi…
Chẳng bao lâu, tôi cũng cố tìm mọi cách để có thể luôn được trông thấy cô bé thọt chân, trò chuyện với nó hay ngồi yên lặng bên nhau trên chiếc ghế dài cạnh cổng. Ở bên cạnh cô bé, dù có im lặng cũng vẫn thấy dễ chịu. Nó ăn mặc sạch sẽ, như một con chim bông lau, kể chuyện về đời sống của những người Cossack vùng sông Đông rất hay. Nó đã sống ở đấy khá lâu, trong nhà một người chú làm thợ máy cho một xưởng làm bơ. Sau đó, bố nó – một thợ nguội – chuyển đến Nizhny.
- Tớ còn một chú thứ hai nữa! Chú này được hầu gần đức vua cơ đấy!
Những buổi chiều ngày hội, người dân toàn khu phố ra khỏi nhà. Nam nữ thanh niên đưa nhau tới nghĩa địa tổ chức các cuộc nhảy múa, ca hát. Đàn ông tản vào các quán ăn. Trên phố chỉ còn lại đàn bà và trẻ con. Các bà ngồi phệt xuống đất hay trên các ghế dài trước cổng, chuyện trò huyên náo, vừa cãi nhau vừa đơm đặt đủ chuyện. Bọn trẻ con thì chơi bóng, chơi phá thành, chơi cầu. Các bà mẹ theo dõi các trò chơi, khuyến khích những đứa chơi hay, chế giễu những đứa chơi kém. Thật là ầm ĩ và vui không thể tả được. Sự có mặt và chú ý của người lớn đã khích lệ bọn nhóc chúng tôi, khiến cho các cuộc chơi đều mang một vẻ náo nhiệt khác thường, một sự ganh đua sôi nổi. Nhưng dù có say mê các cuộc chơi đến đâu chăng nữa, ba đứa chúng tôi – Kostrom, Tchurka và tôi – vẫn cứ lần lượt thay nhau chạy đến khoe khoang với con bé thọt chân.
- Ludmilla, có thấy tớ ném văng hết năm thanh gỗ ra ngoài thành không?
Ludmilla mỉm cười dịu dàng và gật đầu luôn mấy cái.
Trước kia bọn tôi thường cố tìm cách chơi chung với nhau trong mọi trò chơi. Nay tôi thấy Tchurka và Kostrom luôn chơi ở hai phe khác nhau. Bằng mọi cách, chúng cố trổ tài về độ khéo léo, về sức mạnh, nhiều khi dẫn đến những cuộc đánh lộn và khóc lóc. Có lần chúng đánh nhau một cách điên cuồng đến nỗi người lớn phải can thiệp và giội nước vào hai địch thủ như vào hai con chó.
Ludmilla ngồi trên ghế dài, giậm giậm cái chân lành xuống đất. Khi hai địch thủ lăn đến chỗ nó, nó lấy nạng đẩy chúng đi và kêu van:
- Đừng đánh nhau nữa!
Mặt nó tái mét, mắt sầm xuống và đảo đi đảo lại như người bị động kinh.
Một lần khác, Kostrom thua Tchurka một ván phá thành rất nhục nhã, liền trốn sau thùng lúa mạch bên cửa hiệu tạp hóa, ngồi xổm ở đấy và lặng lẽ khóc. Cảnh tượng khá đáng sợ. Nó mím chặt môi, gò má nhô ra, bộ mặt xương xẩu đanh lại như đá. Từ cặp mắt đen bực tức, những giọt nước mắt to, nặng lăn xuống. Khi tôi an ủi nó, nó vừa nức nở, vừa thì thào:
- Được, rồi xem… Tao sẽ tương cho nó một hòn gạch vào sọ…
Tchurka thì trở nên kiêu ngạo. Nó đi giữa phố với dáng điệu của một anh đến tuổi lấy vợ, mũ cát két đội lệch, tay đút túi. Nó học được cách nhổ nước bọt qua kẽ răng với một vẻ ngạo nghễ và cam đoan:
- Tao sắp biết hút thuốc lá rồi. Tao đã thử hai lần, nhưng buồn nôn quá.
Những điều đó làm tôi khó chịu. Tôi thấy mình đang mất bạn và tôi có cảm giác rằng Ludmilla là nguyên nhân của việc này.
Một buổi chiều, khi tôi đang sắp xếp các loại xương, giẻ rách và các đồ tạp nham ngoài sân thì Ludmilla khập khiễng đến bên cạnh tôi, cánh tay phải của nó vung vẩy.
- Chào cậu. – Nó nói, gật gật đầu ba lần. – Kostrom chơi với cậu đấy chứ?
