← Quay lại trang sách

Chương 8

Khi tuyết bắt đầu rơi, ông ngoại lại dẫn tôi đến nhà bà dì.

- Việc này không phải là việc xấu đâu, không tồi đâu. – Ông bảo tôi.

Tôi có cảm tưởng sau mùa hè tôi đã từng trải và khôn hơn trước, còn nhà chủ thì càng buồn tẻ hơn. Mọi người vẫn thường xuyên đau ốm vì nhồi nhét quá nhiều thức ăn, làm hỏng cả dạ dày. Họ vẫn kể tỉ mỉ cho nhau nghe tình hình bệnh tật. Bà già vẫn cầu Chúa với vẻ quạu cọ và hằn học. Mợ chủ sinh con xong có gầy và thon hơn, nhưng đi đứng vẫn ra vẻ đường bệ và chậm chạp như lúc có mang. Khi mợ ngồi khâu quần áo cho các con, mợ hát khe khẽ một bài độc nhất:

Spiria, spiria, spiridon,

Spiria, chú em mến yêu ơi,

Chị sẽ ngồi vào xe trượt tuyết,

Cho spiria ngồi kèm bên mép…

Hễ thấy tôi bước vào phòng, mợ vội ngưng hát, cáu kỉnh quát:

- Mày muốn gì?

Tôi tin rằng ngoài bài ấy mợ chẳng biết bài hát nào khác.

Chiều đến, nhà chủ gọi tôi vào phòng và bảo:

- Nào, kể xem mày đã sống trên tàu thủy ra sao!

Tôi ngồi xuống chiếc ghế cạnh cửa nhà xí và kể chuyện. Tôi khoan khoái ôn lại cuộc sống khác hẳn cái cuộc sống hiện nay – cuộc sống mà người ta nhét tôi vào dù tôi không muốn. Tôi kể say sưa quên cả người nghe. Nhưng không bao lâu, mấy người phụ nữ chưa bao giờ đi tàu thủy hỏi tôi:

- Dầu sao, cũng thấy sợ chứ?

Tôi không hiểu họ sợ cái gì.

- Lỡ nó sa vào chỗ sâu và chìm mất thì chết!

Cậu chủ cười phá lên. Còn tôi thì tuy biết tàu thủy không chìm ở chỗ nước sâu nhưng không làm thế nào nói cho các bà tin được. Bà già tin chắc rằng tàu thủy không nổi trên mặt nước mà đi bằng bánh xe trên đáy sông như cỗ xe ngựa đi trên mặt đất.

- Nếu nó bằng sắt thì sao mà nổi được? Đấy cái búa có nổi đâu…

- Thế cái gàu có chìm trong nước không?

- Cũng đòi so sánh! Cái gàu vừa nhỏ lại vừa rỗng…

Khi tôi kể chuyện bác Smouri và những quyển sách của bác, họ nhìn tôi với vẻ nghi ngờ. Bà già nói rằng sách vở là do bọn ngu ngốc và lũ vô đạo viết ra.

- Thế còn Thánh thi? Còn vua David thì sao?

- Thánh thi là quyển sách thiêng liêng. Và chính vua David còn phải xin Chúa tha tội vì quyển Thánh thi đấy.

- Ở đâu nói như vậy?

- Ở lòng bàn tay tao chứ đâu. Tao mà túm lấy gáy mày, thì mày khắc biết ở đâu!

Chuyện gì bà già cũng “biết”. Bà già nói về mọi việc với vẻ đoan chắc và luôn luôn bằng một giọng thô lỗ.

- Ở Pechorka có một lão Tarta vừa chết. Hồn của lão chảy từ cuống họng ra, đen như hắc ín!

- Hồn lão là thần đấy. – Tôi nói.

Bà khinh bỉ quát:

- Hồn của lão Tarta ấy à? Đồ ngốc!

Mợ chủ cũng sợ sách vở.

- Đọc sách vào hại lắm, nhất là khi còn trẻ tuổi. – Mợ nói. – Ở quê tôi tại Grebeshka có một cô gái con nhà tử tế cứ miệt mài đọc sách mãi, thế rồi phải lòng ngay thầy phụ lễ. Vợ thầy ta làm cô này đến nhục nhã điêu đứng. Thật là khủng khiếp! Ngay giữa phố, trước mặt mọi người…

Đôi khi tôi dùng “chữ” lấy trong sách của bác Smouri. Trong một quyển, có một câu không đầu không đuôi như sau:

“Nói đúng ra thì không có ai sáng chế ra thuốc súng cả. Như thường lệ, nó xuất hiện sau một thời gian tìm tòi, khám phá lâu dài.”

Không hiểu sao tôi nhớ kĩ câu ấy đến thế, tôi thích nhất ba chữ “nói đúng ra” và thấy chúng có hiệu lực lớn. Nhưng chúng cũng mang lại cho tôi nhiều buồn phiền tức cười.

Một hôm, chủ nhà đề nghị tôi kể thêm chuyện về tàu thủy, tôi đáp:

- Nói đúng ra thì cháu cũng chẳng còn gì để kể nữa…

Câu ấy khiến tất cả mọi người kinh ngạc, họ nhốn nháo:

- Sao? Mày nói sao?

Và cả bốn người đồng thanh cười rống lên, nhại lại:

- Nói đúng ra, ôi, cha mẹ ơi!…

Đến cả cậu chủ cũng bảo:

- Thằng quỷ quái này, mày bịa ra những chữ thật là dở!

Từ đó cho đến mãi về sau họ thường gọi tôi: “Này, nói đúng ra ơi! Đi chùi sàn cho thằng bé đi, nói đúng ra…”

Sự giễu cợt vô lí đó không khiến tôi bực tức, thay vào đó, tôi rất ngạc nhiên.

