Chương 5
Dầu sao, đến mùa xuân tôi liền trốn khỏi nơi ấy[38]. Một buổi sáng, tôi tới hiệu mua bánh mì về uống trà sáng. Người chủ hiệu đang cãi nhau với vợ; anh ta lấy quả cân nện vào trán chị. Chị vợ chạy ra phố, ngã lăn ra. Lập tức mọi người xúm lại. Người ta đặt chị lên một chiếc xe ngựa bốn bánh và đưa đến bệnh viện. Tôi chạy theo sau xe rồi sau đó không biết thế nào lại lạc đến tận bờ sông Volga với đồng hai mươi kopek trong tay.
Ngày xuân dịu dàng ngời sáng. Nước sông Volga tràn ngập mênh mông. Trên mặt đất, không gian tràn ngập vẻ nhộn nhịp, phóng khoáng. Thế mà cho đến tận hôm đó tôi vẫn sống như một con chuột nhắt dưới hầm nhà. Tôi quyết định không quay về nhà chủ và cũng không về xóm Kunavino tìm bà ngoại – tôi ngượng không muốn gặp bà vì đã không giữ lời hứa, còn ông ngoại sẽ đắc chí với nỗi tủi hổ của tôi.
Tôi lang thang suốt hai ba ngày trên bờ sông, ăn uống cạnh những phu khuân vác hiền lành giản dị, ngủ với họ trên các bến tàu. Sau đó, một người trong bọn họ nói với tôi:
- Này chú bé, tớ thấy chú lang thang ở đây thật là vô ích. Hãy lại tàu “Dobry”[39] xem, ở đó người ta đang cần người rửa bát đĩa đấy…
Tôi đến tàu. Người chủ tiệm ăn cao lớn, râu ria xồm xoàm, đội chiếc mũ lụa đen không vành, nhìn tôi qua cặp kính bằng đôi mắt mờ đục và khẽ nói:
- Hai rúp một tháng. Giấy thông hành đâu?
Tôi không có giấy thông hành. Người chủ tiệm suy nghĩ rồi bảo:
- Dẫn mẹ mày tới đây.
Tôi chạy về. gặp bà ngoại. Bà tán thành hành động của tôi và dụ ông đến sở thủ công nghiệp xin giấy thông hành cho tôi, còn bà thì thân chinh đi với tôi xuống tàu thủy.
- Được. – Chủ tiệm nhìn chúng tôi rồi nói. – Chúng ta xuống dưới này.
Ông ta dẫn tôi ra sau lái. Ở đấy có một đầu bếp phục phịch mặc áo cánh trắng, đội mũ chụp trắng ngồi sau chiếc bàn con, vừa uống trà vừa hút một điếu thuốc to tướng. Người chủ tiệm đẩy tôi lại phía bác đầu bếp:
- Đứa rửa bát đĩa đây!
Rồi ông ta bỏ đi thẳng. Bác đầu bếp thở phì phì, vểnh bộ ria mép đen lên, nói với theo người chủ tiệm:
- Mướn về đây đủ thứ quỷ sứ, cốt rẻ mà…
Cáu kỉnh ngẩng cái đầu to với bộ tóc đen cắt ngắn, bác trợn tròn cặp mắt đen thẫm, vươn vai, phùng má, làm ra vẻ quan trọng, quát oang oang:
- Mày là thằng nào?
Tôi rất không ưa con người ấy. Tuy mặc toàn đồ trắng, bác ta vẫn có vẻ nhem nhuốc, lông mọc đầy ngón tay và tua tủa trong hai lỗ tai to.
- Cháu đói quá. – Tôi bảo bác.
Bác nheo mắt, và bỗng nhiên một nụ cười rộng làm thay đổi hẳn bộ mặt hung dữ; đôi má đầy đặn, đỏ tía như những làn sóng chạy đến tận mang tai, để lộ ra mấy cái răng to như răng ngựa; bộ ria mép mềm mại buông thõng; bác bỗng giống như một người đàn bà hiền lành, béo phục phịch.
Hắt chỗ nước trà còn lại trong cốc qua thành tàu, bác rót cho tôi cốc mới, rồi đẩy về phía tôi một chiếc bánh mì trắng kiểu Pháp còn nguyên và một khúc xúc xích to.
- Chén đi! Có cha mẹ không? Có biết ăn cắp không? Không sao, đừng sợ. Ở đây toàn một lũ trộm cắp cả, chúng nó sẽ dạy mày!
Bác ta nói như sủa. Khuôn mặt bác to lớn, vùng da quanh mũi được cạo nhẵn xanh, chằng chịt những mạch máu đỏ; cái mũi đỏ hồng nhòm bộ ria; môi dưới của bác trề ra, vẻ nặng nề và khinh miệt. Điếu thuốc dính chặt bên mép đang bốc khói. Có lẽ bác mới từ nhà tắm ra – người bác còn thoảng mùi cành bạch dương[40] và lá ớt. Thái dương và cổ bác đầm đìa những giọt mồ hôi lóng lánh.
Khi tôi uống trà xong, bác dúi cho tôi tờ giấy bạc một rúp.
- Đi mua lấy hai cái tạp dề có yếm che mà mặc. Hượm, để tao mua cho cũng được!
Bác sửa lại mũ chụp rồi đi ra, người lắc lư nặng nề, chân dò dẫm trên boong tàu như một con gấu.
