Chương 4
Tôi lại ra tỉnh ở, trong một ngôi nhà hai tầng quét vôi trắng giống như một chiếc quan tài chung cho rất nhiều người. Nhà thì mới nhưng trông có vẻ ọp ẹp, sưng húp như một người ăn mày bỗng dưng giàu có và vội vã nhồi nhét đến phát phì. Ngôi nhà đứng quay sườn ra phố. Mỗi tầng có tám cửa sổ, còn mặt tiền thì có bốn. Cửa sổ các tầng dưới trông ra sân và một ngõ hẹp. Cửa sổ tầng trên thì trông qua hàng rào sang căn nhà nhỏ của một mụ thợ giặt và một cái rãnh bẩn thỉu.
Không có phố nào cho ra phố. Một cái rãnh bẩn thỉu chạy dài trước nhà, có hai tấm ván hẹp bắc ngang. Bên trái cái rãnh dẫn đến một nhà giam của quân đội. Rác rưởi của mọi nhà đều mang đổ xuống đấy; dưới đáy rãnh là một vũng bùn xanh thẫm đặc sệt. Bên phải, phía cuối rãnh, đầm Zvezdin đặc bùn bốc mùi chua chua. Lòng rãnh vừa đúng đối diện ngôi nhà. Một nửa bên này ngập rác rưởi, mọc đầy cây gai, cây ngưu bàng, cây chua me ngựa. Nửa bên kia, linh mục Dorimedont Pokrovski sửa sang thành một khu vườn. Trong vườn dựng một căn nhà hóng mát làm bằng phên mỏng sơn xanh. Nếu liệng vài hòn đá to vào căn nhà, những tấm phên sẽ toạc ra, kêu bùng bục.
Chỗ tôi ở buồn tẻ và bẩn thỉu kinh khủng. Mùa thu làm biến dạng mặt đất sét đầy rác rưởi thành một lớp nhựa vàng khè dính lầy nhầy lấy chân. Tôi chưa bao giờ thấy nhiều bùn như vậy trong một khoảng không gian nhỏ chừng ấy! Vốn quen với sự sạch sẽ của đồng ruộng, rừng cây, cái góc này của thành phố gây cho tôi nỗi buồn nhớ và chán ghét.
Phía bên kia rãnh là những dãy hàng rào xám cũ thối nát nối nhau chạy dài. Xa xa, giữa đám hàng rào, tôi trông thấy ngôi nhà nhỏ màu nâu xám mà tôi đã sống ở đấy dạo mùa đông, khi còn làm thằng nhỏ đứng coi hàng cho cửa hiệu, sống gần ngôi nhà ấy càng khiến tôi thấy nặng nề. Tại sao tôi lại phải sống ở khu phố này một lần nữa?
Tôi đã biết người chủ của tôi từ trước. Cậu ấy thường đến thăm mẹ tôi cùng với em trai cậu, người hay kêu the thé một cách buồn cười:
- Bố Andrej, bố Andrej!
Cả hai cậu trông vẫn như xưa: Cậu anh mũi khoằm, tóc dài, người trông dễ thương và có vẻ tốt bụng, cậu em Viktor vẫn nguyên bộ mặt ngựa đầy tàn hương như trước kia. Mẹ của họ, tức là em gái của bà ngoại tôi, là một người bẳn tính và hay la hét. Cậu anh đã có vợ. Vợ cậu trông rất diêm dúa, trắng như bột mì. Mợ có cặp mắt to màu huyền.
Ngay những ngày đầu, mợ đã hai lần bảo tôi:
- Tao đã tặng cho mẹ mày một cái áo dài lụa ngắn tay có đính hạt cườm…
Không hiểu sao tôi không muốn tin rằng mợ đã tặng và mẹ tôi đã nhận món quà đó. Khi thấy mợ nhắc lại về cái áo đó, tôi bèn khuyên mợ:
- Đã tặng rồi thì đừng có khoe khoang.
Mợ sợ hãi nhảy lùi lại, cách xa tôi.
- Sao? Mày nói với ai đấy?
Mặt mợ nổi những đốm đỏ, mắt trợn lên, mợ gọi chồng lại. Người chồng bước vào bếp, tay cầm compa, bút chì giắt trên tai, lắng nghe vợ nói rồi bảo tôi:
- Phải xưng hô với mợ và với mọi người cho tử tế. Không được xấc láo!
Sau đó, cậu sốt ruột bảo vợ:
- Em đừng có quấy rầy anh với những chuyện vớ vẩn như vậy!
- Sao, chuyện vớ vẩn à? Nếu thằng cháu họ của anh…
- Quỷ bắt nó đi, họ với hàng! – Cậu la lên và chạy mất.
Tôi cũng không thích cho những người đó là họ hàng với bà tôi. Theo quan sát của tôi thì người trong họ đối đãi với nhau còn tồi hơn người dưng nước lã. Họ biết những chuyện xấu và lố bịch của nhau nhiều hơn người ngoài, và họ càng đặt điều cho nhau một cách thâm độc hơn, càng năng cãi nhau và đánh nhau.
Tôi thấy mến cậu chủ. Cậu có kiểu hất tóc rất điệu nghệ, rồi giắt ra sau mang tai, khiến tôi thấy cậu có nét gì giống như bác Tốt Lắm[25]. Cậu hay cười vẻ khoái chí; cặp mắt xám nhìn thật hiền hậu; những nếp nhăn nho nhỏ hằn lên hai bên cái mũi khoằm rộng trông thật ngộ nghĩnh.
- Đồ quỷ[26], cãi nhau thế là đủ rồi đấy! – Cậu nói với vợ và mẹ, để lộ hàm răng nhỏ và sít qua nụ cười dịu dàng.
Mẹ chồng và con dâu chửi nhau hằng ngày. Tôi lấy làm lạ thấy họ cãi nhau quá dễ dàng và nhanh chóng. Từ sáng sớm, khi cả hai còn chưa kịp chải đầu, cài áo, họ đã bắt đầu lồng lộn lên trong phòng như nhà bị cháy. Họ chạy ngược chạy xuôi suốt ngày, chỉ nghỉ khi ngồi vào bàn ăn trưa, uống trà chiều và ăn tối. Họ ăn, họ uống nhiều đến nỗi say túy lúy và mệt phờ. Trong bữa ăn, họ bàn tán về các món ăn, uể oải nói kháy nhau để chuẩn bị cho cuộc cãi vã sắp tới. Dù cho mẹ chồng cố nấu nướng thế nào, nàng dâu cũng cứ nói:
- Mẹ tôi không làm như thế này đâu.
- Không làm như thế thì chỉ có tồi hơn thôi!
- Không, hơn chứ!
- Thế thì xéo về với mẹ mày mà ở.
- Tôi là chủ nhà ở đây!
- Thế còn tao thì là cái gì?
Cậu chủ xen vào:
- Thôi đủ rồi, đồ quỷ! Các người điên cả rồi hay sao?
Mọi việc trong nhà đều lạ lùng và buồn cười hết sức. Lối từ bếp vào phòng ăn xuyên qua cái chuồng xí độc nhất trong nhà, vừa nhỏ vừa hẹp, người ta phải đi qua đó để mang ấm samovar và các món vào phòng ăn. Cái chuồng xí này là đề tài của các trò đùa vui nhộn và nguyên nhân của những sự hiểu lầm tức cười. Tôi có nhiệm vụ đổ đầy nước vào cái thùng trong chuồng xí. Tôi ngủ trong bếp, đối diện với cửa chuồng xí và cạnh cái cửa dẫn ra bậc hiên chính. Đầu tôi thì nóng vì cái bếp lò, chân thì bị gió lạnh ngoài hiên lùa vào. Khi ngủ, tôi nhặt nhạnh các miếng thảm chùi chân và đắp lên chân.
Trong phòng khách lớn có hai tấm gương treo trên bức tường giữa các cửa sổ, mấy bức tranh được giải thưởng trong Niva[27] lồng khung thiếp vàng, hai bàn đánh bài và một tá ghế mây kiểu Vienna. Gian phòng hoang vắng và buồn tẻ. Phòng khách nhỏ thì chật ních mấy thứ đồ gỗ linh tinh có đệm, những cái giá hình tháp chất “của hồi môn”, một số đồ dùng bằng bạc, ấm chén trà. Ba cái đèn lớn nhỏ khác nhau tô điểm cho căn phòng. Phòng ngủ tối om không có cửa sổ, ngoài chiếc giường rộng còn có hòm xiểng và tủ đứng tỏa mùi thuốc lá và mùi hoa cúc Ba Tư. Ba căn phòng đó luôn luôn bỏ trống, còn chủ nhà thì chen chúc trong gian phòng ăn nhỏ bé, người nọ vướng người kia. Khoảng tám giờ, ngay sau bữa trà sáng, hai người cậu kéo bàn rộng ra và bày lên trên những tờ giấy trắng, hộp đồ vẽ, bút chì, đĩa mực đen rồi bắt đầu làm việc, mỗi người ngồi một đầu bàn, đối diện nhau. Chiếc bàn cập kênh, choán cả căn phòng. Vì vậy, mỗi khi mụ vú nuôi và mợ chủ đi từ buồng trẻ ra, họ lại vướng phải các cạnh bàn.