Tôi sống trong đám mây mù của sự buồn tẻ khiến con người ta như ngây độn. Để khỏi buồn, tôi cố gắng làm thật nhiều việc. Công việc cũng chẳng thiếu: Trong nhà có hai đứa bé, các vú nuôi không hợp ý nhà chủ nên bị thay luôn. Tôi phải trông bọn nhỏ, hằng ngày giặt tã lót và hằng tuần đi giũ quần áo ở “suối Sen đầm”. Mấy bà thợ giặt ở đấy thường chế nhạo tôi:

- Sao mày lại đi làm công việc của đàn bà thế kia?

Đôi khi, họ làm tôi tức quá, tôi cầm cả bó quần áo ướt mới vắt đập vào người họ; họ cũng trả miếng y như vậy. Nhưng có họ bên cạnh cũng thấy vui vui.

Suối Sen đầm chảy dưới đáy vực sâu và đổ vào sông Oka. Khe vực ngăn cách thành phố với cánh đồng mang tên của một vị thần cổ đại – Yarilo[62]. Vào ngày hội Semik[63], đám tiểu thị dân của thành phố thường tổ chức những cuộc dạo chơi trên cánh đồng. Bà ngoại có nói với tôi rằng hồi bà còn trẻ, người dân còn tin vào thần Yarilo và thường dâng lễ vật cho thần: Họ tìm một cái bánh xe lửa và lấy dây bôi nhựa quấn chặt lại rồi thả lăn xuống sườn dốc. Họ la hét, ca hát và dõi xem bánh xe đó có lăn được tới sông Oka không. Nếu lăn tới được tức là thần Yarilo đã nhận tế vật, mùa hè năm ấy nhất định sẽ mưa thuận gió hòa.

Đám thợ giặt phần đông là người vùng Yarilo. Họ nhanh nhẹn, lắm mồm lắm miệng. Họ biết mọi chuyện trong thành phố. Những chuyện họ kể về các nhà chủ – là những thương gia, viên chức, sĩ quan – nghe rất thú vị. Mùa đông giặt quần áo trong nước suối giá như băng thật không khác gì việc khổ sai. Tay bà nào cũng bị cóng buốt đến nỗi da nứt nẻ hết. Dưới tấm mái che ọp ẹp có nhiều khe hở không thể nào chắn được tuyết và gió, họ khom lưng giặt giũ trên dòng suối được đóng khung trong những khúc gỗ. Giá buốt cắn xé mặt họ khiến máu dồn lên mặt, những ngón tay ướt cứng đờ không co lại nổi, nước mắt ứa ra, nhưng họ vẫn tán chuyện không ngớt, kể cho nhau nghe đủ chuyện linh tinh; đối với mọi người, mọi việc, họ đều có cách nhận xét đặc biệt táo bạo.

Trong đám thợ giặt có chị Nataliya Kozlovsky kể chuyện hay nhất. Chị ngoài ba mươi tuổi, tươi tắn, mạnh khỏe, ánh nhìn luôn đượm vẻ giễu cợt. Những câu chị nói rất linh hoạt và sắc sảo. Các bạn đều vì nể chị. Họ hỏi ý kiến chị nhiều việc, vì chị ăn mặc đứng đắn và vì chị đã cho con gái mình theo học trung học. Khi thấy chị khom lưng dưới hai cái thúng nặng quần áo ướt đi xuống dốc trên con đường vừa nhỏ vừa trơn, họ chào chị một cách vui vẻ và săn sóc hỏi han:

- Cháu gái ra sao rồi?

- Cảm ơn bác, không đến nỗi tồi. Ơn Chúa, cháu nó vẫn đi học.

- Khéo chừng cô ấy rồi sẽ thành bà quý phái đấy!

- Tôi cho cháu đi học cũng vì thế. Bọn quý tộc, cái bọn được nâng niu, chiều chuộng ấy ở đâu mà ra? Tất cả đều từ chúng ta, từ đám dân đen mà ra cả chứ còn từ đâu nữa? Học được nhiều bao nhiêu, tay càng dài ra bấy nhiêu. Mà kẻ nào thu nhặt được nhiều thì kẻ ấy muốn làm vương làm tướng gì cũng được… Chúa đày chúng ta xuống trần gian làm những đứa trẻ ngu dại nhưng đòi hỏi khi trở về chúng ta phải là những người già thông minh hiểu biết. Có nghĩa là phải học mới được!

Khi chị nói, mọi người lặng yên chăm chú nghe những câu chuyện mạch lạc và đúng đắn. Trước mặt cũng như sau lưng chị, tất cả đều ngợi khen và ngạc nhiên về sức bền bỉ và trí thông minh của chị, nhưng không ai bắt chước chị cả. Chị khâu thêm vào áo khoác mấy ống tay áo làm bằng da màu hung lấy ở ống giày ủng, nhờ đó mà khi giặt tay chị khỏi phải để trần đến khuỷu và cũng không bị ướt áo. Mọi người ca ngợi sáng kiến của chị nhưng không ai làm theo. Khi tôi cũng làm như vậy, họ giễu cợt tôi.

- Ô, mày lại phải học trí khôn của đàn bà sao!

Về con gái chị, người ta bình luận:

- Có hay hớm gì đâu! Ừ thì thêm một bà quý phái nữa đấy, nhưng cuộc sống có dễ dàng được hơn chăng? Mà đã chắc đâu nó học được đến nơi đến chốn, khéo lại chết giữa chừng…

- Ngay đến những người có học cũng sống chẳng ra gì: Đấy, con gái nhà Bakhilov, học chết học sống, sau cũng đi dạy học. Mà đã là cô giáo thì rồi đến làm “bà cô” suốt đời thôi…

- Còn phải nói! Chọn vợ nên chọn người không có học thức để còn sai bảo được…

- Trí óc đàn bà con gái có ra gì…

Thật lạ lùng và khó hiểu khi nghe họ nói về bản thân một cách thiếu tôn trọng như vậy. Tôi đã từng nghe thủy thủ, binh lính, thợ đấu nói về đàn bà, nghe những người đàn ông đắc chí kể lể mánh lới lừa dối phụ nữ và khoe khoang sự dẻo dai của mình. Tôi cảm thấy họ có định kiến thù ghét phụ nữ. Nhưng hình như trong hầu hết các câu chuyện của đám đàn ông về “thành tích” tình trường, ngoài sự khoe khoang còn có điều gì khiến tôi cảm thấy mấy chuyện đó chỉ là khoe mẽ và bịa đặt.

