← Quay lại trang sách

Chương 7

Ông bà ngoại lại rời ra thành phố ở. Tôi về nhà ông bà với tâm trạng bực bội và muốn gây gổ, trong lòng nặng trĩu. Vì sao người ta lại xem tôi là kẻ cắp?

Bà âu yếm đón tôi và đi đặt ngay ấm samovar. Ông hỏi tôi với vẻ giễu cợt như thường lệ:

- Có để dành được nhiều vàng không?

- Được bao nhiêu thì cũng đều là của cháu cả. – Tôi trả lời và ngồi xuống bên cửa sổ.

Trịnh trọng rút bao thuốc lá ra khỏi túi, tôi khệnh khạng châm lửa hút.

- Hừ. – Ông chăm chú quan sát những hành động của tôi. – Ra thế đấy. Mày đã hút cái thứ lá quỷ độc ấy rồi à? Có hơi sớm không?

- Người ta còn tặng cháu cả túi đựng thuốc nữa đây này. – Tôi khoe khoang.

- Túi đựng thuốc à! – Ông rít lên. – Sao, mày muốn nhạo tao phải không?

Ông xông về phía tôi, hai cánh tay xương xương nhưng cứng rắn vươn ra, cặp mắt xanh long lên sòng sọc. Tôi chồm dậy, húc đầu vào bụng ông. Ông ngã xuống sàn, miệng há hốc, mắt nhấp nháy vẻ kinh ngạc. Ông nhìn tôi đến mấy giây, những giây phút đó thật là nặng nề. Sau đó ông bình tĩnh hỏi:

- Mày húc ông mày đấy à? Húc bố đẻ ra mẹ mày đấy ư?

- Ông đã đánh cháu nhiều lắm rồi. – Tôi làu bàu, trong bụng biết rằng mình đã làm một việc rất không phải.

Ông đứng lên, người gầy guộc, mảnh khảnh. Ông tới bên cạnh tôi, nhanh nhẹn giằng lấy điếu thuốc ném ra ngoài cửa sổ rồi nói, giọng sợ hãi:

- Thằng ranh con mọi rợ, mày có hiểu rằng suốt đời mày Chúa sẽ không bao giờ tha thứ cho cái việc mày vừa làm đấy không? Bà nó ơi. – Ông quay về phía bà. – Bà thử xem, chính nó, nó đã đánh tôi đấy! Bà cứ hỏi nó mà xem!

Bà không hỏi han gì cả, đi lại túm lấy tóc tôi, vừa lắc vừa tuyên án:

- Cái tội ấy thì phải như thế này nó mới chừa…

Tôi không đau nhưng bực không thể chịu được. Tiếng cười gằn độc địa của ông càng làm tôi thêm bực tức. Ông nhảy nhót trên ghế, vỗ hai tay vào đầu gối, vừa cười vừa quàng quạc:

- Thế, cứ… thế…

Tôi vùng khỏi tay bà, bỏ chạy ra phòng ngoài. Nằm trong góc nhà nghe tiếng nước sôi reo, tôi thấy lòng thật nặng nề và trống trải.

Bà đến cạnh tôi, cúi xuống thì thào:

- Cháu đừng giận bà làm gì, bà kéo tóc cháu có đau đâu. Bà cố tình làm như vậy. Không còn cách nào khác. Ông cháu đã già rồi, phải kính trọng ông. Xương của ông cũng long gãy cả rồi; ông đã chịu biết bao đau khổ, cháu không nên chọc tức ông làm gì. Cháu đã lớn rồi, phải hiểu điều đó… Alyosha ạ, cháu cần hiểu rằng ông cũng như một đứa trẻ con mà thôi…

Lời nói của bà như dòng nước ấm nóng rửa sạch lòng tôi. Những tiếng thì thào thân mật đó khiến tôi vừa nhẹ nhõm, vừa hổ thẹn. Tôi ôm chặt lấy bà, hai bà cháu cùng hôn nhau.