… Trời về đêm. Mặt trăng sáng rực rỡ lướt qua con tàu sang cánh đồng cỏ ở mạn trái. Con tàu cũ kĩ màu gạch, có một viền trắng trên ống khói, thong thả và giậm giật đập cánh quạt vào làn nước bạc. Hai bờ sông đen ngòm lặng lẽ trôi về phía con tàu, in bóng xuống mặt sóng. Trên bờ, cửa sổ mấy căn nhà gỗ tỏa ánh sáng màu đỏ quành quạch. Trong làng vang lên những tiếng hát: Đó là các cô thôn nữ đang ca múa, điệp khúc “Aie Ludi” vang đến tai tôi nghe như khúc “Aliluya”[41].
Một chiếc sà lan cũng màu gạch được kéo bằng sợi dây cáp dài trôi theo sau tàu thủy. Boong sà lan quây bằng hàng rào sắt. Trong chiếc lồng sắt đó là những tù nhân bị đi đày hay tù khổ sai. Ở mũi sà lan, lưỡi lê của người lính canh sáng loáng như một ngọn nến. Không khí yên lặng bao trùm. Ánh trăng tràn ngập. Những đốm tròn xám hiện lờ mờ sau dãy hàng rào sắt đen ngòm – đó là những người tù đang nhìn dòng Volga. Nước sông nức lên, không hiểu nó đang khóc hay đang cười gượng gạo. Cảnh vật xung quanh trang nghiêm như không khí trong nhà thờ, mùi dầu mỡ xông lên cũng nồng nặc như ở nhà thờ vậy.
Tôi nhìn chiếc sà lan và hồi tưởng lại khi còn bé, nhớ đến đoạn đường từ Astrakhan đến Nizhny, nhớ bộ mặt đanh thép của mẹ, nhớ bà – người đã dìu dẫn tôi vào cuộc đời tuy khó khăn nhưng đầy thú vị này[42]. Và khi nghĩ đến bà, tất cả những điều xấu xa, tủi nhục như tan biến, như khác hẳn, mọi vật lại trở nên thú vị, dễ chịu hơn, mọi người trở nên tốt hơn, đáng yêu hơn…
Tôi xúc động, muốn òa khóc trước cảnh đẹp ban đêm và cả trước chiếc sà lan kia, nó trông giống quan tài, thừa thãi trong khoảng không gian lồng lộng trên dòng sông mênh mông, trong bầu không khí thanh bình huyền ảo của trời đêm ấm áp. Những đường nét nhấp nhô của bờ sông, khi lên, khi xuống, làm trái tim tôi bồi hồi một cách dễ chịu. Tôi muốn trở thành một người tốt, có ích cho tất cả mọi người.
Hành khách trên chuyến tàu của chúng tôi thật đặc biệt. Tất cả – già, trẻ, đàn ông, đàn bà – tôi thấy hình như giống nhau hết. Tàu đi chầm chậm. Những người vội công việc thường đi tàu chở thư; còn tàu của chúng tôi chỉ thu hút các loại vô công rồi nghề. Từ sáng đến chiều họ ăn, uống, dây bẩn hàng đống bát đĩa, dao, dĩa, thìa. Công việc của tôi là rửa bát đĩa, lau dĩa và dao. Tôi làm các việc đó từ sáu giờ sáng đến tận nửa đêm. Ban ngày, khoảng từ hai giờ đến sáu giờ, và buổi tối, từ mười giờ đến nửa đêm, công việc của tôi nhẹ nhàng hơn: Trong giờ nghỉ sau các bữa ăn, hành khách thường chỉ uống trà, bia và rượu. Trong những giờ đó, tất cả nhân viên phục vụ trong tiệm – những kẻ phụ trách tôi – đều được rỗi rãi. Bác đầu bếp Smouri, bác phụ bếp Yaakov Ivanovich, anh rửa bát Maksim và gã hầu bàn Sergei gù lưng có bộ mặt sần sùi nốt đậu, gò má dô ra, cặp mắt dâm đãng, chuyên phục vụ hành khách trên boong. Tất cả ngồi với nhau quanh chiếc bàn gần cửa ra vào, cùng uống trà. Bác Yaakov Ivanovich vừa kể mấy câu chuyện đểu giả vừa cười hô hố, để lộ mấy cái răng sâu xanh nhợt. Sergei thì toác cái miệng nhái rộng đến tận mang tai. Maksim rầu rĩ ngồi lặng thinh nhìn mọi người bằng cặp mắt nghiêm khắc không rõ màu.
- Lũ châu Á! Bọn Moldova[43]! – Thỉnh thoảng bác đầu bếp thốt lên, giọng ồm ồm.
Tôi chẳng ưa bọn người đó tí nào. Bác Yaakov Ivanovich to béo, hói đầu, chỉ toàn nói chuyện về đàn bà một cách bẩn thỉu. Bộ mặt bác ta phèn phẹt, điểm những nốt tím bầm. Một bên má có cái nốt ruồi với đám lông đỏ hoe mà bác xoắn nhọn lại như một cái kim. Khi có mụ hành khách nào điệu bộ suồng sã, dễ tính lên tàu, bác quẩn quanh bên mụ ta với vẻ rụt rè, nhút nhát như một kẻ hành khất. Bác nói với mụ ta bằng giọng ngọt ngào và rầu rĩ; nước bọt sùi ra cả môi, thỉnh thoảng bác lại lia nhanh cái lưỡi ghê tởm ra quét nước bọt. Không hiểu sao tôi cứ có cảm giác rằng mấy tên đao phủ cũng đều phì nộn như vậy cả.