Các bà thợ giặt không kể cho nhau nghe chuyện tình duyên nhưng qua những bình luận giễu cợt, độc ác của họ về cánh đàn ông, tôi nghĩ rằng câu: “Đàn bà là sức mạnh” có lẽ đúng thật!

- Dù có đi đến đâu, có quen biết ai thì rồi cũng phải tìm đến đàn bà, không sao thoát khỏi đâu. – Một hôm chị Natalya nói như vậy.

Một bà già quát lên với chị, giọng như bị cúm:

- Còn đi đâu nữa! Cả tu sĩ lẫn ẩn sĩ cũng bỏ Chúa để mò đến với chúng ta nữa là…

Những câu chuyện bên tiếng nước róc rách khóc than, bên tiếng giẻ ướt vỗ bì bạch trong khe bẩn dưới đáy vực mà cả những bông tuyết mùa đông trong sạch cũng không thể phủ kín, những cuộc chuyện trò trao đổi trắng trợn về điều bí mật sinh ra mọi bộ lạc, mọi dân tộc đã gây nên trong lòng tôi sự ghê tởm, kinh sợ, xua đẩy ý nghĩ và cảm giác của tôi lánh xa những “thiên tình sử” đầy dãy đến phát ngấy. Đối với tôi, khái niệm “thiên tình sử” đã chuyển thành khái niệm về những chuyện bẩn thỉu và ghê tởm.

Nhưng dầu sao, ở giữa đám thợ giặt dưới vực, bên bọn lính cần vụ trong các nhà bếp hoặc cạnh thợ đấu dưới tầng hầm, tôi vẫn thấy thích thú hơn ở nhà nhiều. Những câu nói, ý nghĩ, sự việc xảy ra ở nhà đều đều, tẻ ngắt, khiến lòng tôi nặng nề và buồn chán khủng khiếp. Nhà chủ sống trong thế giới chật hẹp toàn chuyện ăn uống, bệnh tật, ngủ ngáy, lăng xăng suốt ngày chỉ ăn và ngủ. Họ trò chuyện về tội lỗi, về cái chết và rất sợ phải chết. Họ chen chúc như những hạt gạo quanh cối xay chờ đợi giây phút bị nghiền nát.

Những giờ rỗi rãi, tôi vào kho chẻ củi, mong được yên tĩnh một mình, nhưng ít khi tôi đạt được ý nguyện. Mấy người lính cần vụ thường vào cà kê kể chuyện trong khu nhà.

Những người hay vào nhà kho với tôi nhất là Ermokhin và Sidorov. Ermokhin quê ở Kaluga, người gân guốc, cao lêu nghêu, lưng gù gù, đầu bé, mắt lờ đờ. Hắn lười biếng và ngốc không chịu được, đi đứng thì chậm chạp vụng về. Nhưng khi trông thấy đàn bà, hắn rống lên và vươn người ra, tựa hồ muốn nằm phục dưới chân họ. Mọi người trong khu nhà ngạc nhiên khi thấy hắn chinh phục được bọn mụ bếp, con sen một cách nhanh chóng. Họ ghen tị với hắn và sợ sức khỏe như gấu của hắn. Sidorov quê vùng Tula, người gầy gò xương xẩu, lúc nào cũng có vẻ ủ ê. Anh nói năng nhỏ nhẹ, ho hắng thận trọng, đôi mắt thường mang vẻ sợ sệt. Anh ưa nhìn vào những góc tối. Khi thầm thì kể chuyện hoặc khi ngồi lặng yên, anh luôn nhìn vào xó tối nhất.

- Anh nhìn cái gì thế?

- Có lẽ một con chuột sắp chạy ra… Tao thích chuột lắm. Chúng bò mới nhẹ nhàng làm sao…

Tôi viết những bức thư gửi về nhà và những mảnh giấy hò hẹn gửi cho tình nhân hộ mấy người cần vụ. Việc đó làm tôi thích thú. Tôi thích viết thư hộ anh Sidorov hơn viết cho những người khác. Thứ Bảy nào anh cũng chu đáo gửi thư cho em gái ở Tula.

Anh mời tôi vào bếp rồi ngồi bên cạnh tôi. Tay xoa mãi cái đầu húi ngắn, anh thì thầm vào tai tôi:

- Nào, viết đi! Đầu tiên hãy viết: “Em gái mến yêu nhất của anh, chào em!” như thường lệ. Bây giờ viết: “Anh đã nhận được một rúp rồi. Cảm ơn em nhé, có điều là không cần gửi làm gì. Anh chẳng cần gì cả đâu. Các anh sống rất dễ chịu.” Bọn tao sống chẳng dễ chịu tí nào đâu, khổ như những con chó ấy, nhưng mày đừng có viết điều đó vào, mà chỉ viết là “dễ chịu”. Nó đang còn bé, mới mười bốn tuổi đầu, để nó biết làm gì? Bây giờ thì mày tự viết lấy như người ta đã dạy mày…

Anh ép sườn trái sát vào tôi, hơi thở nóng phì phào vào tai tôi, anh thì thầm nhấn mạnh:

- Bảo nó đừng để bọn con trai ôm và sờ vào ngực. Mày viết đi: “Nếu có kẻ nào nói dịu dàng với em, em đừng có tin. Đó là nó muốn lừa dối em, muốn làm em khổ…”

Vì cố nín ho nên khuôn mặt đen sạm của anh đỏ tía lên: Anh phồng má, nước mắt ứa ra; anh cựa quậy trên ghế và thúc vào tôi.