- Ừ.
- Thế còn Tchurka?
- Tchurka không chơi với bọn tớ nữa rồi… Tại cậu mà ra cả. Chúng nó yêu cậu cho nên mới đánh nhau…
Ludmilla đỏ bừng mặt, nhưng trả lời với vẻ châm biếm:
- Vô lí chưa! Tớ có lỗi ở chỗ nào?
- Sao lại làm cho chúng nó yêu?
- Tớ có cầu chúng nó yêu đâu! – Cô bé giận dữ nói, rồi vừa bỏ đi vừa tiếp. – Thật là một trò ngu xuẩn! Tớ lớn hơn chúng, tớ đã mười bốn tuổi rồi! Có ai lại đi yêu con gái lớn hơn mình bao giờ…
- Mày biết nhiều lắm đấy! – Muốn chọc tức nó, tôi liền hét lên. – Đấy, mụ chủ hiệu em gái lão Khlyts đấy, mụ ta đã già rồi mà vẫn còn đi lại với tụi con trai đấy!
Ludmilla quay lại phía tôi, ấn sâu chiếc nạng trên sân cát.
- Chính cậu chẳng biết cái quái gì cả. – Nó nói vội vã, giọng như khóc. Cặp mắt xinh xinh của nó bỗng sáng ngời một cách đẹp tuyệt. – Mụ chủ hiệu là một mụ đàn bà đĩ thõa, còn tớ, tớ có như vậy đâu. Tớ đang còn bé, không được đụng chạm, không được cấu tớ, không được gì sất… Cậu cứ thử đọc phần thứ hai của truyện Cô gái Kamchadalka[20] rồi hãy nói!
Nó ấm ức bỏ đi. Tôi bỗng thấy thương nó quá. Trong những lời nói của Ludmilla ẩn chứa một sự thật nào đó mà tôi chưa hề biết tới. Tại sao bọn bạn tôi lại cấu véo nó? Thế mà chúng còn nói rằng chúng yêu nó đấy…
Ngày hôm sau, muốn chuộc lỗi với Ludmilla, tôi mua hai kopek kẹo mạch nha, là thứ kẹo mà tôi biết nó rất thích.
- Có ăn không?
Nó nói, cố tình làm ra vẻ bực bội:
- Đi đi, tớ không chơi với cậu nữa!
Nhưng lại cầm ngay lấy kẹo và nhận xét:
- Sao không lấy giấy mà bọc lại một chút! Tay bẩn thế kia.
- Tớ rửa mãi nhưng không sao sạch được.
Nó đưa bàn tay khô ấm ra cầm lấy tay tôi, xem xét.
- Làm hỏng cả tay thế này…
- Ngón tay của cậu cũng bị châm thủng cả…
- Kim đâm đấy. Tớ khâu nhiều lắm…
Sau vài phút, nó nhìn quanh rồi đề nghị:
- Này, cậu có muốn chúng ta cùng nấp vào một chỗ và đọc quyển Cô gái Kamchadalka không?
Chúng tôi tìm mãi chỗ nấp nhưng chỗ nào cũng thấy bất tiện. Cuối cùng hai đứa quyết định rằng tốt nhất là chui vào phòng thay đồ trong nhà tắm. Ở đấy tuy tối nhưng có thể ngồi sát cửa sổ trông ra mảnh đất bẩn thỉu của nhà kho và lò sát sinh bên cạnh. Ít người nhòm ngó tới chỗ này lắm.
Ludmilla ngồi bên cửa sổ, duỗi cái chân đau trên ghế dài, cái chân lành bỏ thõng xuống sàn. Nó vùi đầu vào quyển sách đã nhàu nát, đọc mớ chữ khó hiểu và buồn tẻ với vẻ cảm động. Tôi cảm thấy rung động. Tôi ngồi dưới sàn, nhìn đôi mắt nghiêm trang chuyển động trên những trang giấy như hai đốm lửa xanh. Đôi lúc, cặp mắt ướt lệ. Giọng nó run run, đọc vội vàng những chữ không quen thuộc trong những câu khó hiểu. Dầu sao tôi cũng nhớ được những chữ đó và cố đảo lên đảo xuống để sắp xếp chúng thành các câu thơ. Việc đó càng cản trở tôi hiểu được nội dung cuốn sách.
Con chó nằm thiu thiu ngủ trên đầu gối tôi. Tôi đặt tên cho nó là “Gió” vì nó có bộ lông xù, mình dài, chạy nhanh và gầm gừ như tiếng gió thu thổi trong ống khói lò sưởi.