- Đừng có quanh quẩn ở đây! – Cậu Viktor kêu lên.
Mợ chủ tức giận bảo chồng:
- Vasya[28], anh phải bảo cậu ấy đừng có mà quát mắng tôi như vậy!
- Nhưng em đừng có làm rung bàn. – Cậu chủ dàn hòa, ôn tồn khuyên vợ.
- Em bụng mang dạ chửa, mà ở đây thì chật chội…
- Thôi được, chúng tôi sẽ vào phòng lớn làm việc.
Nhưng mợ chủ tức giận kêu lên:
- Trời ơi, có ai làm việc trong phòng khách lớn bao giờ?
Từ sau cánh cửa chuồng xí ló ra bộ mặt tức tối, nóng đỏ vì lửa bếp của bà lão Matryona Ivanovna. Bà ta kêu lên:
- Đấy, Vasya, con thử nhìn xem: Con làm việc, còn nó thì rặn đẻ trong cả bốn phòng vẫn chưa đủ. Cứ như bà chúa ấy, mà nào có giỏi giang gì…
Cậu Viktor cười một cách thâm độc, còn cậu chủ thì quát:
- Thôi, đủ rồi!
Nhưng người con dâu sau khi đã trút như thác đổ lên đầu mẹ chồng những lời lẽ văn vẻ cay độc nhất, bèn lăn ra ghế, rên rỉ:
- Tôi sẽ đi đây! Tôi chết mất thôi!
- Yên cho tôi làm việc, quỷ bắt các người đi! – Cậu chủ quát tướng, mặt tái đi vì cố sức. – Thật là một cái nhà thương điên. Chính vì để nuôi các người mà tôi phải làm việc đến gãy lưng ra đây! Chao ôi, đồ quỷ!…
Thoạt đầu những cuộc cãi cọ ấy khiến tôi sợ. Tôi hãi nhất hôm mợ chủ túm lấy con dao ăn và chạy vào chuồng xí. Mợ khóa trái cửa, gào khóc dữ dội trong đó. Trong nhà lặng đi một phút, rồi cậu chủ tì hai tay vào cánh cửa, cúi khom xuống và quát tôi:
- Trèo lên lưng tao đập vỡ kính rồi nhấc cái móc ra!
Tôi vội nhảy phắt lên lưng cậu, đập vỡ tấm kính trên cửa. Nhưng khi tôi định cúi người vào trong thì mợ chủ liền lấy chuôi dao cứ thế gõ vào đầu tôi một thôi. Dầu sao tôi cũng mở được cửa và cậu tôi phải trầy trật lắm mới kéo được vợ ra phòng ăn và tước con dao. Ngồi trong bếp xoa bóp chỗ bị đánh vào đầu, tôi đoán ngay ra rằng mình đã uổng công chịu đau: Con dao cùn đến nỗi cắt bánh mì còn khó thì cứa cổ thế nào được? Tôi không cần phải nhảy lên lưng cậu chủ làm gì. Đứng trên ghế tôi cũng có thể đập vỡ tấm kính ra rồi. Và cuối cùng, tốt nhất là để cho người lớn mở khóa vì tay của họ dài hơn! Sau câu chuyện đó, những cuộc cãi cọ trong nhà không còn làm tôi sợ hãi nữa.
Cả hai cậu cùng hát trong đội đồng ca của nhà thờ. Có khi đang làm việc, họ cất tiếng khe khẽ hát, cậu anh mở đầu, giọng hơi trầm:
Tôi đã đánh rơi xuống biển,
Chiếc nhẫn của người trinh nữ…[29]
Cậu em tiếp, giọng nam cao:
Và cùng với chiếc nhẫn của nàng,
Tôi đã mất cả hạnh phúc trần gian.
Từ trong phòng trẻ vẳng ra tiếng kêu khẽ của mợ chủ:
- Các người điên đấy à? Thằng bé đang ngủ…
Hoặc:
- Vasya, anh đã có vợ rồi, có thể không cần hát về những nàng trinh nữ nữa, hát để làm gì mới được chứ? Mà bây giờ cũng sắp chuông chầu rồi…
- Thế thì bọn tôi hát một bài thánh ca vậy…
Nhưng mợ chủ khuyên rằng nói chung không nên hát thánh ca ở bất cứ chỗ nào, nhất là… – và mợ chỉ tay một cách hùng hồn về cái cửa nhỏ.
- Phải đổi phòng mới được. Không thì tôi đến điên lên mất! – Cậu chủ nói.
Cậu cũng nói không ít về việc phải đổi bàn, nhưng cậu cứ nói như vậy suốt hơn ba năm trời.
Nghe những câu chuyện của nhà chủ bàn về người đời, tôi luôn liên tưởng tới cửa hiệu giày, ở đấy người ta cũng hay nói đến những chuyện như vậy. Tôi thấy rõ rằng những người chủ này của tôi cũng tự cho mình là những công dân ưu việt nhất trong thành phố. Họ biết những phép cư xử đúng đắn nhất và dựa trên những phép tắc mù mờ đối với tôi đó mà kết tội mọi người một cách tàn nhẫn, không thương tiếc. Sự kết tội đó khiến tôi bực điên người và cứ muốn chống đối các mệnh lệnh của nhà chủ. Với tôi, phá vỡ những luật lệ ấy là một nguồn thích thú.
Công việc của tôi rất nhiều: Tôi phải làm nhiệm vụ của con sen, thứ Tư lau sàn bếp, đánh ấm samovar và các đồ đồng, thứ Bảy lau sàn cả nhà và hai cái cầu thang. Tôi chẻ củi rồi mang đến các bếp lò, rửa bát đĩa, nhặt rau, đi chợ với mợ chủ, xách giỏ thức ăn theo sau, chạy đi mua hàng lặt vặt, mua thuốc…
Người cai quản tôi sát sao nhất là em gái của bà ngoại – bà già hay làm ầm ĩ, lúc nào cũng nổi giận. Bà ta dậy sớm, vào khoảng sáu giờ sáng. Sau khi rửa mặt rất nhanh, mặc độc chiếc áo cánh, bà quỳ trước tượng Chúa và than thở rất lâu với Chúa về cuộc đời của mình, về con cái, nàng dâu.
- Lạy Chúa! – Bà nghẹn ngào thốt lên, chụm ngón tay áp vào trán. – Lạy Chúa, con không cầu xin gì cả, con không cần gì cả. Chỉ xin Chúa cho con được nghỉ ngơi. Chúa hãy ban phước lành cho con!
Những tiếng kêu cầu của bà làm tôi tỉnh giấc. Tôi nằm trong chăn, nhìn ra và sợ hãi lắng nghe những lời cầu nguyện sôi nổi đó. Buổi sáng mùa thu lờ mờ hiện trên những tấm kính đẫm nước mưa của ô cửa sổ nhà bếp. Trong bóng tối mờ mờ lạnh lẽo, một bóng xám lắc lư trên sàn, vẫy vẫy bàn tay một cách lo lắng. Phía dưới chiếc khăn vuông đã xổ, vài mớ tóc nhạt màu từ trên mái đầu nhỏ xõa xuống cổ và vai. Chiếc khăn mỗi lúc một tụt khỏi đầu. Bà già đưa tay trái lên sửa vội khăn, miệng lẩm bẩm:
- Ma quỷ xé xác mày ra!
Bà run rẩy đập vào trán, vào bụng và hai vai rồi rít lên:
- Xin Chúa hãy vì con mà trừng phạt đứa con dâu. Chúa hãy trút cho nó tất cả mọi nỗi bực tức của con. Xin Chúa hãy mở mắt cho đứa con trai của con, cho đứa con dâu và cho cả thằng Viktoruska[30] nữa! Lạy Chúa, Chúa hãy giúp thằng Viktoruska, ban phước lành cho nó.