- Anh làm vướng tay quá!

- Không sao, viết đi! “… Nhất là bọn nhà chủ thì em đừng có tin. Gặp dịp là chúng sẽ lừa dối em ngay. Chúng biết cách nói và hứa hẹn đủ chuyện, nhưng nếu em tin lời bọn chủ, em sẽ rơi ngay vào nhà thổ đấy. Để dành được rúp nào thì cứ giao cho giáo trưởng; nếu là người tốt thì ông ta sẽ giữ giùm. Nhưng tốt hơn hết là em cứ chôn tiền xuống đất, đừng để cho ai thấy và phải nhớ chỗ đã chôn.”

Nghe những tiếng thì thầm lẫn trong tiếng cót két của cái quạt máy bằng sắt tây trên tấm cửa thông hơi thật là buồn. Tôi đảo mắt nhìn cửa lò ám khói và tủ đựng bát đĩa đầy cứt ruồi. Căn bếp vô cùng bẩn thỉu, đầy những rệp, sặc mùi mỡ cháy, mùi dầu hỏa và khói. Những con gián bò sột soạt trong mớ đóm trên lò. Tâm hồn tôi tràn ngập nỗi buồn chán, tôi thấy thương anh lính và cô em của anh ta đến suýt phát khóc. Lẽ nào có thể sống như vậy? Sống như vậy có gì tốt?

Tôi viết lia lịa, không để ý lắng nghe lời thầm thì của anh Sidorov nữa. Tôi viết rằng cuộc sống thật buồn chán và đầy tủi nhục, còn anh thì thở dài bảo tôi:

- Chú viết dài thế, cảm ơn chú nhé. Bây giờ ít ra thì nó sẽ biết là phải sợ những gì…

- Chẳng có gì phải sợ cả. – Tôi bực tức, tuy trong thâm tâm, chính tôi vẫn sợ rất nhiều thứ.

Anh lính ho húng hắng rồi cười:

- Thằng bé này lạ thật! Sao lại không sợ? Thế còn bọn chủ, còn Chúa? Và còn bao nhiêu là điều đáng sợ khác!

Khi nhận được thư của em gái, anh lo lắng cầu khẩn tôi:

- Đọc đi, chú mày, đọc nhanh lên…

Và anh bắt tôi đọc đi đọc lại hàng ba bốn lần bức thư nguệch ngoạc, ngắn ngủi và vô vị, khiến tôi rất bực mình.

Tính tình hiền hậu, dịu dàng, nhưng trong cách đối xử với phụ nữ anh cũng có thái độ giống như hầu hết mọi người: Đơn giản và thô bỉ một cách chó má. Vô tình hoặc chủ tâm quan sát các mối quan hệ phát triển một cách nhanh chóng lạ lùng và đáng tởm, tôi nhận ra anh Sidorov thoạt đầu thường khiến đàn bà động lòng trắc ẩn bởi mấy lời than vãn về cuộc đời lính, quyến rũ họ bằng sự lừa dối dịu dàng, và sau khi mọi việc đã xong xuôi, anh nhăn mặt kể chiến công của mình cho Ermokhin nghe, miệng nhổ nước bọt tỏ vẻ ghê tởm tựa hồ vừa uống xong một liều thuốc đắng. Điều đó làm tim tôi thắt lại, tôi bực bội hỏi anh lính rằng tại sao bọn họ lại hay lừa bịp, nói dối phụ nữ rồi sau đó chế giễu, chuyền các cô từ tay người này sang tay người khác, tại sao họ lại hay đánh phụ nữ?

Anh chỉ cười nhạt:

- Mày chưa nên biết chuyện ấy làm gì. Đó là những chuyện xấu, là tội cả đấy! Mày còn ít tuổi, những chuyện đó đối với mày đang còn sớm…

Nhưng có một lần tôi đạt được câu trả lời rõ ràng hơn mà tôi còn nhớ mãi:

- Mày tưởng bọn đàn bà không biết tao lừa dối họ hay sao? – Anh nói, vừa nháy mắt vừa ho. – Họ biết quá đi chứ! Chính họ cũng muốn để cho người khác lừa dối mình. Trong việc này mọi người lừa dối nhau tuốt. Đó là việc mà ai cũng thấy hổ thẹn. Có người nào yêu người nào đâu, chẳng qua chỉ là trò đùa đấy thôi. Quả là vô cùng đáng xấu hổ! Đấy, cứ chờ ít lâu rồi mày sẽ biết. Chỉ cần trời tối là được. Còn ban ngày thì tìm chỗ nào tôi tối hay vào trong nhà kho ấy, thế đấy! Cũng vì thế mà Chúa đã đuổi loài người ra khỏi thiên đường, vì thế mà ai nấy đều khổ sở…

Anh nói thật hay, giọng anh có vẻ ăn năn buồn bã khiến tôi cũng bớt khắc nghiệt với các “thiên tình sử” của anh. Tôi thích chơi với anh hơn là với Ermokhin. Tôi rất ghét gã ta và tìm mọi cách để chế nhạo, làm cho hắn phát khùng. Tôi thường đạt được mục đích và gã phải chạy đuổi tôi khắp sân. Chỉ vì vụng về mà ít khi hắn có dịp thực hiện các đòn trừng phạt.

- Chuyện ấy cấm đấy! – Anh Sidorov thường bảo tôi như vậy.

Tôi hiểu đó là chuyện cấm, nhưng nói rằng vì thế mà ai nấy đều khổ sở thì tôi không tin. Tôi từng trông thấy nhiều người khổ sở. Tôi cũng từng quan sát biểu lộ khác thường trong đôi mắt những người đang yêu và cảm nhận được sự hiền hậu đặc biệt của các cặp tình nhân. Thật dễ chịu khi chứng kiến niềm vui sướng của tình yêu đó.