- Cậu có nghe không đấy? – Cô bé hỏi.
Tôi lặng lẽ gật đầu. Đám chữ hỗn loạn khích động tôi, tôi bận bịu với ý định sắp xếp lại trật tự từ ngữ như trong một bài ca mà mỗi chữ đều sinh động và ngời sáng như một ngôi sao trên bầu trời.
Khi trời tối, Ludmilla buông bàn tay trắng nhợt cùng với quyển sách xuống và hỏi:
- Hay chứ nhỉ? Cậu thấy chưa!…
Từ buổi chiều hôm ấy, chúng tôi thường ngồi với nhau trong phòng thay đồ của nhà tắm. May cho tôi là chẳng bao lâu Ludmilla đã thôi không đọc quyển Kamchadalka nữa. Tôi không thể trả lời được cho nó về nội dung của quyển sách vô tận ấy – vô tận là vì tiếp theo chương hai mà chúng tôi bắt đầu đọc là chương ba, và cô bé nói với tôi rằng tiếp theo chương ba lại còn chương tư nữa.
Chúng tôi thích nhất là những ngày mưa u ám, nếu những ngày đó không trùng vào thứ Bảy là ngày đốt lò tắm.
Ngoài trời mưa tầm tã. Không ai bước ra sân, nhòm ngó vào cái góc tranh tối tranh sáng này của chúng tôi làm gì. Ludmilla rất sợ người ta sẽ “bắt” được chúng tôi.
- Cậu có biết lúc bấy giờ người ta sẽ nghĩ thế nào không? – Nó hỏi thầm thì.
Tôi biết và cũng sợ người ta “bắt” được. Chúng tôi ngồi hàng giờ liền với nhau, nói những chuyện đâu đâu. Đôi khi tôi kể lại những chuyện cổ tích của bà. Ludmilla thì kể cho tôi nghe về đời sống của những người Cossack bên sông Medveditsa.
- Ôi chao, ở đấy thật là tuyệt! – Nó thở dài. – Ở đây bì thế nào được, ở đây chỉ để cho ăn mày sống.
Tôi định bụng khi nào lớn nhất định sẽ đến thăm con sông Medveditsa.
Ít lâu sau chúng tôi không phải dùng đến phòng thay đồ của nhà tắm nữa. Mẹ Ludmilla đã tìm được việc làm ở nhà lão thợ thuộc da. Bà đi khỏi nhà từ sáng. Đứa em gái đi học. Anh trai làm việc ở nhà máy gạch tráng men. Những ngày mưa u ám, tôi đến nhà Ludmilla, giúp nó nấu nướng, dọn dẹp các phòng và bếp. Nó cười:
- Tớ với cậu sống với nhau cứ như là vợ chồng ấy nhỉ? Chỉ có mỗi đứa ngủ riêng một nơi thôi. Chúng mình sống lại có phần vui hơn vợ chồng nữa cơ vì chồng có giúp vợ bao giờ đâu…
Khi nào có tiền tôi liền mua bánh kẹo rồi chúng tôi uống trà với nhau. Sau đó hai đứa lấy nước lạnh giội vào ấm samovar để bà mẹ lắm điều của Ludmilla không thể đoán được là chúng tôi đã dùng đến ấm. Thỉnh thoảng bà tôi đến chơi cùng chúng tôi. Bà vừa ngồi vừa làm đăng ten hay thêu thùa, vừa kể những câu chuyện cổ tích tuyệt diệu. Còn khi nào ông tôi vào thành phố thì Ludmilla lại lẻn tới nhà tôi, và ba bà cháu tha hồ tự do ăn uống, chuyện trò vui vẻ với nhau.
Bà tôi thường nói:
- Ôi! Chúng ta sống thật là tuyệt. Có đồng nào xào đồng ấy, mặc sức!
Bà khích lệ tình bạn của chúng tôi:
- Con trai kết bạn với con gái là một việc rất tốt: Chỉ cốt đừng “nghịch nhảm”…
Và bằng những lời lẽ giản dị nhất, bà cắt nghĩa cho chúng tôi biết thế nào là “nghịch nhảm”. Bà nói rất văn vẻ, đầy tình cảm. Tôi hiểu rõ rằng không nên chạm đến hoa khi hoa chưa nở, nếu không thì hoa sẽ chẳng cho hương thơm, quả ngọt.
Chúng tôi không muốn “nghịch nhảm”, nhưng điều đó không ngăn cản hai đứa nói với nhau những chuyện người ta thường kiêng nhắc đến. Tất nhiên chúng tôi không thể không nhắc những chuyện ấy vì các mối quan hệ nam nữ thô tục thường xuyên đập vào mắt như trêu ngươi khiến chúng tôi vô cùng bực tức.