Viktoruska đang nằm ngủ trên gác lửng cạnh lò sưởi trong bếp. Bị đánh thức bởi tiếng rên rỉ của mẹ, cậu ta quát lên bằng giọng ngái ngủ:
- Mới bảnh mắt ra mẹ đã bù lu bù loa lên rồi! Thật là khốn khổ!
- Thôi được, thôi được, ngủ đi. – Bà già thì thào vẻ hối lỗi. Bà im lặng lắc lư một hai phút rồi bỗng lại kêu lên, giọng đầy thù hằn. – Làm sao cho chúng đau nhức khắp trong xương, không nhà không cửa, lạy Chúa…
Ngay đến ông ngoại tôi cũng không cầu nguyện kinh khủng đến thế.
Cầu nguyện xong, bà đánh thức tôi:
- Dậy đi thôi. Nuôi mày có phải là để nằm ườn ra đấy đâu!… Đi đặt ấm samovar, mang củi vào. Hôm qua không chẻ đóm rồi phải không? Hừ!
Tôi cố gắng làm thật nhanh mọi công việc để khỏi phải nghe những tiếng léo nhéo của bà già, nhưng không thể nào làm bà vừa ý được. Bà lồng lên trong bếp như một cơn bão tuyết, vừa gầm rống vừa kêu rít:
- Khẽ chứ, thằng quỷ sứ! Mày mà làm cậu Viktoruska thức giấc thì tao sẽ cho mày một trận! Chạy ra hiệu…
Ngày thường, họ mua cho mợ chủ hai funt bánh mì trắng và hai kopek bánh mì loại rẻ tiền để dùng cho bữa trà sáng. Khi tôi mang bánh về, hai người đàn bà ngắm nghía miếng bánh với vẻ nghi ngờ, cầm trên lòng bàn tay, ướm cân thử rồi hỏi:
- Còn có thêm mẩu nào nữa không? Không có à? Há mồm ra xem nào!
Rồi họ đắc thắng kêu lên:
- Nó chén mất miếng thêm ấy rồi. Thấy chưa, còn dính một chút ở răng kia kìa!
… Tôi làm việc một cách tự nguyện. Tôi thích dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, tôi lau sàn, đánh đồng hồ, lau ống thông hơi và các nắm đấm cửa. Đã nhiều lần tôi nghe mấy người đàn bà nói về tôi trong những giờ phút họ hòa thuận.
- Thằng bé chịu khó đấy chứ.
- Nó ưa sạch sẽ.
- Chỉ phải cái xấc láo quá.
- Thì có ai giáo dục nó đâu, hở mẹ!
Và cả hai đều cố “giáo dục” tôi kính trọng họ, nhưng tôi cho rằng họ là những kẻ điên dở nên không thích, không nghe lời và ăn miếng trả miếng họ. Mợ chủ có lẽ nhận thấy nhiều câu nói của mình không có tác dụng gì với tôi nên hay bảo:
- Mày phải nhớ rằng mày là con một gia đình hèn kém! Tao đã cho mẹ mày một chiếc áo dài lụa ngắn tay. Có đính hạt cườm nữa.
Một hôm, tôi đáp:
- Có lẽ vì chiếc áo đó mà cháu phải lột da ra để trả mợ chắc?
- Cha mẹ cả, thằng này có thể đốt nhà được đấy! – Mợ chủ sợ hãi kêu.
Tôi vô cùng ngạc nhiên: Tại sao phải đốt nhà?
Hai người đàn bà luôn than phiền về tôi với cậu chủ. Cậu nghiêm khắc bảo tôi:
- Này anh bạn, liệu hồn đấy!
Nhưng có lần, cậu thờ ơ đáp vợ và mẹ:
- Còn các người thì cũng tốt lắm đấy! Các người làm tình làm tội thằng bé như cưỡi một con ngựa thiến ấy. Giá như đứa khác thì nó chuồn từ lâu rồi, hay cũng chết rấp vì bấy nhiêu công việc…
Những lời đó làm hai mụ tức đến phát khóc. Vợ cậu giậm chân, la hét như điên:
- Có thể nào lại nói như vậy trước mặt thằng bé được, hở đồ ngốc tóc dài kia? Nói như thế thì tôi còn ra cái quái gì đối với nó nữa? Tôi đang bụng mang dạ chửa…
Bà mẹ thì gào lên, nước mắt ròng ròng:
- Vassili, lạy Chúa tha tội cho mày. Nhớ lấy lời mẹ nói: Mày sẽ làm hỏng thằng bé mất thôi!
Khi họ giận dữ bỏ đi cả, cậu chủ nghiêm khắc bảo tôi:
- Thấy chưa, thằng quỷ con? Vì mày mà ầm lên như thế đấy! Tao mà đưa mày về với ông mày thì lại đi nhặt giẻ rách sớm!
Không chịu được tủi nhục, tôi nói:
- Thà nhặt giẻ cũng còn sướng hơn ở với cậu. Nhận cháu làm học trò mà dạy được những gì nào? Đi đổ nước rác…
Cậu chủ túm tóc tôi, nhưng khẽ thôi, không khiến tôi cảm thấy đau, rồi nhìn vào mắt tôi mà nói, vẻ kinh ngạc:
- Thì ra ông bạn cũng bướng bỉnh thật! Người anh em ạ, điều đó không hợp với tao đâu, khô…ô…ông…
Tôi tưởng người ta sẽ đuổi tôi. Nhưng sau đó, một hôm cậu chủ xuống bếp, tay cầm cuộn giấy dày cùng với bút chì, thước vuông góc và thước kẻ.
- Mài dao xong thì vẽ cái này!
Trên tờ giấy có vẽ mặt trước của một ngôi nhà hai tầng với rất nhiều cửa sổ và những hình trang trí đắp nổi.
- Compa của mày đây! Mày hãy đo, rồi đánh dấu điểm đầu điểm cuối của các đường thẳng lên mặt giấy bằng những dấu chấm. Sau đó lấy thước và bút chì nối chấm này với chấm kia. Đầu tiên đặt thước ngang – kẻ những đường ngang – sau đặt dọc – kẻ những đường thẳng đứng. Cứ thế mà làm!
Tôi rất vui mừng vì được làm cái việc sạch sẽ – bước đầu của việc học tập – này. Nhưng tôi nhìn tờ giấy và các dụng cụ với một vẻ hết sức kinh sợ vì không hiểu gì cả.
Tuy nhiên, tôi vẫn lập tức rửa tay rồi ngồi học. Tôi kẻ tất cả các đường ngang trên tờ giấy và soát lại – tốt lắm! Nhưng thừa mất ba đường. Tôi kẻ tất cả các đường thẳng đứng và ngạc nhiên thấy mặt tiền ngôi nhà bị sai lệch một cách lố bịch: Cửa sổ rời sang khoảng tường giữa hai cửa ra vào, một ô cửa sổ chạy khỏi tường và treo lửng lơ trong không khí, bên cạnh ngôi nhà. Thềm chính diện cũng lơ lửng, nằm chót vót trên tầng hai. Đầu hồi thì lọt ngay vào giữa mái. Cửa sổ tò vò thì nằm trên ống khói.
Tôi suýt phát khóc, nhìn rất lâu vào những hình thù kì dị không thể nào sửa chữa lại được ấy, cố tìm hiểu xem tại sao chúng lại thành ra như thế, nhưng không sao hiểu được. Tôi bèn quyết định sửa chữa bằng trí tưởng tượng. Tôi vẽ la liệt những quạ, bồ câu, chim sẻ ở mặt chính diện ngôi nhà, trên các đầu hồi và trên nóc nhà. Còn trên khoảng đất phía trước cửa sổ thì tôi vẽ những người chân cong queo cầm ô, nhưng ô không che hết được hình thù xấu xí của họ. Sau đó tôi gạch những đường chéo đè lên tất cả những hình ảnh ấy và mang tác phẩm của mình nộp thầy giáo.
Cậu tôi rướn cao lông mày lên, vò tóc và cau có hỏi:
- Cái gì thế này?
- Trời mưa. – Tôi cắt nghĩa. – Khi mưa, nhà nào hình như cũng xiên xẹo, vì chính mưa cũng luôn luôn xiên mà lại! Còn tất cả đều là chim hết, chúng nó nấp ở đầu hồi. Khi trời mưa thì bao giờ cũng như vậy mà! Và đây là những người đang chạy về nhà. Đây là một bà quý phái bị ngã. Còn đây là người bán chanh rong…
- Cảm ơn lắm lắm. – Cậu chủ nói và cúi gập người xuống mặt bàn, tóc quét cả lên giấy; cậu vừa cười phá lên vừa kêu. – Hừ, con chim sẻ ngang ngạnh này, phải cho mày một trận tơi bời mới được!