- Phải biết cách kích thích bọn đàn bà mới được. – Bác ta dạy Sergei và Maksim.
Bọn này phồng má, đỏ mặt, chăm chú nghe bác ta nói.
- Đồ châu Á. – Bác Smouri khàn khàn nói ra vẻ kinh tởm rồi nặng nề đứng dậy, ra lệnh cho tôi. – Peskov, đi thôi!
Về buồng riêng, bác vứt cho tôi một quyển sách nhỏ bìa da rồi nằm dài lên cái giường kê áp vách buồng ướp lạnh.
- Đọc đi!
Tôi ngồi lên một thùng mì ống và đọc rất tận tâm:
“Umbracul, sặc sỡ những tinh cầu, có nghĩa là kết nối hòa hợp với vũ trụ, nhờ đó mà giải thoát mình khỏi bọn phàm tục và bọn phóng đãng”[44]…
Bác Smouri hút xong điếu thuốc, phào khói, càu nhàu:
- Đồ lạc đà! Viết với lách…
- “Để hở ngực trái chứng tỏ sự trinh bạch của lòng mình.”
- Ai để hở?
- Không thấy nói đến.
- Thế có nghĩa là đàn bà đấy… Hừ, bọn phóng đãng!
Bác nằm nhắm mắt, tay duỗi ra làm gối, điếu thuốc lá dính vào bên mép thong thả bốc khói. Bác đưa lưỡi sửa lại điếu thuốc, hít mạnh đến nỗi trong ngực bác có tiếng réo, gương mặt to lớn chìm trong khói thuốc. Đôi khi, tưởng bác đã ngủ, tôi ngừng đọc, ngắm nghía quyển sách đáng nguyền rủa ấy, nó làm tôi chán đến phát lợm.
Nhưng giọng bác vẫn khàn khàn:
- Đọc đi!
- “Venera trả lời: Hãy nhìn đây, anh Suvyerin đáng mến của tôi…”
- Syevyeverin chứ…
- Đây in là Suvyerin…
- Thế à? Khỉ thật! Ở cuối sách có thơ đấy, lướt qua xem nào…
Tôi lướt qua:
Bọn phàm tục tò mò muốn biết công việc của chúng ta,
Không bao giờ cặp mắt kém cỏi của các ngươi thấy được!
Và các ngươi cũng không thể biết chư huynh đã hát…
- Thôi! – Bác Smouri nói. – Đấy có phải là thơ đâu! Đưa quyển sách đây…
Bác giận dữ lật lật những trang giấy xanh dày rồi nhét quyển sách xuống dưới đệm.
- Lấy quyển khác xem…
Không may cho tôi, trong cái hòm đen bịt sắt của bác còn nhiều sách, đại loại: Những lời giáo huấn của Omir, Hồi kí pháo binh, Những bức thư của Lord Sydenham, Bàn về giống rệp nguy hại, phương pháp diệt trừ rệp có kèm theo chỉ dẫn. Nhiều quyển mất cả đầu lẫn đuôi. Thỉnh thoảng bác đầu bếp lại bắt tôi lục đống sách ra và đọc hết các tựa sách. Tôi đọc, còn bác thì bực tức càu nhàu:
- Đồ vô lại, viết với lách… Cứ như là đấm vào tai[45] mình ấy, chẳng hiểu ý nghĩa ra sao cả! Gervase à! Cái lão Gervase ấy, tao cần tới lão ta làm cái của nợ gì cơ chứ? Lại Umbracul?…
Những chữ kì quặc, những tên lạ tai in sâu vào trí nhớ tôi, ám ảnh tôi, rung rung ở đầu lưỡi tôi, khiến tôi cứ muốn nhắc đi nhắc lại chúng mãi, rồi may ra trong âm thanh có hé mở được ý nghĩa của chúng chăng? Trong khi đó thì phía ngoài cửa sổ, nước vẫn oàm oạp và róc rách không mệt mỏi. Thú biết bao nếu được chuồn ra đằng lái, nơi thủy thủ và thợ đốt lò quây quần giữa những kiện hàng và trấn lột hành khách bằng các quân bài, ca hát, kể những chuyện hấp dẫn! Thú biết bao khi ngồi bên cạnh họ, nghe những câu nói giản dị, dễ hiểu, nhìn lên bờ sông Kama, ngắm những cây thông thẳng như sợi dây đồng, trông những cánh đồng cỏ mà cơn lũ để lại các hồ nhỏ nom như những mảnh gương vỡ phản chiếu vòm trời xanh thẳm!
Con tàu của chúng tôi tách xa dần khỏi bờ. Trong bầu không khí lặng lẽ của một ngày mỏi mệt, tiếng chuông từ những gác chuông khuất đâu đó vẳng đến, nhắc nhớ cảnh thôn xóm và dân làng. Một con thuyền đánh cá tròng trành trên sóng như miếng vỏ bánh mì. Và đây, trên bờ hiện ra một thôn nhỏ, lũ trẻ vùng vẫy tắm dưới sông, một người nông dân mặc áo đỏ bước trên dải cát vàng. Từ sông trông lên, mọi vật đều có vẻ duyên dáng, nhỏ bé, sặc sỡ, ngộ nghĩnh như những món đồ chơi. Tôi muốn kêu vọng lên bờ và tới cả sà lan những câu nói thân ái, dịu dàng.