- Cháu hãy lại với ông. Cứ đi đi, không sao đâu! Có điều là đừng có hút thuốc ngay trước mặt ông, phải để cho ông quen dần đã…

Tôi vào phòng, nhìn ông và suýt nữa phì cười: Ông tôi quả thực hớn hở như một đứa trẻ con, mặt mày tươi tỉnh, hai chân vung vẩy chạm vào nhau, bàn tay đầy lông màu hung gõ gõ trên mặt bàn.

- Thế nào hả con dê kia? Lại đến để húc nữa chăng? Mày thật là một thằng tướng cướp! Giống thằng bố mày như đúc! Thật là đồ vô lại, vào nhà chưa làm dấu thánh đã giở ngay thuốc ra hút. Hừ, quân Bonaparte[58], đồ chỉ đáng một xu nhỏ kia!

Tôi lặng thinh. Ông nói hết rồi cũng lặng yên, vẻ mệt mỏi. Nhưng đến lúc uống trà, ông lại bắt đầu dạy tôi:

- Người ta cần phải sợ Chúa như con ngựa cần dây cương vậy. Trừ Chúa ra không có ai là bạn của mình đâu! Người với người là kẻ thù tàn bạo nhất!

Tôi cảm thấy trong câu “Người với người là kẻ thù tàn bạo nhất” có phần nào sự thật, còn các câu khác đều không làm tôi động lòng.

- Bây giờ mày lại đến nhà bà dì Matryona mà ở. Bao giờ đến mùa xuân thì sẽ làm việc trên tàu thủy. Mùa đông ở nhà họ. Nhưng đừng có nói cho họ biết là mùa xuân mày sẽ đi đấy!…

- Chà, lừa dối người ta làm gì? – Bà nói sau khi vừa mới lừa ông bằng cách giả đánh tôi xong.

- Không lừa dối thì sống sao được. – Ông khăng khăng. – Bà thử nói xem có ai sống mà không lừa dối nào?

Buổi chiều, khi ông ngồi đọc Thánh thi, tôi và bà ra cổng, đi về phía cánh đồng. Căn nhà lụp xụp có hai cửa sổ của ông nằm ở ngoại ô thành phố, phía sau phố Kannatnaya, nơi ngày trước ông đã có một ngôi nhà ở đó.

- Đấy, chúng ta lạc mãi đến chỗ này đấy! – Bà giễu cợt. – Lão già không sao tìm được chỗ ở vừa ý, cứ rời hết chỗ này đến chỗ khác. Ở đây ông cháu cũng không thích, nhưng bà thì lại thích.

Trước mặt chúng tôi là một đồng cỏ xơ xác kéo dài đến ba versta, bị khe rãnh cắt ra thành nhiều mảnh, bao quanh bởi một đám rừng nhấp nhô và một hàng bạch dương ven đường cái đi Kazan. Từ dưới các khe rãnh nhô lên mấy cành cây như những chiếc roi. Ánh hoàng hôn lặng lẽ nhuộm các bụi cây thành một màu đỏ máu. Làn gió chiều nhẹ nhàng lay động thân cỏ khô xám. Phía sau khe gần nhất, bóng đen của đám nam nữ thanh niên tiểu thị dân lắc lư tựa những thân cỏ khô. Xa xa, phía bên phải, là bức tường màu đỏ của nghĩa địa những người cựu giáo mà người ta thường gọi là “tu viện Bugrovski”. Bên trái, trên miệng khe có một đám cây xanh thẫm từ phía cánh đồng nhô lên – nơi đó là nghĩa địa của những người Do Thái. Vạn vật nghèo nàn, thầm lặng nép mình xuống mảnh đất đầy thương tích. Những căn nhà nhỏ của ngoại ô thành phố dè dặt mở cửa sổ nhìn ra con đường đầy bụi. Mấy con gà mái nhỏ, gầy đói đi lang thang. Một đàn bò vừa đi vừa rống ầm ĩ bên cạnh nhà tu kín. Từ trại lính vẳng lại tiếng nhạc binh, tiếng kèn đồng đinh tai nhức óc.