Mợ chủ tới, đung đưa cái bụng bầu như chiếc thùng con, nhìn “công trình” của tôi rồi bảo chồng:
- Anh phải dần cho nó một trận!
Nhưng cậu chủ ôn tồn:
- Không sao. Chính anh bắt đầu cũng không hơn gì nó…
Sau khi lấy bút chì đỏ đánh dấu những chỗ hư hỏng ở mặt chính diện ngôi nhà, cậu đưa thêm giấy cho tôi.
- Làm lại một lần nữa! Cứ vẽ cái này cho đến khi nào được thì thôi…
Bức họa thứ hai của tôi khá hơn, chỉ có một cửa sổ nằm đè lên cửa ra vào ở bậc tam cấp. Nhưng tôi không thích cảnh nhà cửa vắng vẻ, nên cho đủ các khách trọ khắp nơi đến ở: Những bà quý phái tay cầm quạt ngồi bên cửa sổ, tình nhân của họ đang hút thuốc lá, một người trong bọn họ không hút thuốc, đang trêu chọc mọi người; trước bậc tam cấp có một người đánh xe ngựa đang đứng và một con chó đang nằm.
- Sao mày lại còn bôi bẩn ra như thế này? – Cậu chủ giận dữ hỏi.
Tôi giải thích cho cậu rằng không có người thì rất buồn, nhưng cậu chửi ầm lên.
- Hỏng bét cả rồi! Nếu mày muốn học hỏi thì phải học cho tử tế. Còn cái này chỉ là trò tinh nghịch mà thôi…
Cuối cùng, khi tôi sao lại được hình mặt chính diện ngôi nhà giống như bản chính, cậu rất vui lòng.
- Cháu thấy chưa, cháu cũng biết đấy chứ! Cứ như thế này thì chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ làm được khối việc đấy!
Rồi cậu trao nhiệm vụ cho tôi:
- Cháu hãy vẽ sơ đồ một căn nhà: Các phòng bố trí ra sao, cửa ra vào và cửa sổ ở đâu, đồ đạc đặt tại vị trí nào… Cậu sẽ không chỉ dẫn gì cả, cháu cứ tự xoay xở lấy!
Tôi đi xuống bếp và suy nghĩ – bắt đầu vẽ gì bây giờ?
Nhưng đến đây thì việc học nghệ thuật vẽ đồ án của tôi chấm dứt.
Một hôm, bà mẹ cậu chủ đến gần tôi và hỏi với giọng chẳng lấy gì làm tốt đẹp:
- Mày muốn vẽ à?
Rồi túm tóc tôi, bà đập đầu tôi xuống bàn khiến tôi giập cả mũi lẫn môi, rồi bà vừa nhảy chồm chồm vừa xé tan tờ giấy vẽ, vứt các dụng cụ ra sàn, chống nạnh, la lên vẻ đắc thắng:
- Đấy, vẽ đi! Không, không thể thế được! Ai lại để cho một đứa xa lạ tận đâu đến làm việc, còn đứa em độc nhất, ruột thịt của mình thì đuổi đi bao giờ?
Cậu chủ chạy đến, rồi vợ cậu cũng lạch bạch mò lại, và một cuộc cãi lộn kinh khủng bắt đầu: Cả ba người lăn xả vào nhau, nhổ nước bọt vào mặt nhau, gào rống lên. Cuối cùng, khi hai người đàn bà khóc lóc bỏ đi, cậu chủ bảo tôi:
- Tạm thời cháu hãy gác mọi công việc lại đã, đừng học nữa. Đấy, cháu cũng thấy sự thể như vậy đấy!
Tôi thương hại cậu, một kẻ bị giày vò, bất lực và suốt đời điếc tai vì những tiếng kêu la của hai mụ đàn bà.
Trước đây tôi cũng biết rằng bà già không muốn cho tôi học, cố tình cản trở việc đó. Trước khi ngồi vào bàn vẽ, bao giờ tôi cũng hỏi bà:
- Có việc gì làm không ạ?
Bà cau có:
- Khi nào có, tao khắc bảo. Cứ việc ngồi ở bàn mà nghịch ngợm đi…
Nhưng một lát sau bà lại sai tôi đi đâu đó, hoặc là nói:
- Cầu thang chính mày quét đấy à? Rác, bụi còn đầy ở các góc! Đi quét lại đi…
Tôi đến xem, chẳng thấy tí bụi nào.
- Mày lại cãi tao à? – Bà la lên.
Một lần bà lấy nước kvass[31] đổ lên các bản vẽ của tôi. Một lần khác, bà làm đổ ngọn đèn dầu thắp trước tượng thánh lên. Bà ta tinh quái như một đứa trẻ con có tính ranh vặt và thói giấu đầu hở đuôi mỗi khi định che đậy mấy trò tinh nghịch. Tôi chưa từng thấy và sau này cũng không bao giờ thấy lại một người dễ dàng và nhanh chóng nổi nóng, đồng thời thích than vãn về mọi người và mọi việc một cách say sưa như bà ta. Người ta nói chung ai cũng thích than vãn, nhưng bà ta làm việc này với một vẻ thích thú đặc biệt, tựa như bà ta ngâm thơ vậy.
Tình yêu của bà đối với con trai thật mù quáng. Sức mạnh của tình yêu đó, mà tôi không thể gọi bằng cái tên nào khác ngoài sức mạnh cuồng bạo, làm tôi vừa buồn cười vừa sợ hãi. Thỉnh thoảng, sau khi cầu nguyện buổi sáng, bà trèo lên bậc lò sưởi, chống khuỷu tay vào miếng ván ngoài cùng của gác lửng và sôi nổi rít lên:
- Đứa con trời tình cờ của mẹ, giọt máu nóng, trong sạch, quý báu của mẹ, chiếc lông thiên thần nhẹ nhàng của mẹ! Con ngủ đi, ngủ đi, con của mẹ! Cầu cho hồn con tràn ngập một giấc mơ vui vẻ! Cầu cho con mơ thấy một người vợ chưa cưới, một người con gái đẹp nhất trần đời, một nàng công chúa, một cô gái giàu có, con của một đại thương nhân! Cầu cho những kẻ thù của con chưa đẻ đã chết tiệt. Còn bạn bè của con thì sống đến trăm tuổi, cầu cho con gái chạy theo con hàng đàn như vịt cái theo vịt đực!
Tôi buồn cười không thể chịu được: Cậu Viktor thì thô lỗ và lười nhác giống như con chim gõ kiến – cũng sặc sỡ và mũi cũng dài như vậy, cũng ương bướng và đần độn như vậy.
Đôi khi tiếng rì rầm của bà mẹ khiến Viktor tỉnh giấc, cậu ngái ngủ, càu nhàu:
- Mẹ cút ra chỗ khác đi, sao lại cứ thổi phì phì vào mặt tôi thế này. Không tài nào sống nổi nữa!
Có lúc bà ngoan ngoãn tụt khỏi bậc lò sưởi và cười nhạt:
- Thôi được, mày cứ ngủ đi, ngủ đi… Đồ thô lỗ!
Nhưng cũng có khi chân bà khuỵu xuống, vấp vào mép lò sưởi; bà há miệng thở hồng hộc như bị bỏng lưỡi và réo lên những lời lẽ cay nghiệt:
- Thế đấy ư? Mày đuổi mẹ mày cút đi à, hở thằng khốn nạn kia? Chao ôi, cái đồ nhục nhã kia, cái dằm đáng nguyền rủa kia! Quỷ sứ đã bắt mày đầu thai vào người tao, sao mày không chết rữa ra từ lúc chưa đẻ?
Bà ta thốt những lời thật bẩn thỉu, những lời của dân say rượu ngoài đường phố. Nghe bà ta nói mà rợn cả người.
Bà ta ngủ ít, hay trở mình. Trong một đêm có khi bà nhổm dậy khỏi lò sưởi đến mấy lần, vấp vào cái đi văng của tôi và làm tôi tỉnh giấc.
- Gì thế bà?