Chiếc sà lan màu gạch này rất lôi cuốn tôi. Tôi có thể ngồi liền hàng giờ nhìn nó rẽ sóng bằng cái mũi bèn bẹt. Con tàu lôi nó đi như lôi một con lợn. Thỉnh thoảng sợi dây cáp chùng, đập xuống mặt nước, rồi lại căng ra, ròng ròng những hạt nước và lôi mũi chiếc sà lan. Tôi rất muốn được thấy mặt những người bị nhốt như thú dữ trong cái lồng sắt đó. Đến Perm, khi người ta dẫn họ lên bờ, tôi len được đến cầu sà lan. Hàng chục bóng người xanh xám đi ngang mặt tôi, chân giậm thình thịch, vòng xích kêu loảng xoảng, lom khom dưới những chiếc bị nặng trĩu vai. Có đủ cả đàn bà, đàn ông, người già, người trẻ, kẻ đẹp, kẻ xấu. Họ giống những người bình thường, chỉ khác cách ăn mặc và râu ria cạo lam nham. Dĩ nhiên, họ là bọn kẻ cướp, nhưng bà ngoại đã kể cho tôi nghe biết bao nhiêu chuyện tốt lành về đám lục lâm.
Bác Smouri giống một tên hung đồ hơn ai hết. Bác bực bội nhìn cái sà lan và càu nhàu:
- Cầu trời đừng ban cho ta cái số phận như thế này!
Có một lần tôi hỏi bác:
- Bác thì nấu nướng, mà những kẻ khác thì giết người cướp của, sao lại thế nhỉ?
- Tao không nấu nướng mà chỉ chuẩn bị thức ăn thôi, bọn đàn bà mới nấu nướng. – Bác cười khẩy, rồi nghĩ một chút, bác thêm. – Người ta khác nhau ở mức độ ngu ngốc. Người này thông minh, người khác kém thông minh một chút, còn hạng người thứ ba thì ngốc hoàn toàn. Muốn trở nên thông minh hơn, phải đọc những cuốn sách đúng đắn – đó gọi là “ma thuật” hay cái gì ấy. Phải đọc tất cả các sách rồi mới tìm được những quyển đúng đắn…
Bác thường bảo tôi:
- Cháu cứ đọc đi! Nếu đọc cuốn sách một lần chưa hiểu thì đọc bảy lần, bảy lần vẫn chưa hiểu thì đọc mười hai lần…
Bác Smouri nói với mọi người trên tàu thủy, kể cả với tay chủ tiệm lầm lì, bằng giọng nhát gừng, môi dưới trề ra vẻ khinh miệt, ria mép vểnh lên. Bác nói như ném đá vào mọi người. Với tôi, bác đối xử dịu dàng và có vẻ chăm sóc, nhưng trong đó có cái gì khiến tôi sờ sợ. Đôi lúc tôi thấy bác cũng có vẻ điên dở như bà Matryona, em bà ngoại tôi.
Thỉnh thoảng bác lại bảo tôi:
- Khoan hãy đọc…
Và bác nằm thật lâu, mắt nhắm nghiền, mũi thở phì phò, cái bụng to tướng lúc lắc, những ngón tay lông lá rộp bỏng xếp trước ngực như người chết, động đậy tựa hồ đang đan một chiếc bít tất vô hình bằng những que đan vô hình.
Đột nhiên bác làu bàu:
- Hừ! Đấy, trời phú cho mày trí tuệ đấy, đi mà sống với nó! Nhưng trí tuệ mà trời phú cho ấy thật ít ỏi và có đều đâu. Giá như mọi người đều có trí tuệ như nhau, nhưng đâu có được… Người này hiểu, kẻ khác không hiểu, và cũng có những đứa lại chẳng muốn hiểu gì tuốt. Thế đấy!
Ngắc ngứ từng câu, bác kể những mẩu chuyện trong đời đi lính của bác. Tôi không sao nắm được ý nghĩa của những mẩu chuyện ấy vì tôi thấy chúng không lí thú lắm, hơn nữa bác lại không kể từ đầu, chỉ nhớ đâu nói đấy.
- Trung đoàn trưởng liền gọi tên lính này đến và hỏi: “Trung úy đã nói với mày những gì?” Lính có nhiệm vụ phải trả lời cho thật đúng, thế là tên lính nói hết đầu đuôi câu chuyện. Còn tay trung úy thì nhìn tên lính như nhìn một bức tường, rồi quay lưng đi, cúi đầu xuống. Thế đấy…
Bác đầu bếp cáu kỉnh phào khói, càu nhàu:
- Lúc bấy giờ tao đâu có biết điều gì nên nói, điều gì không? Thế là người ta bỏ tù tay trung úy, còn mẹ tay ấy thì nói rằng… Ôi, trời ơi, tao nào có biết gì đâu…
Trời nóng nực. Mọi vật khẽ rung rinh, rì rầm. Bên ngoài bức vách sắt của buồng tàu, bánh xe tàu thủy ầm ầm khuấy động mặt nước. Dòng sông chảy thành một dải rộng lướt qua mặt ô cửa sổ tròn, xa xa lờ mờ hiện ra dải bờ cỏ và những hàng cây. Khi thính giác đã quen với mọi âm thanh ầm ĩ thì xung quanh tựa như đều lặng lẽ, mặc dầu ở mũi tàu có một thủy thủ vẫn rầu rĩ rống lên:
- Bâ…ẩy, bâ…ẩy…
Tôi chẳng muốn tham dự vào việc nào cả, chẳng muốn nghe cũng chẳng muốn làm. Tôi chỉ muốn ngồi dưới bóng râm nào đấy – nơi không có mùi mỡ ngầy ngậy và oi nồng của bếp núc – mơ mơ màng màng ngắm cuộc sống lặng lẽ, mỏi mệt này lướt trên mặt nước.