Bố Ludmilla là một người đẹp trai, tóc quăn, tuổi trạc bốn mươi. Bác ta để ria mép và thường nheo đôi lông mày rậm với một vẻ đắc thắng đến là đặc biệt. Bác ít nói lạ thường – tôi chẳng nhớ được lấy một lời nào của bác. Khi vuốt ve lũ trẻ, bác thường ầm ừ như người câm. Cả khi đánh vợ bác cũng lặng thinh.
Vào những buổi chiều ngày hội, bác mặc áo xanh da trời, quần xa tanh rộng, đi đôi ủng đánh bóng lộn, đeo cây đàn phong cầm lớn sau lưng rồi bước ra cổng và đứng đấy, hệt như người lính gác. Lập tức một “cuộc diễu hành” diễn ra trước cổng nhà chúng tôi: Đàn bà, con gái, người nọ nối người kia như một đàn vịt vừa đi vừa đưa mắt nhìn bác Evseyenko, kẻ len lén nhìn qua hàng lông mi, kẻ trâng tráo ngó chằm chặp, ánh mắt thèm khát. Còn bác ta thì đứng đó, môi dưới trề ra, nhìn họ chằm chằm với cặp mắt sẫm màu. Có cái gì thật chướng mắt, đê tiện trong cuộc trao đổi thầm lặng bằng mắt kia, trong sự di chuyển chậm chạp, yếu hèn của đám đàn bà quanh một người đàn ông. Tựa như chỉ cần người đàn ông nháy mắt ra hiệu cho bất cứ ai trong bọn họ là kẻ đó sẽ ngoan ngoãn lăn ra như chết ngay trên đám cát rác rưởi của đường phố.
- Con dê xồm lại mò đi rồi, đồ mặt dày! – Mẹ Ludmilla càu nhàu.
Bác ta người dong dỏng cao, khuôn mặt dài và nhơm nhớp. Sau trận sốt, tóc bác cắt ngắn. Trông bác giống một chiếc chổi cùn xơ xác.
Ludmilla ngồi bên mẹ, luôn miệng hỏi, cố gắng giúp mẹ khỏi chú ý đến cảnh ngoài phố, nhưng vô hiệu.
- Thôi yên đi, mày hay quấy rầy lắm, đồ quái thai! – Mẹ nó vừa lẩm bẩm vừa chớp mắt lo lắng.
Cặp mắt Mông Cổ nhỏ tí của bác sáng lên một cách lạ thường, đôi con ngươi không động đậy, tựa như bị thu hút trước một cảnh trí.
- Mẹ ơi, mẹ đừng giận, có được gì đâu? – Ludmilla nói. – Mẹ nhìn xem mụ hàng chiếu diện mới đẹp làm sao!
- Nếu không có ba đứa chúng mày thì tao còn mặc đẹp hơn nhiều. Chúng mày xâu xé tao, hốc hết cả! – Người mẹ tàn nhẫn trả lời, giọng như khóc, mắt nhìn chằm chằm vào mụ hàng chiếu góa chồng to béo.
Mụ này giống như một cái nhà nhỏ. Ngực mụ dô ra như mái hiên. Khuôn mặt đỏ bị chiếc khăn xanh lá mạ che lại và hớt đi một ít, trông tựa một cái cửa sổ tròn lắp kính đang phản chiếu ánh nắng mặt trời.
Evseyenko chuyển cây phong cầm ra trước ngực và bắt đầu chơi. Cây phong cầm có rất nhiều phím. Tiếng đàn ngân xa lôi cuốn. Bọn trẻ con từ mọi nẻo của khu phố ùa đến, sà xuống chân người kéo phong cầm, ngồi ngay trên cát lắng nghe say sưa, thán phục.
- Coi chừng, người ta sẽ vặn cổ anh đấy! – Bà vợ dọa chồng.
Bác Evseyenko lườm vợ, không nói gì.
Còn mụ hàng chiếu thì ngồi như một tảng đá trên cái ghế dài bên cửa hiệu của lão Khlyts cách đó không xa. Mụ nghiêng đầu lắng nghe, mắt sáng rực.