- Im đi. – Bà ta thì thào, vừa làm dấu vừa chăm chú nhìn vật gì trong bóng tối. – Lạy Chúa… Lạy Thánh Ilya… Đức thánh Varvara tử vì đạo… Xin Người hãy bảo vệ khỏi những cái chết bất ngờ…
Bà ta đốt nến với bàn tay run rẩy. Khuôn mặt tròn với cái mũi to của bà ta căng phồng lên. Cặp mắt xám nhấp nháy một cách lo lắng, chăm chú nhìn những vật xung quanh đã bị bóng tối làm thay hình đổi dạng. Căn bếp vốn to nhưng bị những tủ và hòm choán lấp, ban đêm trông như bé hẳn lại. Ánh trăng lặng lẽ chiếu vào bếp, ngọn lửa nhỏ của cây đèn dầu thắp suốt ngày đêm trước tượng thánh run rẩy, những con dao trên tường lóe sáng như băng nhũ, trên các ngăn tủ, mấy cái chảo đen sì trông như những bộ mặt không mắt của người nào đó.
Bà già rón rén tụt khỏi lò sưởi như người tụt từ bờ sông xuống nước. Rồi cứ nguyên chân đất, bà đi lại góc nhà, chỗ có treo, phía trên chậu nước rác, một cái chậu rửa tay có quai xách trông như một cái đầu lâu. Ở chỗ đó còn đặt một thùng nước lã.
Bà ta uống nước, vừa sặc vừa thở. Sau đó bà nhìn ra ngoài cửa sổ qua những hình màu xanh nhạt của các hạt băng đọng trên kính nom như những đường thêu.
- Xin Chúa hãy tha thứ cho con, lạy Chúa, tha thứ cho con. – Bà thầm thì cầu xin.
Đôi lúc, sau khi nến tắt, bà quỳ xuống và rít lên:
- Lạy Chúa, có ai yêu con, có ai cần đến con đâu?
Rồi bà leo lên lò sưởi, và sau khi làm dấu thánh giá trước cửa lò, bà sờ xem các chốt cửa lò đã cài chặt chưa. Tay bị quệt bẩn đầy bồ hóng, bà chửi vung lên và chợt ngủ thiếp đi lúc nào không biết, tựa như bị một sức mạnh vô hình nào đó quật chết. Những khi tôi bị bà làm tủi nhục, tôi thường nghĩ: “Tiếc rằng ông ngoại không lấy bà làm vợ. Bà ta sẽ trị được ông! Và ông cũng sẽ trị bà ta đến nơi đến chốn.” Bà ta luôn làm tôi bực mình, nhưng cũng có những ngày bộ mặt húp híp nhũn như bông của bà trở nên rầu rĩ, mắt nhòa lệ, bà nói một cách tâm đắc:
- Mày tưởng tao nhẹ nhõm lắm à? Đẻ con ra, chăm bẵm nuôi nấng, dạy thành người, nhưng để làm gì? Đấy, bây giờ tao sống như con mụ bếp của chúng nó, có sung sướng gì đâu? Con trai mang một đứa đàn bà lạ mặt đến và coi vợ hơn cả máu mủ của mình, mày thử nghĩ xem có được không? Hở?
- Không được. – Tôi thành thật.
- Đấy! Thế đấy…
Và bà bắt đầu kể lể một cách trắng trợn về con dâu:
- Tao đã cùng tắm với nó, tao thấy hết. Có cái gì mà nó say mê con ấy mới được chứ? Những của ấy mà gọi là đẹp à?…
Bà ta luôn nói về quan hệ giữa đàn ông và đàn bà một cách bẩn thỉu lạ lùng. Thoạt đầu những lời nói của bà làm cho tôi ghê tởm, nhưng chẳng bao lâu tôi đã quen, nghe một cách chăm chú và rất hứng thú. Tôi cảm thấy có một phần sự thật nặng nề trong những lời nói của bà.
- Đàn bà là sức mạnh. Nó đã lừa dối đến cả Chúa nữa, ghê gớm như vậy đấy! – Bà ta nói, giọng đều đều, tay khẽ vỗ vỗ trên bàn. – Vì Eva mà cả loài người phải xuống địa ngục đấy, thấy chưa?
Về sức mạnh của đàn bà, bà có thể nói tràng giang đại hải. Tôi luôn có cảm giác rằng bà dùng những câu chuyện đó để dọa ai. Tôi nhớ nhất là chuyện “Eva đã lừa dối Chúa”.
Ở khu nhà chúng tôi có một chái nhà nhìn ra sân, cũng to như một ngôi nhà. Trong số tám căn của hai tòa nhà thì các sĩ quan ở bốn, căn thứ năm có linh mục của trung đoàn ở. Cả khu nhà đầy những lính cần vụ và loong toong. Các mụ thợ giặt, con sen, mụ bếp thường lui tới với bọn này. Trong mọi nhà bếp thường xuyên diễn ra những thiên tình sử, những tấn bi kịch đẫm nước mắt và cả lời chửi rủa, các vụ ẩu đả. Lính tráng lúc thì đánh nhau, lúc thì đánh đám thợ đấu hoặc thợ mướn của nhà chủ. Họ đánh cả đàn bà. Khu nhà lúc nào cũng sục sôi một không khí mà người ta thường gọi là dâm đãng, trụy lạc – đó là sự đói khát đầy thú tính không kiềm chế nổi của đám trai trẻ khỏe mạnh. Cuộc sống đó ứ thừa tính dâm dục tàn nhẫn, sự bạo dâm vô nghĩa lí, sự khoe khoang đầy bẩn thỉu của những kẻ chiến thắng. Cuộc sống đó được nhà chủ của tôi mang ra bàn tán trong các bữa trưa, bữa trà chiều và bữa tối một cách tỉ mỉ, trắng trợn. Bà già biết hết mọi chuyện trong khu nhà, kể một cách say sưa, thích thú trên nỗi đau khổ của kẻ khác.
Mợ chủ ngồi nghe những chuyện, lặng thinh mỉm cười, cặp môi căng mọng. Viktor cười ha hả, còn cậu chủ thì nhăn mặt:
- Thôi đủ rồi, mẹ ạ!…
- Lạy Chúa, đến cả nói chuyện tao cũng không được nói hay sao! – Bà ta than vãn.
Viktor khuyến khích bà ta:
- Kể đi, mẹ, có gì mà phải e ngại! Người nhà cả…
Người con cả đối xử với mẹ bằng thái độ thương hại lẫn khinh miệt, cậu tránh đối diện một mình với bà. Nếu chẳng may đụng mặt, bà mẹ hay phun ra những lời than vãn về nàng dâu và cuối cùng thế nào cũng xin tiền. Cậu vội vàng nhét vào tay mẹ vài ba rúp, hoặc một vài đồng hào bạc.
- Mẹ ạ, mẹ lấy tiền thật là vô ích, con không tiếc tiền đâu, nhưng… Thật là vô ích!
- Mẹ dùng để bố thí cho ăn mày, mua nến, đi nhà thờ…
- Ăn mày ăn miếc gì! Mẹ đến làm hỏng thằng Viktor mất thôi.
- Con chẳng thương em chút nào, tội lớn đấy con ạ!
Cậu phẩy tay, bỏ đi.
Viktor thì lúc nào cũng thô bỉ, giễu cợt mẹ. Cậu rất háu ăn và luôn trong trạng thái đói. Chủ nhật, bà mẹ thường rán bánh bột và hay giấu vài cái vào chậu rồi để xuống dưới gầm đi văng của tôi. Dự lễ sáng về, cậu Viktor lôi chậu ra, càu nhàu:
- Không thể để phần nhiều hơn nữa ư, hở mụ quản gia?
- Tọng nhanh lên, kẻo chúng nó thấy bây giờ…
- Con sẽ kể lại chuyện mẹ đã ăn cắp bánh bột cho con như thế nào, thật là cứng họng nhé![32]
Có một lần tôi lôi cái chậu ra, ăn mất hai chiếc bánh bột và bị Viktor đánh cho một trận. Cậu không ưa tôi, cũng như tôi không ưa cậu. Cậu ta làm tình làm tội tôi, bắt tôi ngày ba lần đánh giày cho cậu. Khi nằm ngủ trên gác lửng, cậu dịch mấy tấm ván ra và nhổ nước bọt qua kẽ hở, cố làm sao cho rơi trúng đầu tôi.
Hẳn là muốn bắt chước người anh luôn nói câu “đồ quỷ”, cậu Viktor cũng hay “nói chữ”, nhưng tất cả những câu cậu nói đều lố bịch và vô nghĩa một cách kì lạ.
- Mẹ ơi, “đằng sau… quay bên phải!” Đôi tất của con đâu rồi?
Cậu truy tôi bằng những câu hỏi ngu xuẩn:
- Alyosha[33], mày thử trả lời xem tại sao viết là “màu xanh” mà lại nói là “mầu xanh”? Tại sao người ta nói “cái chuông” mà không nói “cái boong”? Tại sao nói “đến cái cây”, mà không nói “đến con cây”?