Một người say vừa đi vừa kéo mạnh cây phong cầm. Gã ta vấp ngã và lẩm bẩm:

- Tao sẽ đi tới nhà mày… Nhất định…

- Thằng ngốc. – Bà tôi nhíu mày nhìn mặt trời đỏ lòm và nói. – Mày còn đi được tới đâu cơ chứ? Mày sắp ngã dúi bây giờ, rồi sẽ nằm đấy mà ngủ một giấc, trong khi đó thì người ta sẽ lột hết… Cả cây phong cầm, niềm vui của mày, rồi cũng sẽ mất nốt…

Tôi kể cho bà nghe cuộc sống trên tàu thủy rồi nhìn xung quanh. Sau những điều tôi đã từng trông thấy, cảnh vật ở đây khiến tôi buồn rầu, tôi thấy mình như con cá nằm trên chảo. Bà yên lặng, chăm chú lắng nghe, giống như tôi thường thích nghe bà nói. Khi tôi kể đến chuyện bác Smouri, bà làm dấu thật nhanh và nói:

- Đó là một người tốt, cầu Đức Mẹ che chở cho bác ta! Cháu đừng có quên bác ta nhé! Những điều gì tốt cháu cần phải luôn luôn ghi nhớ, còn điều gì xấu thì hãy quên đi…

Khó khăn lắm tôi mới kể được cho bà chuyện vì sao người ta đuổi tôi, tôi cố dằn lòng để nói ra. Câu chuyện đó chẳng khiến bà mảy may kinh ngạc, bà chỉ thờ ơ nhận xét:

- Cháu còn bé, cháu chưa biết sống…

- Đấy, ai cũng cứ bảo nhau là chưa biết sống: Từ những bần nông đến các thủy thủ, cả bà Matryona cũng nói với các cậu như vậy. Nhưng cần phải biết sống như thế nào mới được chứ?

Bà cắn môi, lắc đầu:

- Cái đó thì bà cũng chịu!

- Thế bà còn nói làm gì?

- Sao lại không nói? – Bà bình tĩnh đáp. – Cháu đừng bực mình, cháu đang còn nhỏ nên cháu chưa cần biết. Vả lại cũng có ai biết sống đâu? Có lẽ chỉ có bọn lừa đảo là biết. Đấy, ông cháu cũng là người thông minh, có học thức, vậy mà ông cũng đâu biết…

- Thế còn bà, bà sống có sung sướng không?…

- Bà ấy à? Sung sướng chứ! Và cả khổ sở nữa, thôi thì đủ thứ…

Bên cạnh chúng tôi, người qua lại thong thả, kéo theo những cái bóng dài, bụi dưới chân họ bốc lên như khói. Cảnh chiều buồn càng trở nên nặng nề. Từ cửa sổ, giọng càu nhàu của ông ngoại vẳng ra:

- “Lạy Chúa, xin Chúa hãy nguôi cơn thịnh nộ đối với con, xin Chúa tha thứ cho con…”

Bà mỉm cười:

- Chắc chắn là ông cháu làm Chúa đến chán ngấy! Chiều nào cũng rên rỉ, chẳng hiểu để làm gì? Ông cháu đã già lắm rồi, có cần gì nữa đâu, ấy thế mà vẫn cứ luôn luôn kêu ca than vãn… Chúa cứ nghe những lời cầu nguyện buổi chiều ắt sẽ mỉm cười và bảo: “Lại lão Vassili Kashmirin càu nhàu rồi!…” Thôi, bà cháu ta về đi ngủ…

* * *

Tôi quyết định đi bẫy những loài chim biết hót. Tôi thấy việc này có thể giúp nuôi sống hai bà cháu: Tôi bẫy chim còn bà thì mang chim đi bán.

Tôi mua lưới, vòng, bẫy và một lô lồng. Thế là từ mờ sáng tôi đã ngồi trong bụi cây dưới khe, còn bà thì mang lẵng và bị vào rừng kiếm nấm cuối mùa, quả kalina và quả hồ đào.