Ráng chiều nhuộm đỏ óng cánh đồng phía sau nghĩa địa. Những khối thịt to lớn, ăn mặc sặc sỡ lướt trên đường phố như trôi trên mặt sông. Trẻ con chạy loăng quăng như gió lốc. Không khí ấm áp, dịu dàng khiến người ta ngây ngất. Cát bị nung nóng suốt ngày, bốc mùi máu và mùi lờ lợ, ngậy mỡ của lò sát sinh. Từ phía khu nhà của thợ thuộc da thoảng đến mùi da lột mặn và hăng. Tiếng đàn bà nói chuyện, tiếng người say rượu la rống, tiếng trẻ con kêu lanh lảnh, tiếng phong cầm trầm trầm – tất cả những âm thanh ấy hòa trộn với nhau, ồn ào vang dội như tiếng thở dài mạnh mẽ của đất mẹ đang sáng tạo không ngừng, không mỏi. Tất cả đều thô bỉ, lộ liễu như sự khẳng định vững chắc, lớn lao về cuộc sống đen tối, thú tính trắng trợn này. Cuộc sống ấy vừa khoe khoang sức lực, vừa buồn rầu cố gắng tìm nơi trút nguồn sức lực đó.
Trong đám ồn ào, thỉnh thoảng lại có vài câu nói đặc biệt khủng khiếp lọt tới trái tim, mãi mãi gắn sâu vào trí nhớ.
- Nhiều người không được cùng đánh một người! Phải lần lượt mới được…
- Nếu ta không thương lấy thân thì có ai thương ta nữa…
- Hay là trời sinh ra đàn bà để làm trò cười?…
Màn đêm dần buông. Không khí trong lành hơn. Tiếng ồn ào nhỏ dần. Những ngôi nhà gỗ như phồng ra, lớn lên, đắm mình vào bóng tối. Bọn con nít đã được đưa về nhà đi ngủ. Một số ngủ ngay bên các hàng rào, dưới chân hay trong lòng các bà mẹ. Trong bóng đêm, bọn trẻ lớn tuổi cũng trở nên hiền lành, dịu dàng hơn. Bác Evseyenko không biết lẩn đi đâu từ lúc nào tựa như có phép biến. Mụ hàng chiếu cũng không còn đó. Tiếng phong cầm trầm trầm vang lên xa xa, sau nghĩa địa. Mẹ Ludmilla ngồi trên ghế dài, người rúm ró, lưng khòm khòm như một con mèo. Bà tôi sang nhà láng giềng uống trà – một bà đỡ kiêm bà mối. Mụ ta người to lớn, gân guốc, có cái mũi như mỏ vịt và một chiếc mề đay vàng “cứu người lâm nạn” đeo trước bộ ngực lép kẹp như ngực đàn ông. Cả phố đều sợ mụ vì cho mụ là phù thủy. Người ta đồn rằng mụ đã cứu khỏi vòng lửa ba đứa con và một người vợ ốm của ông đại tá nào đó trong một trận hỏa hoạn.
Bà tôi rất thân với mụ. Gặp nhau ngoài phố, cả hai cười với nhau từ xa với vẻ thân thiện đặc biệt.
Kostrom, Ludmilla và tôi ngồi với nhau trên chiếc ghế dài bên cổng. Tchurka rủ anh của Ludmilla vật nhau. Hai đứa ôm nhau, giậm chân trên cát làm bụi mù cả lên.
- Thôi đừng vật nhau nữa! – Ludmilla sợ hãi yêu cầu.
Kostrom liếc cặp mắt đen về phía Ludmilla rồi bắt đầu kể chuyện lão thợ săn Kalinin mà cả xóm đều biết tiếng vì những “thành tích” bất hảo.
Đó là một lão già râu tóc bạc phơ có đôi mắt láu lỉnh. Lão mới chết cách đây ít lâu, người ta không chôn lão xuống đất trong nghĩa địa mà lại đặt quan tài trên mặt đất, tách xa các ngôi mộ khác. Chiếc quan tài đen sì, có chân cao. Trên nắp quan tài vẽ một cây thập ác, một cây giáo, một cái gậy và hai khúc xương bằng sơn trắng.
Đêm nào cũng vậy, cứ trời tối là lão già lại từ trong quan tài nhỏm dậy lang thang trong nghĩa địa như tìm kiếm gì đấy cho đến tận khi gà gáy lần thứ nhất.
- Đừng kể những chuyện kinh khủng ấy nữa! – Ludmilla van nài.
- Buông ra! – Thằng Tchurka vừa kêu vừa tuồn khỏi tay ôm của thằng anh Ludmilla và bảo thằng Kostrom với một vẻ giễu cợt. – Mày nói láo cái gì thế? Chính tao đã trông thấy người ta lấp quan tài, còn cái ở trên thì rỗng, đấy là cái mộ. Cái chuyện người chết biết đi chẳng qua là do bọn thợ rèn say rượu bịa ra mà thôi.