Tôi không thích nghe cách ăn nói như vậy. Được giáo dục bằng thứ ngôn ngữ bóng bẩy của ông bà ngoại, khi ở đây, thoạt đầu tôi không hiểu được những tiếng vốn không thể ghép với nhau được như: “buồn cười kinh khủng”, “muốn ăn đến chết được”, “vui khiếp”. Tôi có cảm tưởng rằng cái mà đã buồn cười thì không thể nào lại kinh khủng, đã vui thì không khiếp, và mọi người đều ăn uống cho đến tận khi chết cơ mà.
Tôi hỏi họ:
- Chẳng lẽ lại có thể nói như vậy được sao?
Họ chửi tôi:
- Ra cái điều ông giáo lắm! Thử ngắt hai tai mày xem thử…
Nhưng chữ “ngắt tai” đối với tôi cũng lại sai nốt: Người ta chỉ có thể ngắt cỏ, ngắt hoa, ngắt quả hồ đào…
Họ cố gắng chứng minh cho tôi rằng tai cũng có thể ngắt được, nhưng điều đó không thuyết phục được tôi. Tôi nói, vẻ đắc thắng:
- Dầu sao thì tai cũng không thể dứt rời ra được!
Xung quanh tôi toàn trò đểu giả tàn nhẫn, những cảnh trơ trẽn bẩn thỉu, nhiều vô kể, nhiều hơn ở những con phố của Kunavino, nơi có vô số “nhà thổ” và “gái điếm”. Tại Kunavino, phía sau mấy trò bẩn thỉu và đểu giả, người ta còn cảm thấy có một cái gì có thể giải thích cho tính tất yếu của các trò bẩn thỉu và đểu giả ấy: đời sống khó khăn, đói khát, công việc nặng nề. Còn ở đây, người ta sống no đủ, dễ dàng. Quang cảnh lao động không hỗn độn, tất tả ngược xuôi. Mọi thứ đều chứa đựng vẻ chán ngắt hết sức bực bội.
Tôi sống rất khổ, nhưng tôi còn khổ tâm hơn khi bà ngoại đến thăm. Bà đi từ cửa sau vào bếp, làm dấu trước tượng thánh rồi cúi mình chào em gái. Cái chào đó như một gánh nặng hàng tấn[34] đè lên tôi, làm tôi nghẹt thở.
- À, chị Akulina đấy à! – Bà chủ tiếp bà tôi với vẻ lạnh nhạt và khinh bạc.
Tôi không nhận ra bà tôi nữa: Môi bà mím lại một cách khiêm tốn, gương mặt bà thay đổi trông xa lạ hẳn, bà khẽ ngồi xuống cái ghế dài gần cửa ra vào, ngay bên cạnh chậu nước rác, lặng yên như kẻ có lỗi. Bà ngoan ngoãn và nhỏ nhẻ trả lời các câu hỏi của em gái.
Điều đó làm tôi đau đớn. Tôi tức giận:
- Sao bà lại ngồi ở đấy?
Âu yếm nháy tôi, bà đáp, vẻ quở trách:
- Cháu im đi, cháu không phải là chủ ở đây!
- Nó luôn luôn xen vào việc của người khác, dù có đánh, có chửi nó cũng vậy. – Bà chủ bắt đầu than vãn.
Bà ta thường hỏi bà tôi, vẻ ác ý:
- Thế nào, Akulina, chị vẫn sống như ăn mày vậy à?
- Rõ thật khốn khổ…
- Ai cũng thế, nếu không biết xấu hổ thì cũng chẳng khổ đâu.
- Người ta nói rằng Chúa Jesus cũng đã sống bằng của bố thí…
- Cái mụ già ngốc này, chị lại đi nghe bọn ngu độn, bọn vô đạo nói thế à? Chúa Jesus không phải là kẻ ăn xin mà là con Đức Chúa Trời. Người ta nói rằng Chúa sẽ đến giữa muôn hào quang, xét xử người đang sống và đã chết – cả người chết nữa, chị hãy nhớ lấy điều đó! Không thể nào trốn nổi Chúa đâu, bà chị ạ, dù đã thành tro bụi cũng không thoát… Chúa đã trả thù chị với anh Vassili vì tính kiêu ngạo của các người, và trả thù cho tôi nữa, vì đã có lần tôi đến cầu xin anh chị lúc anh chị giàu có…
- Tôi cũng đã giúp đỡ dì trong mức độ có thể. – Bà tôi thờ ơ đáp. – Mà dì cũng biết Chúa đã trừng phạt chúng tôi…
- Còn ít lắm, còn ít…
Bà dì còn đay nghiến, xói móc bà tôi rất lâu. Tôi nghe những tiếng rít độc ác của bà ta mà buồn bã thắc mắc: Sao bà tôi lại có thể chịu đựng được điều đó? Và tôi thấy không ưa bà tôi trong những giờ phút này.
Mợ chủ từ trong phòng đi ra, thân thiện gật đầu chào bà tôi.
- Mời bác vào phòng ăn. Không sao, cứ vào thôi!
Bà dì còn kêu với theo bà tôi:
- Chùi chân đi, bà nhà quê nhá!
Cậu chủ vui vẻ đón chào:
- A, bác Akulina đấy à? Bác có khỏe không? Cụ Kashmirin nhà ta còn sống chứ?
Bà tôi mỉm cười, nụ cười biểu lộ tất cả tâm hồn của bà.
- Cháu vẫn phải làm việc còm cọm suốt ngày đấy à?
- Vâng. Cháu vẫn phải làm việc suốt ngày, y như một tên khổ sai!
Bà tôi âu yếm và thân mật trò chuyện với cậu nhưng với thái độ của người trên. Đôi lần cậu nhắc đến mẹ tôi:
- Kiếm đâu ra được một người đàn bà khỏe như chị Varvara Vassilievna nữa?
Vợ cậu quay lại phía bà tôi, nói xen vào:
- Bà còn nhớ cháu tặng chị ấy chiếc áo dài lụa đen có đính hạt cườm chứ?
- Nhớ…
- Chiếc áo ấy còn tốt lắm…
- Ừ hừ… – Cậu chủ lẩm bẩm. – Áo với hạt, đời là lường gạt.
- Anh nói cái gì đấy? – Người vợ hỏi chồng, vẻ nghi ngờ.
- Anh ấy à? Có gì đâu… Những ngày tươi đẹp trôi qua, những người tốt đẹp cũng không còn nữa…
- Em không hiểu anh nói điều đó để làm gì? – Mợ chủ băn khoăn.
Sau đó họ dẫn bà tôi đến thăm đứa bé mới sinh. Tôi dọn ấm chén bẩn trên bàn. Cậu chủ khẽ nói với tôi, vẻ trầm ngâm:
- Bà mày là một bà cụ rất tốt…
Tôi vô cùng biết ơn cậu vì những lời đó. Khi còn riêng hai bà cháu với nhau, tôi xót xa hỏi bà:
- Sao bà lại đến đây làm gì? Đến để làm gì cơ chứ? Bà còn không biết bọn họ như vậy hay sao…
- Chao ôi, Alyosha, bà biết hết cả, cháu ạ! – Bà trả lời, nhìn tôi với nụ cười hiền hậu trên khuôn mặt kì diệu.
Tôi cảm thấy hổ thẹn: Phải rồi, tất nhiên là bà thấy tất cả, biết tất cả mọi việc, biết cả đến những điều tôi đang suy nghĩ trong đầu lúc này.
Cẩn thận nhìn quanh xem có ai đến không, bà ôm lấy tôi và thân mật nói:
- Nếu cháu không ở đây thì bà cũng chẳng đến đâu, bà có cần gì họ? Hơn nữa, ông lại ốm, bà phải chăm sóc ông nên không làm được việc gì, tiền thì không có… Cậu Mikhail thì đuổi thằng Sascha đi, cũng phải nuôi nấng nó chứ. Ở đây họ hứa sẽ trả cho cháu sáu rúp một năm, thế là bà mới nghĩ bụng: May ra họ có thể đưa cho mình một rúp chăng? Cháu ở đây đã gần nửa năm rồi còn gì nữa… – Và bà ghé vào tai tôi thì thầm. – Họ bảo bà phải quở mắng, phải chửi cho cháu một trận, họ nói rằng cháu chẳng chịu nghe ai cả. Cháu yêu của bà ạ, cháu cứ sống ở đây với họ, chịu đựng độ hai năm nữa, chờ đến khi cứng cáp đã. Cháu cố chịu đựng chứ?