- Đọc đi! – Bác đầu bếp giận dữ ra lệnh.
Cả đến những người hầu bàn hạng trên cũng sợ bác. Và ngay tay chủ tiệm trông giống con cá vược hiền lành ít nói hình như cũng sợ bác Smouri.
- Ê, thằng này, đồ con lợn! – Bác quát những người phục vụ trong tiệm. – Lại đây, thằng ăn cắp kia! Đồ châu Á… Umbracul…
Bọn thủy thủ và thợ đốt lò kính trọng và nịnh nọt bác vì bác cho họ thịt ninh, hay hỏi họ chuyện gia đình, làng xóm.
Những thợ đốt lò đen thủi đầy dầu mỡ người Bielorussia bị liệt vào hạng thấp kém nhất trên tàu. Người ta gọi họ bằng độc một tên “Yak”[46] và trêu chọc:
- Yak chạy rông sống trên bờ sông.
Khi nghe câu đó, bác Smouri tức khí, máu nóng bốc lên, bác quát anh thợ đốt lò:
- Sao mày lại để cho chúng nó chế giễu như vậy, hở thằng mặt thớt kia? Quại vào mõm thằng Katsap[47] ấy.
Có lần anh đội trưởng thủy thủ – đẹp trai và hung dữ – nói với bác Smouri:
- Yak và Khokhol[48] thì cũng cùng một giuộc!
Bác đầu bếp túm cổ áo và thắt lưng anh đội trưởng, nhấc bổng lên rồi vừa lắc vừa hỏi:
- Có muốn tao quật chết không?
Những trận cãi vã thường xảy ra, đôi khi dẫn tới chỗ ẩu đả, nhưng không ai dám đụng đến bác Smouri: Bác có một sức mạnh phi thường, hơn nữa bà vợ thuyền trưởng lại hay dịu dàng trò chuyện với bác. Đó là một người đàn bà cao lớn, đẫy đà, có khuôn mặt như đàn ông và mớ tóc cắt ngắn phẳng phiu như con nít.
Bác uống rượu rất dữ, nhưng không bao giờ say. Bác bắt đầu uống từ sáng, tu bốn hơi hết một chai, rồi nốc bia suốt cho đến tận chiều. Mặt bác dần dần chuyển thành màu nâu sẫm, đôi mắt đen thẫm ngơ ngác giương to.
Chiều chiều, bác ngồi trên một cái ghế đẩu, người to lớn, trắng toát. Bác ngồi yên lặng hàng giờ, nheo mắt nhìn xa xa, nơi cảnh vật đang dần khuất. Trong những giờ phút đó, mọi người đặc biệt sợ bác, còn tôi thì thấy thương bác.
Từ trong bếp, bác Yaakov Ivanovich đi ra, mặt đỏ bừng và ướt đẫm mồ hôi. Bác đứng gãi cái đầu nhẵn thín rồi phất tay một cái, bỏ đi hoặc nói vọng lại từ xa:
- Cá sterlet[49] ngoẻo cả rồi…
- Thôi được, cho vào món canh thập cẩm…
- Nhưng nếu họ đòi canh cá hay cá hấp thì sao?
- Cứ làm đi. Chúng nó khắc tọng hết.
Đôi lúc tôi quyết định đến chỗ bác đầu bếp. Bác nặng nề đảo cặp mắt:
- Cái gì?
- Không, có gì đâu!
- Tốt!
Dầu sao, có một lần tôi cũng hỏi chuyện được bác trong những giờ phút ấy:
- Tại sao bác lại làm cho mọi người phải sợ? Bác vốn hiền từ cơ mà?
Trái với sự chờ đợi của tôi, bác không nổi cáu.
- Đấy là tao chỉ hiền từ với mình mày thôi.
Rồi bác lập tức nói thêm, vẻ hiền hậu và trầm ngâm:
- Mà thực thế, có lẽ tao hiền với tất cả mọi người. Có điều tao không tỏ ra ngoài mặt. Không nên để kẻ khác biết điều đó, chúng sẽ đè đầu cưỡi cổ ngay. Người ta thường trèo lên đầu lên cổ những thằng hiền lành như một mô đất khô giữa bãi lầy… Rồi chà đạp… Đi mang bia lại đây…
Uống cốc này sang cốc khác, hết cả chai, bác liếm ria mép:
- Chú em ạ[50], chú mà lớn hơn chút nữa thì tao có thể dạy cho được nhiều điều đấy. Tao không phải là thằng ngốc, tao cũng có những điều có thể nói được cho kẻ khác nghe… Mày cứ đọc sách đi. Trong sách có đủ những điều cần thiết đấy. Sách vở không phải là trò vô bổ đâu! Có muốn uống bia không?
- Cháu không thích.