Dầu sao, theo tôi còn nhớ, cuộc sống của tôi mỗi ngày một buồn tẻ, gay gắt hơn, nó vĩnh viễn bị ấn định chặt chẽ trong các hình thức và những mối quan hệ mà tôi đã trông thấy ngày này qua ngày khác. Khó mà tin rằng sẽ có chuyện gì tốt hơn xảy ra, bởi những điều xấu xa vẫn hiện ra trước mắt mình hằng ngày, không sao xóa bỏ được.

Một hôm, những người lính kể cho tôi nghe một chuyện khiến tôi vô cùng xúc động.

Trong một căn nhà, có anh thợ nọ chuyên cắt quần áo cho hiệu may nổi tiếng của thành phố. Anh ta không phải người Nga, tính nết hiền lành, khiêm tốn. Vợ anh nhỏ bé, ngày đêm chỉ đọc sách. Hai vợ chồng không có con, sống một cách kín đáo và thầm lặng giữa một khu huyên náo, bên những căn nhà đầy ních người say. Họ không tiếp khách cũng chẳng đi đâu, chỉ đi xem hát với nhau trong những ngày hội.

Từ sáng đến chiều tối anh chồng ở nơi làm việc. Còn chị vợ thì giống như một cô thiếu nữ, cứ mỗi tuần đến thư viện hai lần vào buổi trưa. Tôi thường thấy chị bước những bước ngắn trên đường, lắc lư, khập khiễng, sách vở bó dây, trông như một nữ sinh giản dị, dễ thương, váy áo mới và sạch sẽ, đôi tay nhỏ nhắn đeo găng. Gương mặt hao hao chú chim non, cặp mắt đảo nhanh, nom chị đẹp như pho tượng bằng sứ trên giá gương. Những người lính nói rằng chị thiếu một cái xương sườn bên phải, thế nên chị mới có dáng đi lắc lư lạ lùng như vậy, nhưng điều đó khiến tôi thấy chị càng dễ thương, khác hẳn những bà vợ sĩ quan của khu nhà. Những người này, mặc dầu giọng nói vang vang, váy áo sặc sỡ, dáng điệu cao kì, nhưng vẫn có vẻ gì cũ kĩ tựa hồ bị bỏ quên rất lâu trong nhà kho, giữa đống đồ đạc không còn dùng đến.

Mọi người trong khu nhà đều cho chị vợ anh thợ cắt nhỏ bé đó là người dở ngây dở dại. Họ kháo nhau rằng chị mất trí vì ham đọc sách quá và không thể làm công việc nội trợ; chồng chị phải đích thân đi chợ mua thức ăn và đặt các món ăn trưa, ăn chiều với mụ bếp, một mụ đàn bà to béo, cau có, không phải người Nga, một mắt đỏ ngầu luôn lèm nhèm còn mắt kia chỉ là một khe nhỏ màu hồng. Người ta đồn rằng chị vợ không thể phân biệt thịt lợn thăn với thịt bê và đã có lần, thật đến nhục, mua lầm rau mùi tây ra củ cải ngựa! Các người nghĩ xem, thật là một điều kinh khủng!

Cả ba đều xa lạ trong khu nhà, như thể họ tình cờ lạc vào chung một ngăn trong cái chuồng gà lớn. Họ giống chim sẻ ngô vì tránh băng giá mà bay qua cửa thông hơi vào khu nhà ngột ngạt và bẩn thỉu của loài người.

Bỗng một hôm, mấy người cần vụ bảo với tôi rằng bọn sĩ quan đang bày trò chơi khăm chị vợ bé nhỏ của anh thợ cắt. Hầu như ngày nào họ cũng thay phiên nhau, lúc người này, khi người khác, gửi thư cho chị bày tỏ tình yêu và nỗi đau khổ, ca ngợi sắc đẹp của chị. Chị viết thư trả lời, van xin họ để cho chị được yên tĩnh và lấy làm tiếc rằng mình là nguyên nhân gây nên nỗi đau khổ của họ. Chị cầu Chúa mong Người giúp họ quên chị đi. Khi nhận được thư, đám sĩ quan đem ra đọc chung rồi cười nhạo người đàn bà và lại viết ngay một lá thư tình khác, kí tên một người nào đó, gửi chị.

Khi kể cho tôi nghe chuyện ấy, những người cần vụ cũng giễu cợt chửi rủa chị:

- Đồ ngu xuẩn! Nó làm bộ đấy mà! – Ermokhin nói, giọng trầm trầm.

Còn anh Sidorov thì phụ họa bằng giọng nhỏ nhẹ:

- Đàn bà ả nào cũng muốn cho người ta lừa dối mình cả. Nó còn lạ gì…

Tôi không tin rằng chị vợ anh thợ cắt biết chuyện mọi người giễu cợt mình nên quyết định kể cho chị. Chờ khi mụ bếp nhà chị xuống hầm rượu, tôi bước vào phòng. Chị đang ngồi bên bàn, một tay nâng cái tách nặng mạ vàng, tay kia cầm một quyển sách đang mở. Chị kinh hãi ép quyển sách vào ngực, kêu khe khẽ:

- Ai đấy? Em là ai?

Tôi liền kể rất nhanh cho chị nghe, câu nọ xọ câu kia, đinh ninh là chị sẽ ném quyển sách hay cái tách vào người tôi. Chị ngồi trong một cái ghế bành to màu tím, mặc áo choàng xanh da trời có tua dưới gấu, cổ áo và tay áo viền ren. Mớ tóc màu hạt dẻ buông xõa xuống vai như những làn sóng. Trông chị giống nữ thiên thần trước thánh đường. Chị ngả người vào lưng ghế, nhìn tôi bằng cặp mắt tròn xoe. Đầu tiên ánh mắt chị mang vẻ giận dữ, nhưng sau có vẻ ngạc nhiên. Chị khẽ mỉm cười.

Khi kể hết mọi điều, thấy dũng khí bỗng tiêu tan đâu mất cả, tôi bèn quay ra cửa, nhưng chị gọi tôi:

- Đứng lại đã!