Mặt trời tháng Chín mỏi mệt vừa thức dậy. Những tia nắng trắng trẻo lúc thì nấp trong những đám mây, lúc thì rọi chiếu xuống đáy khe nơi tôi ngồi như một chiếc quạt bạc. Đáy khe mờ mờ tối, một màn sương mù trắng đục từ dưới đáy dâng lên. Một bên bờ khe bằng đất sét dốc đứng, trần trụi và đen sẫm. Bờ bên kia đỡ dốc hơn, bao phủ bởi những đám cỏ úa vàng và các bụi rậm đủ màu lá: vàng, hung hung, đỏ. Những luồng gió trong lành ngắt lá ném xuống khe.

Dưới đáy khe, mấy con chim oanh nhỏ hót vang trong các bụi ngưu bàng. Trong những đám cỏ dại nham nhở màu xám, thấp thoáng vài cái mào màu đỏ tươi trên những cái đầu linh lợi của đám chim. Đàn chim sẻ ngô tò mò ríu rít quanh tôi, phồng đôi má trắng lên kêu ầm ĩ và nhảy nhót lung tung một cách ngộ nghĩnh như đám thanh niên tiểu thị dân ở Kunavino trong ngày hội. Chúng nhanh nhẹn, láu lỉnh, dữ tợn, cái gì cũng muốn biết, muốn đụng tới và lần lượt con nọ tiếp con kia sa vào bẫy. Trông chúng lăn lộn vùng vẫy thật đáng thương, nhưng công việc là công việc, quan trọng chứ chẳng chơi. Tôi chuyển những con chim bẫy được sang các lồng dự trữ và trùm kín lồng: Trong bóng tối, lũ chim sẽ ngồi yên.

Một đàn chim yến đậu xuống bụi gai chan hòa ánh nắng. Những chú chim yến say sưa với ánh nắng, càng líu lo vui tợn. Điệu bộ của chúng giống như những chú học trò. Một con bách thiệt to tướng tham lam chưa kịp bay đến những miền ấm áp đậu trên cành hồng dại dẻo và lấy mỏ rỉa lông cánh. Đôi mắt đen láy của nó tìm mồi một cách tinh tường. Đôi sơn ca bay vụt lên cao, bắt được một chú ong đất, cẩn thận găm nó vào một cái gai rồi lại đậu yên một chỗ, cái đầu xám gian giảo đung đưa. Con chim ác là báo điềm lành bay ngang qua không một tiếng động. Nó là đối tượng của lòng ước muốn sôi nổi nhất của tôi. Tóm được nó thì thích biết nhường nào! Một chú sơn tước lạc bầy đậu trên cây trăn, lông đỏ chói, đường bệ như một ông tướng, vừa cáu kỉnh kêu ken két vừa lúc lắc cái mỏ đen.

Mặt trời càng lên cao, chim chóc càng nhiều và tiếng hót líu lo nghe càng rộn rã. Khắp khe vực tràn ngập điệu nhạc mà chủ âm là tiếng rì rào không ngớt của những bụi cây trong gió. Tiếng hót sôi nổi của đám chim không sao át được tiếng rì rào buồn dịu và êm đềm nghe như khúc hát từ biệt của mùa hè; nó thì thầm với tôi những lời thật đặc biệt, những lời đó cứ tự nhiên kết thành bài ca. Và đồng thời trí nhớ, bất chấp ý muốn của tôi, gợi lại bao cảnh tôi đã sống.

Từ phía trên, bà tôi gọi vẳng xuống:

- Cháu ở đâu đấy?

Bà ngồi trên miệng khe, trải tấm khăn vuông ra và đặt bánh mì, dưa chuột, củ cải, táo lên đấy. Giữa đám thức ăn ngon lành, một cái bình nhỏ nhiều mặt rất đẹp có chiếc nút pha lê hình đầu Napoleon óng ánh dưới ánh nắng. Trong bình có chừng hơn trăm gam rượu vodka ngâm rễ cây ban.

- Lạy Chúa, như thế này cũng là tốt rồi! – Bà tôi nói với vẻ biết ơn.

- Cháu vừa làm xong được một bài ca, bà ạ!

- Thật à? Đọc bà nghe!