Tôi hứa sẽ chịu đựng. Điều đó thật là khó khăn. Cuộc sống cơ cực, tẻ ngắt, chạy ngược chạy xuôi chỉ vì miếng ăn này đè nặng lên tôi, khiến tôi có cảm giác như sống trong một cơn mộng vậy.
Đôi lúc tôi nghĩ bụng: “Phải trốn đi nơi khác!” Nhưng mùa đông đáng nguyền rủa đã đến. Đêm đêm, bão tuyết rít lên, gió rú trên gác thượng, những kèo nhà bị giá lạnh làm co lại, kêu răng rắc. Còn biết chạy trốn đi đâu bây giờ?…
* * *
Người ta không cho tôi đi chơi, nhưng tôi cũng chẳng có thì giờ mà đi chơi nữa: Ngày đông ngắn ngủi tiêu tan một cách nhanh chóng không ngờ vì những công việc nhà bận rộn.
Nhưng tôi được đi nhà thờ: Thứ Bảy đi chầu, và ngày hội đi dự lễ cuối.
Tôi thích có mặt ở nhà thờ. Tôi thích đứng trong một góc rộng và tối hơn các chỗ khác, nhìn từ xa lại phía bức tường có hình các thánh. Dưới những ngọn lửa nến, bức tường như chảy ra, tuôn từng dòng suối vàng óng đặc chảy xuống nền đá xám của giảng đài trên giáo đường. Các tượng thánh màu sẫm nhẹ nhàng lay động. Diềm mạ vàng của các vòm cửa thánh đường rung rinh vui vẻ. Những ngọn lửa nến lửng lơ trong không khí xanh nhạt như những chú ong vàng, còn mái đầu của các bà các cô thì giống như những đóa hoa.
Mọi vật xung quanh như hòa nhịp với tiếng đồng ca. Tất cả như đang sống trong một thế giới thần tiên kì lạ. Nhà thờ chậm chạp đu đưa như một chiếc nôi, chao đi chao lại trong khoảng không đen tối dày đặc như nhựa.
Đôi lúc, tôi có cảm giác như khu nhà thờ bị chìm sâu xuống đáy một cái hồ. Nó trốn khỏi mặt đất để sống một cuộc đời lập dị, không giống một cuộc đời nào khác. Có lẽ cảm giác đó được gây nên do câu chuyện về thành phố Kitezh mà bà tôi đã kể. Tôi thường mơ mơ màng màng lắc lư cùng mọi vật xung quanh, chập chờn ngủ trong tiếng ru của bài hợp xướng, tiếng cầu nguyện rì rầm, tiếng thở dài của những người dự lễ và lẩm nhẩm một mình câu chuyện buồn bã và êm ái:
Quân Tarta binh hùng tướng dữ,
Kéo nhau đi gươm giáo rợp đường,
Tới vây thành Kitezh vinh quang,
Vào buổi sáng đang trong giờ lễ…
Ôi! Lạy Chúa! Vinh quang thay Đức Mẹ!
Xin chở che cho nô lệ của Người,
Cho chúng con được dự lễ ban mai,
Được nghe xong những lời Chúa dạy!
Xin hãy ngăn đừng cho quân giặc tới,
Bọn Tarta sẽ nhạo báng nhà thờ,
Con gái, đàn bà sẽ bị chúng làm nhơ,
Lũ trẻ con là trò đùa cho chúng,
Các cụ già chúng sẽ đem chôn sống!
Lời kêu van của đám dân hiền,
Lời cầu xin của những con chiên,
Đã lọt tới Đức Chúa Savaof,
Tới Đức Mẹ trên cao chót vót.
Chúa bèn truyền cho thánh Mikhailo:
- Hãy tới vùng Kitezh của ta,
Làm rung chuyển đất đai ở đó,
Cho thành phố chìm sâu dưới hồ nọ,
Để con chiên được sống tự do,
Không nghỉ ngơi, không mỏi mệt, buồn lo,
Sáng đến khuya chúng yên tâm cầu nguyện,
Dưới đáy hồ đời đời vĩnh viễn!…
Hồi đó, tâm hồn tôi chứa đầy những vần thơ của bà như một tổ ong đầy ắp mật. Hình như tôi nghĩ cũng bằng những vần thơ ấy.
Tôi không cầu nguyện trong nhà thờ. Nhắc lại những lời cầu nguyện bực bội của ông và những câu não nuột trong Thánh thi trước mặt Chúa của bà thật là một điều khó xử. Tôi tin chắc rằng Chúa của bà cũng như tôi, không thể thích những cái đó được. Hơn nữa, những câu cầu nguyện ấy đều đã được in trong sách, có nghĩa là Chúa, cũng như những người có học, đã thuộc lòng chúng rồi.
Vì thế nên ở nhà thờ, vào những phút mà tim tôi thắt lại bởi một mối buồn dịu dàng man mác, hoặc bị những điều tủi nhục nhỏ nhen trong ngày giày vò, cắn rứt, tôi cố sáng tác những lời cầu nguyện. Tôi chỉ cần nghĩ đến số phận buồn tủi của mình là những câu chữ tự nhiên sắp xếp thành lời than thở một cách dễ dàng:
Chúa ơi! Chúa ơi! Con buồn quá!
Làm sao mà chóng lớn được lên!
Cuộc sống này không chịu được nữa,
Dù con tự tử – Chúa đừng phiền!
Học hành chẳng được cái gì cả,
Bà Matryona như quỷ dữ,
Như con chó sói cứ gầm gừ,
Cuộc sống thế này – ôi khổ quá!
Nhiều lời “cầu nguyện” của tôi cho đến ngày hôm nay tôi vẫn còn nhớ. Hoạt động trí não của tuổi thơ thường hằn thành những vết sâu trong tâm hồn, đôi khi suốt đời không quên.
Trong nhà thờ thật dễ chịu. Ở đấy tôi thấy thoải mái như ở trong rừng hay ngoài đồng ruộng. Trái tim nhỏ bé của bà tôi đã quen thuộc với những điều tủi nhục và bị bùn lầy của cuộc đời làm hoen ố, tự gột rửa bằng những nguồn ước mơ sôi nổi, không rõ rệt.
Nhưng tôi chỉ được thấy nhà thờ trong những ngày thật giá lạnh hoặc vào khi bão tuyết lồng lộn điên cuồng ngoài phố, khi mà bầu trời như đông cứng lại và bị gió phá vụn thành từng đám mây tuyết, còn mặt đất thì rét cóng dưới những đống tuyết lớn, không bao giờ hồi sinh, tươi vui lại được.
Vào những đêm tĩnh mịch, tôi thích lang thang trong thành phố hơn cả. Từ phố này sang phố khác, tôi đi sâu vào các ngóc ngách thanh vắng nhất. Có lúc, tâm hồn như được chắp cánh bay bổng, tôi bước một mình như vừng trăng giữa bầu trời, bóng tôi bò đi trước, làm tắt ngấm những đốm sáng óng ánh trên tuyết, rồi leo lên cột hay hàng rào, biến dạng một cách tức cười. Người tuần đêm đi giữa đường, mặc cái áo da nặng, tay cầm mõ. Bên cạnh lão, con chó run rẩy chạy theo.
Con người kì dị đó trông giống một cái ổ chó trốn khỏi sân và chạy rong trên phố với một con chó run rẩy lẽo đẽo theo sau.
Đôi khi, gặp mấy cô tiểu thư và vài chàng công tử nói cười vui vẻ, tôi nghĩ bụng họ cũng đã bỏ buổi cầu nguyện.
Thỉnh thoảng, qua các cửa con thông hơi trên những ô cửa sổ sáng ánh đèn, thoảng đến mùi thơm dìu dịu, xa lạ, gợi lên một cuộc sống khác mà tôi chưa từng biết. Tôi đứng dưới cửa sổ, hít hít, lắng nghe, cố đoán xem cuộc sống ở đây như thế nào, những người sống trong nhà này là ai? Đang giờ nguyện mà họ vẫn ầm ĩ, vui vẻ cười đùa. Họ chơi một loại đàn ghi ta đặc biệt, tiếng dây đồng âm vang trào qua các ô cửa sổ thông hơi.