Dằn tách xuống khay, chị quăng sách lên bàn, nắm bàn tay lại rồi thốt lên giọng nói âm vang của người lớn:

- Em thật là một đứa bé kì dị… Em lại gần đây!

Tôi thận trọng nhích vài bước. Chị nắm lấy tay tôi, vuốt ve chúng bằng những ngón tay nhỏ nhắn xinh đẹp rồi hỏi:

- Không ai bày cho em nói những chuyện đó với chị chứ? Thật chứ? Được rồi, được rồi, chị cũng biết như vậy. Chị tin rằng em đã tự nghĩ…

Buông tay tôi ra, chị nhắm mắt lại và chậm rãi nhẹ nhàng nói:

- Bọn lính bẩn thỉu nói như vậy đấy!

- Chị nên chuyển nhà đi chỗ khác mà ở. – Tôi khuyên chị, vẻ đường hoàng.

- Tại sao vậy?

- Họ sẽ làm khổ chị đấy.

Chị cười rất dễ thương, rồi hỏi tôi:

- Trước em có đi học chứ? Em có thích đọc sách không?

- Em chẳng có thì giờ nào mà đọc sách nữa.

- Nếu em đã thích thì khắc sẽ tìm được thì giờ. Thôi được, cảm ơn em nhé!

Chị đưa tay cho tôi, trong những ngón tay chúm lại đó có một đồng hai mươi kopek bằng bạc. Tôi thấy ngượng phải cầm đồng hào lạnh lẽo ấy, nhưng tôi không dám từ chối. Khi ra về, tôi để đồng hào đó lại trên đỉnh một cột cầu thang.

Người đàn bà đó đã cho tôi một ấn tượng sâu sắc và mới mẻ. Trước mắt tôi như tuyền một màu hồng của buổi bình minh. Suốt mấy ngày sau tôi sống trong niềm vui sướng mỗi khi hồi tưởng lại căn phòng rộng thênh thang và chị vợ anh thợ cắt mặc áo xanh da trời giống như một nữ thiên thần. Cảnh vật xung quanh đẹp một cách lạ lùng, tấm thảm lộng lẫy óng ánh vàng trải dưới chân chị; ánh sáng ngày đông lọt qua những tấm kính cửa sổ sáng như bạc đến sưởi ấm chị.

Tôi bỗng muốn được nhìn chị một lần nữa. Cứ thử đến mượn sách xem sao?

Tôi bèn làm như vậy và thấy chị vẫn ngồi chỗ cũ, vẫn với quyển sách trên tay, nhưng một bên má chị băng khăn mùi soa màu vàng và mắt chị sưng vù. Chị đưa cho tôi một quyển sách bìa đen, lí nhí những gì không rõ. Tôi buồn rầu mang quyển sách về. Quyển sách sực nức mùi creosote[64] và dầu hồi. Tôi quấn quyển sách bằng một cái áo sạch, lấy giấy bọc ngoài rồi giấu lên gác thượng vì sợ nhà chủ lấy hay làm hỏng mất.

Nhà chủ đặt tờ Niva cốt chỉ để lấy các mẫu cắt quần áo và tranh đạt giải thưởng. Họ không đọc, sau khi xem tranh ảnh trong tạp chí xong, họ xếp đống vào tủ trong phòng ngủ. Cuối năm, họ đóng bìa và giấu xuống gầm giường, chỗ vẫn để ba tập Bình luận về hội họa[65]. Khi tôi lau sàn phòng ngủ, nước bẩn chảy lênh láng bên dưới những quyển sách ấy. Cậu chủ đặt mua tờ báo Tin nhanh nước Nga[66] và chiều chiều, mỗi khi đọc báo lại chửi đổng:

- Có quỷ biết tại sao chúng nó lại viết những tin này! Chán quá chừng…

Thứ Bảy, khi đang phơi quần áo trên gác thượng, tôi sực nhớ tới quyển sách, bèn lấy nó ra, mở gói và đọc ngay dòng đầu tiên: “Nhà cửa cũng như con người, cái nào cũng có bộ mặt riêng.” Câu ấy đúng quá, làm tôi sửng sốt. Tôi bèn đứng bên ô cửa tò vò đọc tiếp, đọc cho đến khi khắp người lạnh cóng mới thôi. Buổi chiều, khi nhà chủ đi cầu nguyện ở nhà thờ, tôi mang sách xuống bếp, chúi đầu vào trang sách sờn rách úa vàng như lá mùa thu. Chúng dễ dàng đưa tôi tới một cuộc sống mới, giới thiệu cho tôi những tên người mới mẻ, những quan hệ mới mẻ, chỉ cho tôi các nhân vật đôn hậu, những kẻ tàn ác đen tối không giống những người tôi đã chán ngấy. Đó là cuốn tiểu thuyết của Xavier de Montepaine[67], dài như tất cả các truyện khác của ông, cuốn sách đầy nhân vật và sự việc, mô tả một cuộc sống mãnh liệt mà trước đây tôi chưa từng biết. Tất cả mọi sự việc trong truyện đều giản dị và rõ ràng lạ lùng, tựa như có một nguồn ánh sáng ẩn giữa các hàng chữ soi tỏ điều lành và điều dữ, giúp tôi biết yêu biết ghét và bắt tôi chăm chú theo dõi số phận những con người chen chúc trong đó. Đột nhiên tôi nảy ra ý muốn sôi nổi giúp đỡ người này, cản trở người khác, quên mất rằng cái cuộc sống mới hé mở đột ngột đó chỉ là chuyện bịa đặt trong sách vở. Suốt diễn biến của cuộc đấu tranh, tôi quên hết mọi chuyện, tâm hồn tràn ngập buồn rầu lật từng trang sách.

Tôi đọc mải mê đến nỗi khi nghe tiếng chuông réo ngoài cổng chính, tôi chưa hiểu được ngay là ai giật chuông và giật chuông để làm gì.