Kostrom không nhìn Tchurka, cáu kỉnh:
- Nếu thế thì mày thử đến ngủ ở nghĩa địa xem nào.
Hai đứa bắt đầu cãi nhau, còn Ludmilla thì lắc đầu một cách chán ngán rồi hỏi:
- Mẹ ơi, ban đêm người chết có thức dậy không?
- Thức dậy. – Mẹ nó nhắc lại, như thể câu hỏi kéo bà trở về từ một nơi nào xa lắm.
Valyok, con trai mụ chủ hiệu – một thanh niên trạc hai mươi tuổi, người to béo hồng hào – đi đến, lắng nghe cuộc tranh cãi của bọn tôi và bảo:
- Trong ba đứa chúng mày, đứa nào nằm được trên quan tài đến sáng, tao sẽ cho hai mươi kopek và mười điếu thuốc lá, còn đứa nào sợ thì tao sẽ xách tai đến kì chán mới thôi, thế nào?
Cả bọn im lặng, bối rối, mẹ Ludmilla thì nói:
- Bậy nào! Ai lại đi xui bọn trẻ làm những chuyện ấy bao giờ…
- Đưa một rúp tôi đi cho. – Thằng Tchurka càu nhàu đề nghị.
Kostrom liền xỏ xiên:
- Còn nếu chỉ được hai mươi kopek thì mày sợ à? – Rồi nó bảo Valyok. – Anh cứ đưa cho nó một rúp nó cũng không dám đi đâu, nó chỉ nói phét thế thôi…
- Ừ thì tao cho một rúp!
Tchurka đứng dậy, lặng lẽ và thủng thỉnh bỏ đi, men theo bờ rào. Kostrom cho mấy ngón tay vào miệng, huýt inh ỏi với theo Tchurka, còn Ludmilla thì bồn chồn lên tiếng:
- A, Chúa tôi, đồ anh hùng rơm… Ai ngờ lại thế!
- Một lũ hèn, chúng mày có làm được trò trống gì đâu! – Valyok chế nhạo. – Thế mà cứ tự cho mình là ngổ nhất phố đấy! Thật là một lũ mèo con…
Thật là tức khi phải nghe những lời giễu cợt của hắn. Chúng tôi không ưa cái thằng phì nộn đó, hắn hay xúi bẩy trẻ con làm những trò nghịch ngợm tinh quái, kể cho chúng những chuyện bẩn thỉu về đàn bà con gái và dạy chúng chòng ghẹo họ. Bọn trẻ nghe theo hắn ta và vì thế mà bị nhiều trận đòn khá đau. Không hiểu sao hắn rất căm ghét con chó của tôi, cứ lấy đá ném nó luôn, có lần cắm cả kim vào bánh mì rồi đưa cho nó ăn.
Nhưng tôi còn tức hơn khi trông thấy thằng Tchurka chuồn mất, vừa sợ hãi vừa hổ thẹn.
Tôi bảo Valyok:
- Đưa đồng rúp đây, tôi đi cho!…
Vừa giễu cợt vừa dọa dẫm, hắn đưa đồng rúp cho bác Evseyenko gái, nhưng bác ta nghiêm khắc nói:
- Tao không thèm, không cần đâu!
Rồi bác giận dữ bỏ đi. Ludmilla cũng không dám cầm đồng bạc khiến Valyok càng lên nước. Tôi đã định đi không cần đòi tiền hắn ta nữa, nhưng bà tôi tới. Sau khi biết rõ đầu đuôi câu chuyện, bà cầm lấy đồng rúp, bình tĩnh bảo tôi:
- Cháu mặc thêm áo ngoài vào và mang chiếc chăn đơn theo kẻo gần sáng lạnh đấy…
Lời của bà làm tôi có thêm hi vọng rằng chẳng chuyện gì đáng sợ có thể xảy đến với tôi.
Valyok ra điều kiện rằng tôi phải nằm hoặc ngồi trên quan tài đến sáng, dù có xảy ra chuyện gì cũng không được rời khỏi chỗ, cả lúc lão Kalinin bắt đầu lắc quan tài để chui ra cũng vậy. Nếu nhảy xuống đất, tôi thua.
- Liệu chừng. – Valyok giao hẹn. – Tao sẽ theo dõi mày suốt đêm!
Khi tôi ra nghĩa địa, bà làm dấu thánh rồi khuyên:
- Nếu có thấy gì, cháu đừng cựa quậy, cứ đọc kinh Kính mừng…
Tôi rảo bước, lòng muốn chóng bắt đầu và kết thúc tất cả mọi sự. Valyok, Kostrom và vài thanh niên nữa đi theo tôi. Khi leo qua dãy tường gạch, tôi vướng chân, ngã xoài, nhưng tôi vội đứng phắt lên, tựa như người bị nảy trên mặt cát. Bên kia bức tường, bọn đi theo cười ha hả. Ngực tôi thắt lại, lưng nổi gai ốc.