Tôi liền đọc cho bà một bài từa tựa như thơ:

Mùa đông đã đến gần rồi,

Vĩnh biệt mùa hè nắng của tôi!…

Nhưng bà tôi chưa nghe hết đã ngắt lời:

- Có một bài ca giống như vậy, có điều hay hơn nhiều!

Và bà ngâm nga:

Nắng hè đã tắt trong đêm tối,

Và đã khuất sau rừng cây xa,

Riêng tôi đứng một mình thui thủi,

Niềm vui xuân trẻ đã vèo qua…

Buổi sáng tôi đi ra khỏi làng,

Nhớ lại những ngày vui chứa chan;

Đồng vắng giờ đây sao tẻ ngắt,

Như tuổi xuân tôi để nhỡ nhàng.

Chị em bạn gái mến thương ơi!

Chờ đến mùa đông giá tuyết rơi;

Hãy móc tim tôi ra khỏi ngực,

Và chôn trong đám tuyết giùm tôi!…

Lòng “tự ái nghề nghiệp” của tôi không bị tổn thương chút nào. Tôi rất thích bài hát ấy và rất thương người con gái trong bài hát.

Bà tôi nói:

- Đấy, nỗi đau khổ đã trở thành lời ca như vậy đấy! Một cô thanh nữ đã làm bài thơ ấy: Mùa xuân cô ta đi chơi với người yêu, nhưng đến mùa đông thì tình nhân của cô bỏ rơi cô, có thể là hắn đến với người con gái khác, thế là cô gái với trái tim đau khổ khóc than cho số phận của mình… Những điều mà ta không trải qua thì không sao nói lên được thật đúng, thật hay như thế. Cháu thấy đấy, cô ta đã đặt được một bài ca hay biết nhường nào!

Lần đầu tiên bán chim được bốn mươi kopek, bà rất ngạc nhiên.

- Lạ thật! Bà cứ tưởng đó là một việc vô ích, một trò nghịch ngợm trẻ con, ấy thế mà lại ra tiền chứ!

- Bà bán vẫn còn rẻ…

- Thật à?

Gặp phiên chợ, bà tôi bán được một rúp hoặc hơn. Bà luôn luôn ngạc nhiên không hiểu vì sao những việc vớ vẩn này lại có thể kiếm được nhiều tiền đến vậy!

- Bọn đàn bà cả ngày giặt quần áo hoặc lau sàn cũng chỉ được có hai mươi lăm kopek, thế mà ta kiếm được hàng rúp, có ai mà hiểu được chứ! Mà việc này có tử tế gì đâu! Nhốt chim vào lồng là không tốt. Alyosha ạ, cháu hãy bỏ cái trò này đi!

Nhưng thú bắt chim hấp dẫn tôi rất mãnh liệt. Tôi thích việc này vì tôi vừa được tự do vừa không làm ai phải khó chịu, trừ lũ chim ra. Tôi sắm sửa đủ loại lồng bẫy tốt. Các cuộc trò chuyện với những nhà bẫy chim lão luyện đã dạy tôi rất nhiều điều. Tôi đi bẫy chim một mình ở xa hàng ba chục versta trong khu rừng Kstovski, trên bờ sông Volga, nơi trong đám rừng thông cao có những loại chim mỏ chéo và chim sẻ ngô apollyon mình trắng đuôi dài có vẻ đẹp hiếm có được nhiều người yêu chim ưa chuộng.

Có khi tôi đi từ chiều và suốt đêm lần mò trên đường cái Kazan, đôi lúc lội giữa bùn sâu dưới những cơn mưa thu. Sau lưng tôi là một cái túi vải sờn, trong túi có lồng chim, bẫy và chim mồi. Tay tôi cầm một cây gậy to và chắc bằng gỗ hồ đào. Đêm thu tối mịt, lạnh lẽo và đáng sợ, sợ đến rợn người!… Những cây bạch dương già cỗi bị sét đánh đứng hai bên đường, vươn dài cành lá ẩm ướt. Bên trái, dưới chân núi, những đốm lửa thưa thớt trên những cây cột của mấy chiếc tàu thủy và sà lan cuối cùng trôi trên sông Volga đen ngòm tựa đang đi vào một vực sâu không đáy. Bánh xe đập nước ầm ĩ. Tiếng còi tàu rú lên ù ù.