Ngọn nến cháy gần hết. Chân nến sáng nay tôi vừa lau chùi giờ đã nhoe nhoét mỡ. Cây đèn thờ mà tôi phải trông nom tụt bấc, tắt ngấm. Tôi chạy ngược chạy xuôi trong bếp, cố giấu mọi vết tích tội lỗi. Tôi nhét quyển sách vào hốc lò sưởi, loay hoay sửa cây đèn thờ. Mụ vú trong buồng nhảy vào quát tôi:

- Mày điếc sao? Chuông gọi kìa!

Tôi vội chạy ra mở cửa.

- Ngủ à? – Cậu chủ nghiêm khắc hỏi.

Vợ cậu vừa khệ nệ leo lên thang gác vừa than phiền rằng tôi đã làm mợ bị cảm lạnh, bà già cũng chửi mắng làu bàu. Vào tới bếp, bà trông thấy ngay những mẩu nến cháy và tra hỏi tôi ở nhà làm gì.

Tựa hồ bị rơi từ chín tầng mây xuống, tôi nín thinh, chân tay bủn rủn, sợ bà già tìm thấy quyển sách, nhưng bà ta chỉ kêu la rằng tôi sẽ đốt nhà mất.

Khi cậu chủ và mợ xuống ăn tối, bà lại phàn nàn:

- Đấy, chúng mày nhìn xem, nó đốt hết cả nến rồi, cả cái nhà này rồi nó cũng sẽ thiêu nốt…

Bốn người vừa ăn vừa đay nghiến tôi bằng đủ giọng lưỡi. Họ nhắc lại những lỗi lầm vô tình hay hữu ý của tôi và mang cái chết ra dọa tôi. Nhưng tôi biết họ nói tất cả những điều đó không phải vì ác tâm cũng không phải vì lòng thiện mà chỉ vì buồn chán. Thật là kì lạ khi thấy họ rỗng tuếch, lố bịch làm sao so với các nhân vật trong truyện.

Ăn uống xong, người nặng nề thêm, họ uể oải đi ngủ, mỗi người một nơi. Bà già, sau khi quấy rầy Chúa bằng những lời than phiền, leo lên lò và im tiếng. Khi đó tôi mới nhổm dậy, lôi quyển sách trong hốc lò ra và đến bên cửa sổ. Trời đêm trong sáng, ánh trăng chiếu thẳng vào cửa sổ, nhưng chữ nhỏ quá không sao đọc được. Mà lòng tôi háo hức muốn đọc sách quá. Tôi bèn lấy ở chạn một chiếc xanh đồng, thử dùng nó để phản chiếu ánh trăng lên trang sách, nhưng kết quả càng tệ hơn. Tôi trèo lên cái ghế kê ở góc nhà, chỗ có tượng thánh, và đứng trên ghế đọc dưới ánh sáng của ngọn đèn thờ. Đến lúc mệt quá, tôi ngồi xuống ghế và ngủ thiếp đi!

Tiếng bà già vừa réo vừa đập khiến tôi bừng tỉnh. Bà già cầm quyển sách trong tay, cứ thế quật mạnh vào vai tôi. Đi chân đất, mặc áo ngủ, bà thịnh nộ lắc lắc cái đầu hung hung, mặt đỏ bừng lên vì giận dữ. Cậu Viktor rền rĩ từ phía trên phản:

- Mẹ ơi, đừng có la ầm lên như vậy! Sống làm sao yên được…

“Thế là đi đời quyển sách, họ đến xé nát mất!” Tôi nghĩ thầm trong bụng.

Sau bữa trà sáng, mọi người “xét xử” tôi.

Cậu chủ nghiêm khắc hỏi:

- Mày lấy sách ở đâu ra?

Hai người đàn bà cũng hò hét, người nọ át lời người kia. Cậu Viktor ngửi những trang giấy với vẻ nghi ngờ:

- Có mùi nước hoa, thật đấy…

Khi nghe tôi nói quyển sách đó là của cha cố, cả bọn xem xét quyển sách một lần nữa, vừa ngạc nhiên vừa bất bình rằng sao cha cố lại đọc tiểu thuyết, nhưng dầu sao câu trả lời đó cũng khiến họ dịu xuống. Tuy nhiên cậu chủ vẫn nhắc đi nhắc lại với tôi rằng đọc sách là có hại và nguy hiểm.

- Đấy, cái bọn đọc sách báo ấy đã phá đường sắt, muốn giết…

Mợ chủ quát chồng, vẻ giận dữ và sợ hãi:

- Anh điên à! Anh nói cái gì vậy!

Tôi mang quyển truyện của Montepaine đến chỗ anh Sidorov và kể cho anh nghe đầu đuôi câu chuyện. Anh lính cầm quyển sách, lặng lẽ mở cái hòm con, lấy ra một chiếc khăn mặt sạch, bọc cuốn sách lại rồi cất vào hòm…

Anh bảo tôi:

- Em đừng nghe lời họ. Cứ đến nhà anh đọc sách, anh không nói cho ai biết đâu! Nếu em đến không thấy anh ở nhà thì cứ lấy chìa khóa treo sau tượng thánh, mở hòm lấy sách mà đọc…

Thái độ của chủ nhà đối với sách đã đề cao sách vở trong mắt tôi ngang với những bí mật quan trọng và khủng khiếp. Việc “những người đọc sách báo” phá đường sắt để giết ai đó không làm tôi bận tâm, tôi nhớ đến vị linh mục trong buổi xưng tội, đến việc đọc sách của người học sinh trung học dưới tầng hầm, đến những lời nói của bác Smouri về “những quyển sách đúng đắn”, và tôi nhớ cả đến mấy câu chuyện ông ngoại kể về các phù thủy biết sử dụng âm binh:

“Dưới triều vua Alexander Pavlovich Thái bình, một bọn quý tộc bị phù thủy lôi kéo đã âm mưu bán rẻ toàn dân Nga cho giáo hoàng La Mã, thật là bọn vô đạo! Tướng Arakcheev bắt quả tang bọn chúng, đày đi Siberia khổ sai, không kể chức tước, cấp bậc. Chúng chết mòn ở đấy như giống bọ xanh…”

Tôi nhớ đến câu “Umbracul sặc sỡ những tinh cầu”, đến “Gervase” và đến mấy câu trang trọng tới mức buồn cười:

“Bọn phàm tục tò mò muốn biết công việc của chúng ta!