Tôi vừa đến chỗ chiếc quan tài đen thì lại bị vấp. Một bên quan tài lún xuống cát, bên kia lộ ra những chân đế ngắn và to, tựa như có người nào đó cố nâng nó lên và đẩy xiêu sang bên. Tôi ngồi lên góc phía đuôi quan tài, nhìn quanh: Những cây thánh giá màu xám dựng ngổn ngang chi chít trên khu nghĩa địa đầy gò đống, những bóng đen vươn dài trên các ngôi mộ, ôm lấy các gò đất lởm chởm. Đây đó, dăm cây bạch dương thanh mảnh, khẳng khiu nhô lên lạc lõng giữa đám thánh giá, cành lá của chúng nối liền những ngôi mộ riêng biệt lại với nhau. Những ngọn cỏ thấp thoáng giữa bóng cây loang lổ như một tấm ren. Cái đám lởm chởm xám xịt ấy trông khủng khiếp nhất. Ngôi nhà thờ in trên nền trời như một khối tuyết lớn. Mặt trăng lưỡi liềm nhỏ bé chiếu sáng giữa những đám mây im lìm.
Bố thằng Yaz – “lão bần nông bẩn thỉu” – uể oải điểm chuông cầm canh. Mỗi lần bác kéo dây chuông, dây lại mắc vào tấm tôn trên mái, kêu cót két một cách ai oán, sau đó vang lên tiếng đập khô khan của cái chuông con, ngắn ngủi và tẻ ngắt.
“Lạy trời đừng làm tôi mất ngủ!” – Tôi chợt nhớ đến câu ngạn ngữ bác thường nói.
Thật là kinh khủng. Và không hiểu sao mà ngột ngạt đến thế. Tôi toát mồ hôi đầm đìa, tuy trời đêm mát mẻ. Nếu lão Kalinin mò ra khỏi mộ, liệu tôi có kịp chạy đến chòi canh không?
Khu nghĩa trang rất quen thuộc với tôi. Tôi đã chơi đùa hàng trăm lần giữa những ngôi mộ này với thằng Yaz và chúng bạn. Chỗ kia kìa, gần phía nhà thờ, là nơi chôn mẹ tôi…
Chưa phải tất cả đều đã yên ngủ. Từ phía xóm vẳng lại những tràng cười, những câu hát. Trên các ngọn đồi, nơi người ta lấy cát để đắp đường tàu, rồi từ đâu đó phía làng Katurzovka vẳng đến tiếng phong cầm rền rĩ, nức nở. Bác thợ rèn Myachov thường xuyên say rượu đang vừa đi vừa hát. Tôi nhận ra bác nhờ bài hát.
Còn mẹ của chúng tớ,
Có tí lỗi nhỏ thôi:
Mẹ chẳng yêu một ai
Chỉ yêu độc mình bố!…
Thật dễ chịu khi nghe những hơi thở cuối cùng của sự sống ấy. Nhưng sau mỗi tiếng chuông, mọi vật trở nên lặng lẽ hơn. Sự tĩnh mịch như nước sông tràn trên đồng cỏ, nhấn chìm và che giấu tất cả. Tâm hồn như chơi vơi trong khoảng không vô tận và tắt dần như ngọn lửa diêm trong bóng tối, tan đi không một dấu vết, để lại một khoảng không trống trải như biển cả, nơi chỉ có những vì sao xa tít sáng lấp lánh, còn mọi vật trên mặt đất đều thừa thãi, im lìm biến đâu mất cả.
Tôi quấn chăn, ngồi co chân trên quan tài, mặt quay về phía nhà thờ. Mỗi khi tôi cựa quậy, quan tài lại cọt kẹt, cát phía dưới lại lạo xạo.
Có vật gì rơi xuống đất, phía sau lưng tôi. Một tiếng… Hai tiếng… Rồi một hòn gạch rơi xuống ngay cạnh người tôi. Tôi sợ quá, nhưng đoán ngay là Valyok và đồng bọn ở phía sau tường ném vào để dọa tôi. Biết có người ở gần, tôi cảm thấy dễ chịu hơn.