Từ mặt đất đen sì hiện ra mấy căn nhà gỗ lụp xụp. Vài con chó đói gầm gừ xán đến. Người tuần canh gõ kẻng, sợ hãi kêu lên:

- Ai đi đấy? Đêm khuya thế này, quỷ bắt các người đi hay sao đấy?

Tôi sợ nhất là người ta sẽ tước mất đồ nghề của mình nên luôn mang theo những đồng năm kopek để đút lót bọn tuần canh. Bác tuần phu ở làng Fokino thân với tôi, luôn kêu lên:

- Lại chú mày đấy à? Chà, thật là một tay ăn sương gan dạ, không chịu ngồi yên đêm nào!

Tên bác là Nifon. Bác người nhỏ bé, tóc bạc, trông giống như một vị thánh. Bác thường móc trong áo ra một nắm đậu, một củ cải, một quả táo và vừa nhét vào tay tôi vừa nói:

- Cầm lấy, chú bé. Tao dự trữ cho chú mày ít quà đấy, ăn cho vui.

Bác tiễn tôi đến tận cuối làng:

- Thôi, cầu Chúa che chở cho cháu!

Hửng sáng thì tôi vào tới rừng. Sửa sang lồng bẫy, treo mồi lên xong, tôi nằm ngay ở cửa rừng chờ trời sáng. Cảnh vật tĩnh mịch như còn chìm trong giấc ngủ say sưa của mùa thu. Những đồng cỏ rộng dưới chân núi thấp thoáng sau màn đêm xam xám. Đồng cỏ bị dòng Volga cắt ngang, lan sang bờ bên kia, tản ra rồi tan biến trong lớp sương mù. Xa xa, sau khoảnh rừng phía đồng cỏ, trời hửng dần. Ánh hồng bừng sáng trên các đỉnh rừng đen hình răng lược, cảnh vật bỗng sinh động lên một cách kì lạ: Sương mù dâng trên đồng cỏ mỗi lúc một nhanh hơn, lóng lánh như bạc dưới ánh nắng mặt trời, tiếp theo đó, bụi rậm, cây cối, những đống cỏ khô cũng dần hiện ra. Những cánh đồng cỏ như tan ra dưới ánh mặt trời, bị ánh vàng rực quét lên, chảy lan ra khắp chốn. Kìa, mặt trời đã chạm được tới làn nước êm ả ven bờ sông. Cả con sông như dâng cao, dồn về phía mặt trời. Mặt trời lên mỗi lúc một cao, hân hoan chào mừng và sưởi ấm cho mặt đất xơ xác, cóng lạnh. Còn mặt đất thì tỏa nghi ngút hơi thu ngọt ngào. Lớp không khí trong suốt khiến đồng ruộng trông to hơn, rộng mênh mông không bờ không bến. Cảnh vật như bơi về xa xăm và lôi cuốn mình đi tới tận chân trời xanh thẳm. Tôi đã từng ngắm bình minh ở chốn này không biết bao nhiêu lần, vậy mà mỗi lần trước mắt tôi lại hiện ra một thế giới mới với một vẻ đẹp luôn tươi mới…

Tôi yêu mặt trời một cách khác thường. Tôi thích ngay chính tên gọi của nó, với những âm thanh ngọt ngào, với tiếng ngân huyền bí ẩn trong đó. Tôi ưa nhắm mắt lại và hứng những tia nắng nóng ấm trên mặt, ưa đưa bàn tay bắt một tia nắng như lưỡi gươm đang xuyên qua kẽ hàng rào hay qua đám cành lá. Ông ngoại rất thích quyển Ông hoàng Mikhail Chernigovski và Feodor, những kẻ không khuất phục mặt trời. Tôi hình dung họ là những kẻ du mục đen đủi, cau có, hung dữ, mắt luôn tèm nhèm như dân Moldova nghèo khổ. Khi mặt trời lên cao dần trên đồng cỏ, tôi tự dưng mỉm cười vui sướng.