- Tốt. Đừng uống làm gì. Nghiện ngập khổ lắm! Rượu chè là của ma quỷ. Tao mà giàu có thì tao đã cho mày đi học rồi. Người vô học chỉ là con bò đực. Muốn đeo cái ách lên cổ hay muốn xẻo thịt nó thì nó cũng chỉ biết vẫy đuôi…
Bà vợ thuyền trưởng cho bác mượn một tập truyện của Nikolai Gogol[51]. Tôi đọc Chuyện báo thù khủng khiếp và rất thích truyện ấy, nhưng bác Smouri lại cáu kỉnh kêu:
- Tầm bậy, chuyện bịa cả! Tao biết có những quyển sách khác…
Bác tước mất của tôi quyển sách, rồi mượn được của bà vợ thuyền trưởng một quyển khác, cau có ra lệnh:
- Đọc Tarat… xem sao? Mày tìm xem tên ông ta là gì. Bà ta khen hay lắm. Hay đối với ai mới được chứ? Đối với bà ta có lẽ hay, nhưng với tao có thể lại không hay thì sao? Bà ta đã cắt tóc ngắn rồi! Sao không cắt luôn cả tai một thể?
Khi Tarat thách Ostap đọ sức, bác đầu bếp cười rống lên:
- A! Khá lắm! Mày có học, còn tao thì có sức! Sách thế mới là sách chứ! Lũ lạc đà!…
Bác nghe chăm chú, nhưng thường càu nhàu:
- Ê, tầm bậy! Không thể nào chém đứt đôi người từ bả vai xuống đến mông được, không thể được! Và cũng không thể xóc vào ngọn giáo mà nâng lên được – giáo gãy mất còn gì? Tao cũng đã từng là lính…
Sự phản bội của Andriy khiến bác ghê tởm.
- Thằng nhãi ranh đốn mạt! Chỉ vì đàn bà! Phì…
Nhưng khi Tarat bắn chết đứa con thì bác đầu bếp liền thõng chân xuống giường, cúi mặt, tì tay vào giường mà khóc. Nước mắt từ từ chảy trên má, nhỏ giọt xuống sàn tàu. Bác sụt sịt, lẩm bẩm;
- Ôi, lạy Chúa… Lạy Chúa tôi…
Rồi bác bỗng quát tôi:
- Đọc đi chứ, ranh con[52].
Bác lại khóc, và khi Ostap kêu lên trước khi chết: “Cha ơi! Cha có nghe không đấy?” thì bác khóc òa lên một cách dữ dội hơn và cay đắng hơn.
- Tất cả đều chết hết. – Bác Smouri nức nở. – Tất cả! Hết rồi à? Ôi, thật là tệ hại! Người như Tarat ấy mới là người! Phải, đấy mới thật là những con người…
Bác giằng quyển sách từ tay tôi rồi vừa chăm chú ngắm nghía vừa nhỏ lệ xuống bìa sách.
- Quyển sách hay thật! Thú vị thật!
Sau đó chúng tôi đọc truyện Ivanhoe[53]. Bác Smouri rất thích Richard Plantagenet.
- Đó mới là một ông vua chân chính! – Bác nói một cách tin tưởng.
Còn tôi thì lại cho câu chuyện ấy đáng chán.
Nói chung, sở thích của chúng tôi không giống nhau. Tôi rất say mê Truyện chú bé Thomas Jones[54] – bản dịch cũ của Truyện Tom Jones, đứa bé bị bỏ rơi, nhưng bác Smouri càu nhàu:
- Vớ vẩn! Tao cần cóc gì thằng Tom ấy? Nó có giúp cho tao được quái gì đâu, cần phải có những quyển sách khác.
Một hôm, tôi bảo bác rằng tôi biết những quyển sách khác, những sách bí mật, sách cấm chỉ có thể đọc vào ban đêm, ở dưới các hầm nhà.
Bác trợn tròn mắt, vểnh râu.
- Sao? Mày bịa gì thế?
- Cháu không nói dối đâu. Có một cố đạo hỏi cháu trong buổi xưng tội về những quyển sách ấy. Và trước đó, chính cháu đã trông thấy người ta đọc những quyển ấy, họ còn khóc nữa…
Bác đầu bếp cau mày nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Ai khóc?
- Cô tiểu thư ngồi nghe. Còn cô kia thì sợ đến nỗi bỏ chạy mất.
- Mày nói mê đấy, tỉnh lại đi. – Bác Smouri vừa nói vừa từ từ nhắm mắt lại.
Sau một phút yên lặng, bác lẩm bẩm:
- Tất nhiên là ở một nơi nào đó, phải có… một điều gì thầm kín. Không thể nào không có được… Tao không còn ở vào lứa tuổi đó nữa, và tính tao cũng không… Tuy nhiên…
Bác có thể nói một cách hùng hồn như vậy hàng giờ…
Dần dần tôi tự nhiên quen đọc và mượn sách đọc một cách hứng thú. Những điều kể trong sách đều khác hẳn cuộc sống. Chúng dễ chịu hơn, còn cuộc sống thì mỗi ngày một nặng nề.
Bác Smouri cũng ham đọc sách hơn. Bác thường bắt tôi bỏ dở công việc.
- Peskov, đi lấy sách ra đọc.
- Cháu còn nhiều bát đĩa chưa rửa lắm.
- Thằng Maksim sẽ rửa cho.
Với giọng gắt gỏng, bác xua người rửa bát chính đi làm thay công việc cho tôi. Anh ta tức tối đập vỡ cốc để trả thù. Người chủ tiệm hiền lành báo trước cho tôi biết:
- Tao sẽ đuổi mày khỏi tàu đấy!
Một lần Maksim cố ý để sót mấy cái cốc trong chậu nước bẩn lẫn nước trà uống thừa. Tôi hắt nước ra ngoài thành tàu và hắt luôn cả mấy cái cốc xuống sông.