Tôi đặc biệt chú ý tới ngôi nhà một tầng thấp nhỏ ở góc hai khu phố vắng người, phố Tikhonov và phố Martinov. Tôi phát hiện ra nó vào một đêm trăng trong tiết trời đông ấm áp, trước ngày hội hóa trang. Một âm thanh kì lạ cùng với hơi ấm tuôn ra phố qua lỗ thông hơi hình vuông của cửa sổ, tựa hồ như có người nào rất khỏe và hiền hậu vừa hát vừa che miệng; lời hát nghe không rõ, nhưng tôi thấy bài hát quen thuộc và dễ hiểu một cách lạ thường, mặc dù có tiếng đàn ngắt quãng tiếng ca, nghe rất bực. Tôi vừa ngồi trên trụ cửa, vừa nghĩ bụng rằng người ta đang chơi một cây đàn vĩ cầm có sức mạnh huyền diệu, vì nghe tiếng vĩ cầm đó tôi thấy đau nhói trong lòng. Đôi khi tiếng đàn vang lên mạnh quá khiến cả ngôi nhà tựa hồ rung chuyển, kính cửa ngân theo. Nước nhỏ giọt từ mái nhà và mắt tôi cũng nhỏ lệ.
Một người tuần đêm đến sau tôi từ lúc nào không biết. Bác ta lôi tôi khỏi trụ cửa và hỏi:
- Mày quẩn quanh ở đây làm gì?
- Nghe nhạc. – Tôi giải thích.
- Không được! Cút ngay…
Tôi chạy rất nhanh vòng quanh cả khu phố rồi lại trở về dưới ô cửa sổ. Nhưng trong nhà đã ngừng tiếng đàn. Âm thanh ồn ào náo nhiệt tuôn mạnh qua lỗ thông hơi ra ngoài phố khác hẳn, khiến tôi tưởng như vừa được nghe tiếng nhạc ảo não trong mơ.
Hầu như thứ Bảy nào tôi cũng chạy lại ngôi nhà đó. Nhưng chỉ có một lần vào mùa xuân tôi mới lại được nghe tiếng vĩ cầm. Tiếng đàn liên tục ngân vang đến tận nửa đêm; khi mò về nhà, tôi bị một trận đòn nên thân.
Những cuộc dạo chơi ban đêm dưới vòm trời sao mùa đông giữa phố xá thanh vắng giúp tâm hồn tôi thêm phong phú. Tôi cố ý chọn những phố xa trung tâm, vì ở các phố trung tâm rất nhiều đèn, những người quen của nhà chủ có thể trông thấy tôi, và như thế thì chủ nhà sẽ biết là tôi trốn buổi cầu nguyện đi chơi. Rồi những người say, cảnh sát và gái làng chơi lại làm rầy tôi nữa. Ở các phố xa, tôi có thể nhìn qua các ô cửa sổ tầng dưới nếu chúng không bị băng đóng hay bị rèm che.
Những ô cửa sổ đó đã mở ra cho tôi nhiều bức tranh khác nhau. Tôi thấy người ta cầu nguyện, hôn nhau, đánh nhau, chơi bài, chuyện trò thì thào với vẻ lo âu. Trước mắt tôi diễn ra một cuộc sống câm lặng của loài cá, giống trong máy chiếu ảnh giá xem một kopek.
Trong một tầng hầm, tôi thấy hai người phụ nữ ngồi sau bàn, một cô còn trẻ, một cô lớn tuổi hơn. Ngồi đối diện họ là một học sinh trung học tóc dài, tay vung vẩy, đang đọc cho họ nghe một quyển truyện. Cô trẻ lắng nghe, lông mày nhíu lại một cách khắc khổ, người ngả trên ghế. Cô nhiều tuổi hơn người thanh mảnh, tóc bồng, bỗng dưng lấy bàn tay che mặt, hai vai rung lên. Cậu học sinh quẳng quyển sách lên bàn, và khi cô trẻ vùng dậy bỏ chạy thì cậu ta quỳ ngay xuống trước cô tóc bồng và hôn tay cô ta.
Trong một cửa sổ khác, tôi nhìn trộm thấy một người rậm râu đang bế một người đàn bà mặc áo cánh đỏ đặt lên đùi mình. Ông ta đung đưa người đàn bà ấy như ru một đứa bé, và có lẽ đang hát thì phải, miệng há rộng, mắt long lanh. Người đàn bà cười rung cả người, lưng ưỡn ra. Ông này dựng bà ta dậy và lại hát. Người đàn bà cười rũ. Tôi nhìn họ hồi lâu và bỏ đi sau khi biết họ định vui đùa như thế suốt đêm.
Nhiều cảnh tượng tương tự còn đọng mãi trong tâm trí tôi. Nhiều khi, quá say sưa với chúng, tôi về nhà rất muộn khiến nhà chủ đâm nghi ngờ và tra hỏi tôi:
- Mày đi nhà thờ nào? Cố đạo nào làm lễ?
Họ biết tất cả các cố đạo trong thành phố, họ biết rõ khi nào thì giảng đến phần nào trong Thánh kinh. Họ biết tất cả nên dễ lột trần được những câu nói dối của tôi.
Cả hai người đàn bà đều thờ vị ác Chúa của ông tôi, vị Chúa hay bắt người ta phải sợ hãi trước mình. Tên của vị Chúa ấy luôn nằm trên miệng các bà, thậm chí, khi cãi cọ họ cũng dọa nhau:
- Rồi mà xem! Chúa sẽ trừng trị mày. Chúa sẽ làm cho mày điêu đứng, con đê tiện kia!…
Một ngày Chủ nhật của tuần chay đầu tiên, bà già rán bánh bột bị cháy; mặt đỏ bừng vì lửa, bà giận quá kêu lên:
- A, quỷ bắt chúng mày đi…
Và bỗng nhiên bà ngửi ngửi cái chảo. Mặt sa sầm, bà quăng cái chảo xuống sàn, tru tréo:
- Cha mẹ ơi! Chảo có mùi mỡ, ô uế cả rồi! Lạy Chúa, con chưa đốt chảo trong ngày đầu của tuần chay rồi…
Bà quỳ xuống, nghẹn ngào van xin:
- Lạy Chúa, xin Chúa lòng lành tha tội cho con, cho con mụ đáng nguyền rủa này! Xin Chúa đừng trừng phạt con mụ già ngu ngốc này…
Bánh bột cháy được quẳng cho chó ăn, cái chảo được đốt, còn người con dâu thì trách mẹ chồng trong lúc cãi nhau:
- Đến tuần chay mà mẹ còn rán bánh bằng cái chảo uế tạp ấy ư…
Họ lôi Chúa của họ vào mọi công việc trong nhà, vào mọi ngóc ngách của cuộc sống nhỏ nhen, nhờ đó mà cuộc sống nghèo nàn được khoác ý nghĩa lớn lao và quan trọng, có vẻ như được phục vụ cho một sức mạnh cao cả từng giờ từng phút. Việc họ lôi Chúa vào các công việc vụn vặt chán ngắt đè nặng lên tâm hồn tôi, khiến tôi tự nhiên cứ phải nhìn quanh quẩn vào các góc nhà, cảm thấy như mình dưới quyền kiểm soát vô hình của người nào đó. Đêm đêm, nỗi lo sợ quấn lấy tôi như một đám mây lạnh toát: Nó đến từ góc bếp – chỗ có ngọn đèn thờ cháy suốt ngày đêm trước những tượng thánh đen sẫm.
Cạnh giá gỗ trên tường là một ô cửa sổ lớn, hai khung cửa bị một cột chống cắt đôi. Một khoảng không gian trống rỗng xanh thẳm lọt qua cửa sổ. Tựa như cả khu nhà, căn bếp và tôi đều treo lửng lơ bên rìa khoảng trống đó. Chỉ cần cử động mạnh là tất cả sẽ tuột xuống một cái hố xanh lạnh lẽo rồi bay đi, lướt qua các vì sao, vào một khoảng không lặng lẽ không tiếng động, như một hòn đá chìm nghỉm khi bị ném xuống nước. Tôi nằm yên rất lâu, sợ không dám trở mình và chờ đợi cái kết kinh khủng của đời tôi.
Không nhớ tôi đã chữa khỏi nỗi sợ hãi đó thế nào, nhưng nó qua đi rất nhanh. Lẽ dĩ nhiên, trong việc đó vị Chúa nhân từ của bà tôi đã giúp đỡ tôi. Tôi nghĩ rằng khi ấy tôi đã cảm thấy cái chân lí đơn giản: Mình chưa làm điều gì xấu. Không có luật lệ nào có thể trừng phạt tôi nếu tôi không có lỗi. Còn với những tội lỗi của kẻ khác, tôi không cần chịu trách nhiệm.
Tôi cũng bỏ những buổi lễ sáng để đi chơi. Nhất là vào mùa xuân, một sức mạnh không gì ngăn cản nổi nhất định không cho tôi đến