Trên đầu tôi, rừng thông reo vi vút, rũ sương mai khỏi đám cành lá xanh. Dưới bóng cây, những hạt băng đọng vì hơi lạnh ban mai óng ánh như một tấm vóc thêu chỉ bạc trên đám lá lỗ chỗ của cây dương xỉ. Đám cỏ úa vàng bị những cơn mưa làm rạp xuống, nằm nghiêng bất động trên mặt đất. Nhưng khi có một tia nắng rọi tới, thân cỏ rung rinh như thể đó là những cố gắng cuối cùng của đời nó.

Chim chóc đã thức giấc. Những con sơn tước đen xám như những búp lông tơ rơi từ cành nọ xuống cành kia. Chim mỏ chéo đỏ như lửa mổ vụn quả trên đỉnh cây thông bằng cái mỏ khoằm, cuối một cành thông, con sẻ ngô apollyon trắng lắc lư, xòe mớ lông cánh dài, đôi mắt đen như hạt cườm liếc nhìn tấm lưới của tôi căng với vẻ nghi ngại. Và tự dưng, cả khu rừng vừa đây trầm ngâm là thế, oai nghiêm là thế bỗng vang lên trăm ngàn tiếng hót líu lo, tràn ngập những thanh âm ồn ào của các sinh vật trong sạch nhất trần gian; dựa vào hình ảnh của chúng mà con người – bậc thầy của sắc đẹp trần gian – đã tạo nên thần linh, thiên sứ và các thiên thần.

Tôi thấy thương thương những chú chim non khi bắt chúng và thấy ngượng với lương tâm khi nhốt chúng vào lồng. Tôi thích ngắm nghía chúng hơn. Nhưng lòng say mê săn bắt và ý muốn kiếm tiền đã lấn át cả tình thương.

Lũ chim làm tôi buồn cười vì vẻ ranh mãnh của chúng: Con sẻ lông cánh xanh da trời chăm chú xem xét tỉ mỉ cái bẫy, nó hiểu ngay sự nguy hiểm đang chờ đợi nó và nhảy sang bên cạnh lồng, mổ trộm các nan lồng mấy hạt lúa một cách khéo léo và yên ổn. Sẻ ngô là giống chim thông minh nhưng quá tò mò. Chính tính tò mò đã làm hại chúng. Mấy chú sơn tước bệ vệ thì ngốc nghếch: Chúng kéo hàng bầy vào lưới như đám tiểu thị dân no béo kéo nhau vào nhà thờ. Khi bị tôi tóm bắt, chúng rất ngạc nhiên. Chúng tròn xoe mắt mổ vào tay tôi bằng những cái mỏ to lớn. Chim mỏ chéo thì bước vào lồng bẫy với vẻ bình tĩnh, đường hoàng. Chim sittelle[59] bí ẩn, không giống loài chim nào cả, đậu rất lâu trước lưới, dựa lên cái đuôi to và lắc lắc cái mỏ dài. Nó chạy trên thân cây như chim gõ kiến và luôn có chim sẻ ngô bay kèm. Con chim màu khói đó mang vẻ gì thật đáng sợ; nó có vẻ cô độc, không chim nào ưa nó và nó cũng chẳng ưa con nào. Nó giống chim ác là, thích ăn trộm và thích giấu những vật nhỏ sáng lóng lánh.

Tôi bẫy chim đến trưa thì trở về bằng đường xuyên qua rừng, qua các cánh đồng. Nếu đi theo đường cái qua các làng thì sẽ bị bọn lỏi con, lỏi nhớn tước lồng, xé lưới và bẻ gãy mất bẫy – tôi đã từng có “kinh nghiệm”.