- Đó là lỗi của tôi! – Bác Smouri nói với chủ tiệm. – Ông ghi vào tài khoản tôi.
Bọn phục vụ trong tiệm bắt đầu lườm nguýt và bảo tôi:
- Ê, thằng kia, con mọt sách! Người ta thuê mày để làm gì?
Và họ thường làm bẩn bát đĩa một cách vô duyên cớ, cố đùn thật nhiều công việc cho tôi. Tôi hiểu rằng những sự việc đó sẽ đưa đến một kết thúc không tốt cho tôi, và tôi đã không lầm.
Một mụ đàn bà mặt đỏ tía cùng một cô gái trùm khăn vàng, khoác áo bờ lu mới màu hồng, từ một bến nhỏ lên tàu. Cả hai đều ngà ngà say. Mụ đàn bà tủm tỉm cúi chào mọi người và nói nhấn nhá các chữ “ô”, giống như thầy phụ lễ.
- Xin lỗi anh em nhé, tôi có uống một đôi tí rượu! Người ta kết án tôi, rồi lại tuyên bố trắng án cho tôi. Vì thế tôi mới uống mừng…
Cô gái cũng vừa cười khúc khích vừa nhìn mọi người bằng cặp mắt mờ đục, đẩy mụ đàn bà:
- Đi đi, đồ thổ tả[55], đi đi, liệu đấy…
Họ ở khoang hạng nhì, đối diện với buồng ngủ của bác Yaakov Ivanovich và anh Sergei. Chẳng bao lâu, mụ đàn bà biến đâu mất, còn Sergei thì ngồi sát cô con gái, há hốc cái miệng nhái ra một cách khao khát.
Đến khuya, khi tôi làm xong công việc và sắp nằm ngủ trên bàn, Sergei đến bên cạnh, kéo tay tôi.
- Lại đây, chúng tao sẽ cưới vợ cho mày…
Hắn đang say rượu. Tôi cố gỡ tay ra, hắn liền quai cho tôi một cú.
- Đi đi!
Maksim chạy đến. Anh ta cũng say rượu. Cả hai lôi tôi lên boong tàu, ngang qua chỗ các hành khách đang ngủ, đến buồng của họ. Nhưng bác Smouri đã đứng ở cửa buồng. Bác Yaakov Ivanovich giữ chặt lấy khung cửa, còn cô con gái thì đang lấy tay thụi vào lưng bác ta và kêu lên bằng một giọng say chếnh choáng:
- Bỏ ra…
Bác Smouri lôi tôi khỏi tay của Sergei và Maksim rồi túm tóc, đập đầu họ vào nhau và ẩy họ ra. Cả hai cùng ngã quỵ xuống…
- Đồ châu Á! – Bác nói với Yaakov rồi đóng sập cửa ngay trước mặt bác này.
Vừa đẩy tôi, bác vừa rống lên:
- Cút đi ngay!
Tôi chạy ra đằng lái. Bầu trời đêm đầy mây. Sông đen sẫm. Hai con đường nhỏ màu xám sau đuôi tàu đang sôi lên và tách ra về phía đôi bờ không thấy rõ. Chiếc sà lan được kéo theo nằm giữa hai con đường đó. Những đốm lửa đỏ hiện ra, lúc ở bên phải, lúc ở bên trái, không soi rõ được gì, rồi lại biến mất sau những chỗ ngoặt bất ngờ của bờ sông. Sau đấy, đêm như đen tối thêm và tôi càng thấy khổ sở hơn.
Bác đầu bếp chợt đi đến, ngồi xuống cạnh tôi, thở dài với vẻ mặt nặng nề và đánh diêm châm thuốc hút.
- Chúng nó kéo mày đến với con ấy à? Hừ, lũ đốn mạt! Tao nghe được chúng nó mưu tính với nhau…
- Bác đã cứu cô ta khỏi bọn họ chứ?
- Cô ta ấy à? – Bác chửi cô con gái bằng mấy câu thô tục và nói tiếp, giọng nặng nề. – Tất cả bọn ở đây đều là một lũ chó chết. Cái tàu thủy này còn tệ hơn ở thôn quê nhiều. Mày đã sống ở nhà quê chưa?
- Chưa ạ.
- Thôn quê hỏng cả! Nhất là mùa đông.
Vứt mẩu thuốc qua thành tàu, bác lặng yên một lúc rồi tiếp:
- Ở trong cái chuồng lợn này, mày đến hỏng mất! Tao thương hại mày, con chó con ạ. Và thương cho cả mọi người. Đôi khi tao chẳng biết làm thế nào nữa… Đến nỗi muốn quỳ xuống mà hỏi họ: “Các người làm gì thế, hở lũ chó má kia? Sao lại thế, hở lũ mù quáng kia?” Thật là lũ ngu xuẩn…
Còi tàu rúc lên một hồi dài. Sợi dây cáp lại đập xuống mặt nước. Trong bóng đêm dày đặc, một đốm đèn lồng lắc lư chỉ cho biết chỗ nào là bến tàu. Từ trong bóng tối, hiện ra vài đốm lửa nữa.