Không bao giờ cặp mắt kém cỏi của các người thấy được!”

Tôi thấy như mình đang đứng trước ngưỡng cửa của những bí mật lớn lao và sống như người mất trí. Tôi muốn đọc hết quyển sách nhưng lại sợ nhỡ chẳng may quyển sách bị mất lúc cất ở nhà anh lính, hoặc vì lí do nào đó mà anh làm hỏng sách. Lúc bấy giờ tôi biết ăn nói với chị vợ anh thợ cắt ra sao?

Bà già vừa ráo riết theo dõi vừa nhiếc móc tôi:

- Con mọt sách! Sách vở chỉ dạy độc những điều phóng đãng. Đấy, con mẹ ấy cũng mải mê sách vở đến nỗi không thể nào đi chợ được, chỉ luẩn quẩn với bọn sĩ quan, tiếp chúng giữa ban ngày ban mặt, tao còn lạ gì!

Tôi muốn quát to lên: “Không đúng! Chị ấy không luẩn quẩn…”

Nhưng tôi sợ, không dám che chở cho chị vợ anh thợ cắt. Lỡ bà già thình lình đoán được quyển sách đó là của chị thì sao?

Suốt mấy ngày, tôi sống vô cùng khổ sở. Tôi vừa đãng trí, vừa buồn, vừa hoảng hốt; tôi không sao ngủ được vì lo lắng cho số phận của Montepaine. Cho đến một hôm, mụ bếp của chị vợ anh thợ cắt chặn tôi ngoài sân và bảo:

- Mang sách đến trả nhé!

Tôi chọn lúc ăn trưa xong, khi nhà chủ đã nằm nghỉ, đến nhà chị vợ anh thợ cắt, vẻ ngượng nghịu chán nản.

Chị tiếp tôi như lần đầu tôi gặp chị, chỉ có cách ăn mặc thì khác hẳn: Váy xám, áo cánh bằng nhung đen, thánh giá bằng ngọc xanh đeo trên cổ. Trông chị giống một con chim sơn tước mái.

Tôi nói với chị rằng tôi không kịp đọc hết quyển sách và người ta cấm tôi đọc sách. Tôi rưng rưng nước mắt, nửa tủi nửa mừng được trông thấy chị.

- Chà, cái bọn mới ngu xuẩn làm sao! – Chị nhíu cặp lông mày thanh tú. – Thế mà trông khuôn mặt cậu chủ em cũng có vẻ sáng sủa đấy chứ. Em đừng buồn, để chị nghĩ xem đã. Chị sẽ viết thư cho chủ em…

Nghe thế, tôi sợ quá. Tôi bảo chị rằng tôi đã nói dối nhà chủ là mượn sách của cha cố chứ không phải của chị.

- Không nên đâu, chị đừng viết! – Tôi nài nỉ. – Họ sẽ chế nhạo chị, sẽ nói chị không ra gì. Ở khu nhà này không có ai thích chị. Ai cũng chế giễu chị, họ nói rằng chị gàn và chị thiếu mất xương sườn…

Nói một mạch xong, tôi chợt nhận ra rằng mình đã nói với chị những điều vô ích và đáng bực mình. Chị cắn môi trên, vỗ tay vào hai bên hông như người cưỡi ngựa. Tôi ngượng nghịu cúi đầu, muốn chui xuống đất, nhưng chị ngả người trên ghế, cười khanh khách, nhắc đi nhắc lại:

- Ôi, ngu xuẩn… Ôi là ngu xuẩn! Nhưng biết làm thế nào? – Chị tự hỏi và chăm chú ngắm nghía tôi, sau đó thở dài và tiếp. – Em là một đứa bé kì dị, rất…

Tôi liếc mắt vào tấm gương đặt cạnh chị, thấy một khuôn mặt có cái mũi tẹt, hai gò má cao, một vết tím bầm to trên trán, mớ tóc lâu chưa cắt dựng tua tủa từng đám; đấy phải chăng là “một đứa bé kì dị”?…

“Đứa bé kì dị” đó chẳng giống cái hình dáng thanh tú như làm bằng sứ kia chút nào…

- Hôm trước em không lấy đồng tiền chị cho à? Tại sao vậy?

- Em không cần.

Chị thở dài.

- Biết làm thế nào được! Nếu người ta cho phép em đọc sách thì cứ đến, chị sẽ cho mượn sách…

Trên giá gương đặt ba quyển sách, quyển tôi mang đến là quyển dày nhất. Tôi buồn rầu nhìn nó. Chị chìa bàn tay xinh xinh ra cho tôi.

- Thôi, chào em nhé!

Tôi thận trọng chạm vào tay chị và đi rất nhanh khỏi phòng.

Người ta bảo chị chẳng hiểu gì hết, có lẽ cũng đúng. Đấy, đồng hai mươi kopek thì chị gọi là đồng tiền, cứ như là một đứa trẻ con vậy.

Nhưng điều đó khiến tôi càng mến chị…

Chú thích:

[1] Thần mặt trời của người Slav ngày xưa.

[2] Ngày hội đón mùa xuân.

[3] Một thứ nhựa cây dùng làm thuốc.

[4] Một loại tạp chí, tính chất như tờ Niva.

[5] Một tờ báo lưu hành rộng trong tầng lớp tiểu tư sản.

[6] Nhà văn Pháp sống ở thế kỉ XIX. Quyển sách đầu tiên mà chị vợ anh thợ cắt cho Gorky mượn là quyển Bi kịch của Paris.