Tự dưng tôi nghĩ tới mẹ… Một lần mẹ đánh tôi vì bắt quả tang tôi đang tập hút thuốc lá, tôi bảo:
- Đừng có đụng vào con. Chẳng cần đánh, con cũng đã khổ sở, đau đớn lắm rồi…
Bị đánh xong, tôi ngồi sau lò sưởi, còn mẹ nói với bà:
- Thằng bé trơ như gỗ đá, chẳng yêu ai cả…
Nghe những lời nói đó, tôi rất phẫn uất. Nhưng khi mẹ phạt tôi, tôi hay cảm thấy thương thương và lúng túng hộ mẹ: ít khi mẹ trừng phạt công bằng và đúng tội.
Nhưng nói chung thì cuộc đời luôn bất công, còn nhiều điều đáng giận. Đấy, chẳng hạn như những đứa đang đứng sau bức tường kia. Chúng thừa biết rằng tôi đang sợ vì ngồi một mình giữa nghĩa địa, vậy mà chúng còn muốn làm cho tôi sợ hơn nữa. Tại sao lại như vậy?
Tôi muốn quát vào mặt chúng: “Quỷ bắt chúng mày đi!”
Nhưng kêu như vậy cũng khá nguy hiểm. Ai biết được quỷ sẽ nghĩ như thế nào khi nghe tôi nói? Có lẽ nó cũng gần đâu đây thôi!
Trên mặt cát có nhiều mẩu mica vụn lấp lánh lờ mờ dưới ánh trăng khiến tôi sực nhớ đến một lần nằm trên bè ở sông Oka. Tôi đang nhìn xuống mặt nước, bỗng một con cá mè nổi lên ngay trước mặt. Khi nghiêng mình trông nó giống như má người; nó nhìn tôi bằng một con mắt tròn như mắt chim. Sau đó nó lặn xuống sâu, toàn thân rung động như chiếc lá phong rụng.
Trí nhớ của tôi mỗi lúc một căng thẳng, nó gọi lại mọi chuyện linh tinh của đời tôi, dường như muốn dựa vào đó để chống lại óc tưởng tượng đang bướng bỉnh muốn tạo ra những hình ảnh khủng khiếp.
Một con nhím đang lăn, những cái chân cứng của nó gõ gõ trên mặt đất. Trông nó giống như một vị gia thần – cũng nhỏ bé và bù xù!
Tôi lại nhớ đến cảnh bà tôi ngồi xổm trước bếp lò đọc thần chú: “Gia thần từ bi, cầu Người khử sạch lũ gián đi…”
Xa xa, phía sau thành phố mà ở đây tôi không thấy rõ, trời đã hửng sáng, hơi lạnh ban mai như chích vào má, hai mí mắt tôi díu lại. Tôi nằm co rúm chân tay, lấy chăn trùm lên đầu, thôi được, muốn ra sao thì ra!
Người đánh thức tôi dậy là bà. Bà đứng bên tôi, kéo chăn ra và nói:
- Dậy đi cháu! Có lạnh không? Sao, sợ chứ?
- Sợ lắm. Nhưng bà chớ có nói với ai về chuyện ấy, bà đừng cho bọn trẻ con biết nhé!
- Sao lại không nói? – Bà ngạc nhiên. – Nếu mày không sợ thì chẳng có gì đáng khoe nữa…
Chúng tôi đi về nhà. Dọc đường, bà dịu dàng bảo tôi:
- Mọi việc đều phải tự mình trải qua, tự mình tìm hiểu, cháu ạ… Tự mình không chịu học hỏi thì chẳng có ai dạy được mình đâu.
Cho đến chiều, tôi đã trở thành một “anh hùng” của khu phố. Mọi người đều hỏi tôi:
- Không sợ thật à?
Và khi tôi nói: “Sợ chứ!” thì họ đều lắc đầu thốt lên:
- Ấy đấy, đã thấy chưa?
Mụ chủ hiệu thì tuyên bố thật to với một giọng đầy tin tưởng:
- Rõ ràng là người ta đã bịa đặt ra chuyện ông già Kalinin mò dậy. Nếu lão đã dậy được thì đời nào lão lại sợ thằng bé? Lão cứ hất tay một cái nó cũng đủ văng ra khỏi nghĩa địa, chưa biết đến tận đâu nữa đấy.
Ludmilla nhìn tôi với một vẻ kinh ngạc đầy âu yếm. Cả ông ngoại cũng có vẻ hài lòng về tôi. Ông mỉm cười suốt, vẻ thỏa mãn. Chỉ có thằng Tchurka cảu rảu:
- Đối với nó thì dễ thôi: Bà nó là phù thủy mà lại!
Chú thích:
[19] Em cùng mẹ khác cha của Gorky.
[20] Một dân tộc phương Bắc sống ở Kamsatka.