- Rừng “Say”. – Bác đầu bếp càu nhàu. – Và có cả sông “Say” nữa. Có một tay quân nhu tên là “Say”, rồi thư kí cũng “Say”… Thôi, phải lên bờ cái đã…
Một đám đàn bà con gái to lớn vùng sông Kama khiêng củi trên những cái cáng dài từ trên bờ xuống tàu. Khom lưng dưới dây đeo, họ đi từng đôi, nhún chân như nhảy múa tới phía hầm lò và trút những thanh củi dài nửa sazhen[56] vào cái hầm đen ngòm, miệng kêu vang:
- Từ từ chứ!
Khi họ mang củi xuống, bọn thủy thủ liền sờ soạng vào vú, vào đùi họ. Lũ đàn bà hét inh ỏi, nhổ nước bọt vào bọn đàn ông. Khi quay lên bờ, họ dùng cáng để chống đỡ, đánh những kẻ định cấu véo và xô đẩy họ. Tôi thấy những cảnh tượng đó hàng chục lần: Trong mỗi chuyến đi, ở tất cả các bến mà tàu dừng để lấy thêm củi đều xảy ra những trò như vậy.
Tôi có cảm giác như mình đã già, đã sống nhiều năm trên cái tàu thủy này và biết hết mọi điều xảy ra trên tàu trong ngày mai, tuần sau, trong mùa thu và cả sang năm nữa.
Trời hửng sáng. Trên bờ cát dốc cao hơn bến tàu hiện ra một rừng thông rậm rạp. Những người đàn bà leo dốc về phía rừng, vừa hát vừa cười vừa hú… Vũ trang bằng những cái cáng dài, trông họ như những người lính.
Tôi muốn khóc. Nước mắt sục sôi trong ngực. Trái tim như bị nung trong đám nước mắt nóng bỏng đó. Tôi đau nhói cả người.
Nhưng khóc thì thật đáng xấu hổ, nên tôi đi giúp anh thủy thủ Blyakhin rửa boong tàu.
Blyakhin là một con người tầm thường không có gì đặc sắc. Vẻ nhợt nhạt, ủ rũ, lúc nào cũng chui vào các xó xỉnh và từ xó tối đó chỉ thấy ánh lên hai đốm mắt nhỏ xíu.
- Thực ra tên tục của tớ không phải là Blyakhin mà là… Bởi vì mẹ tớ đã sống một cuộc đời sa đọa, chú mày hiểu chứ? Tớ có em gái, nhưng nó cũng giống mẹ. Có lẽ số phận cả hai là như vậy. Số phận là cái neo của cả bọn chúng ta, chú em ạ! Sao chú mày không đi nơi khác đi, à, hãy khoan…
Anh ta vừa kéo lê cái chổi trên boong tàu vừa thủ thỉ với tôi:
- Chú mày thấy chúng nó chọc ghẹo lũ đàn bà như thế đấy! Thế đấy! Đến thanh củi ẩm đốt lâu rồi cũng phải cháy! Tớ không ưa điều đó, không thích chút nào, chú em ạ. Nếu như tớ sinh ra là đàn bà thì tớ sẽ tự vẫn ngay ở vực nước xoáy đen ngòm cho rảnh. Chúa Jesus che chở cho chúng sinh thế đấy!… Như thế này cũng đã chán chẳng muốn làm gì, thế mà chúng nó lại còn khơi lửa lên nữa chứ! Tớ nói thật đấy, bọn hoạn không phải là dân ngu ngốc đâu. Chú đã nghe nói về bọn hoạn rồi chứ? Thật là một bọn thông minh, chúng đã đoán rất đúng: Hãy vứt béng mọi vật nhỏ nhặt và dốc lòng thờ phụng Chúa…
Bà vợ ông thuyền trưởng, váy xắn cao, bước tránh những vũng nước, đi ngang qua chỗ chúng tôi. Bà luôn luôn dậy sớm. Người bà cao lớn, cân đối, khuôn mặt bà giản dị, sáng sủa… Tôi chỉ muốn chạy theo bà và thành khẩn van xin: “Bác hãy kể cho cháu nghe một chuyện gì đi, bác kể nhé!…”
Con tàu chậm chạp rời bến. Anh Blyakhin vừa làm dấu vừa nói:
- Tàu đi rồi…
Chú thích:
1 Mùa xuân năm 1880 Gorky bắt đầu làm việc trên tàu thủy “Dobry” chạy giữa thành phố Nizhny và Perm.
2 Có nghĩa là: Tốt lành.
3 Tắm bằng hơi nước nóng, lấy cành cây đập vào người để ra mồ hôi.
4 Một khúc hát ở nhà thờ.
5 Mùa thu năm 1872, sau khi bố qua đời, chú bé Alyosha Peskov lúc bấy giờ mới bốn tuổi đi tàu thủy cùng bà và mẹ từ Astrakhan đến Nizhny để sống tại nhà ông ngoại (xem chương I trong tập Thời thơ ấu).
6 Ý nói: Đồ thô lỗ, đồ mọi rợ!
7 Một loại sách bói toán.
8 Nguyên văn: Đánh vào răng.
9 Bò Tây Tạng.
10 Tên gọi người Nga trước cách mạng với ý khinh miệt.
11 Tên gọi người Ukraine trước cách mạng với ý khinh miệt.
12 Cá tầm sông Danube.
13 Nguyên văn: Con chim ạ.
14 Nhà văn lớn người Nga (1809 – 1852).
15 Nguyên văn: Cái xương quỷ này.
16 Tiểu thuyết của Walter Scott (1771 – 1831).
17 Tiểu thuyết của Henry Fielding (1707 – 1754).
18 Nguyên văn: Đồ dịch hạch.
19 Một sazhen bằng 2,13m.