Chiều tối tôi mới về đến nhà, người mệt nhừ, đói cồn cào, nhưng thấy mình lớn hẳn lên sau những ngày qua, biết thêm được bao điều mới lạ và trở nên cứng cáp hơn. Sức mạnh mới đó đã cho tôi khả năng bình tĩnh chịu đựng mấy lời mỉa mai độc ác của ông ngoại. Ông cũng cảm thấy điều đó và bắt đầu trò chuyện cùng tôi với vẻ nghiêm chỉnh, thông minh:

- Cháu hãy bỏ cái trò vô bổ ấy đi, bỏ quách nó đi! Không ai có thể bán chim mà làm nên sự nghiệp, không có trường hợp nào như vậy đâu! Cháu hãy chọn cho mình một chỗ trong đời và trên cơ sở đó mà phát triển trí tuệ của cháu. Con người không chỉ sống vì những trò nhỏ mọn, con người là hạt giống của Chúa, phải đâm hoa kết quả. Con người cũng tựa như đồng rúp: Xoay xở cho khéo thì sẽ thành ngay ba rúp! Cháu tưởng rằng sống dễ dàng lắm hay sao? Không, không dễ một chút nào đâu! Thế giới đối với con người như đêm tối âm u, mỗi người phải tự soi sáng lấy cho mình. Ai cũng chỉ có mười ngón tay, nhưng người nào cũng muốn lấy được nhiều hơn kẻ khác. Phải có sức khỏe, nếu không khỏe thì phải láu cá. Kẻ nào đã nhỏ lại yếu thì khó mà lên thiên đường, cũng khó mà xuống địa ngục! Cháu hãy sống như tất cả mọi người, nhưng phải nhớ rằng cháu chỉ có một mình. Ai nói gì cũng nghe hết nhưng đừng có tin ai. Ước lượng bằng mắt thì không bao giờ đo được chính xác! Đừng có nói nhiều – người ta xây nhà dựng phố không phải bằng cái lưỡi mà bằng đồng rúp và cái rìu. Cháu không phải dân Kalmuck, cũng không phải là người Baskia, là những kẻ mà tất cả của cải của họ chỉ là cừu và rận…

Ông tôi có thể nói thế suốt cả tối, và tôi nhớ chúng đến thuộc lòng. Tôi thích những lời đó, nhưng không hoàn toàn tin tưởng vào ý nghĩa của chúng. Trong những câu nói của ông, tôi thấy rõ được một điều: Có hai lực lượng – Chúa và thế gian – ngăn cản con người sống theo ý mình.

Bà tôi ngồi bên cửa sổ, xe chỉ thêu đăng ten. Búp chỉ kêu vù vù trong hai bàn tay khéo léo của bà. Bà lặng yên nghe ông nói hồi lâu rồi bỗng cất tiếng:

- Tất cả mọi việc đều do Đức Mẹ sắp xếp cả rồi.

- Thế nào? – Ông tôi kêu lên. – Chúa à! Tôi không quên Chúa đâu, tôi biết Chúa như thế nào rồi! Mụ già ngu ngốc kia ơi, thế có phải Chúa đã cho lũ ngu xuẩn xuống trần gian này không?

* * *

… Tôi có cảm tưởng rằng người Cossack và binh lính là những kẻ sống sung sướng nhất trên trái đất này. Cuộc sống của họ thật giản dị và tươi vui. Những hôm tốt trời, họ tập trung ở phía sau vực trước nhà tôi từ sáng sớm, đứng rải rác như những cây nấm trắng trên cánh đồng trơ trụi rồi bắt đầu chơi một trò phức tạp và thú vị: Nhanh nhẹn, mạnh khỏe, áo sơ mi trắng, súng cầm tay, họ vui vẻ chạy trên cánh đồng, biến xuống vực rồi bỗng ùa ra cánh đồng theo tiếng gọi của chiếc kèn trận. Dưới nhịp trống thúc dữ dội, họ kêu “ura”[60] và chạy thẳng về phía nhà tôi, lưỡi lê tua tủa tựa như sắp phá trụi cả mặt đất, đâm nát ngôi nhà của chúng tôi như xới một đống cỏ khô.

Tôi cũng kêu “ura” và hăng hái chạy theo họ. Tiếng trống dồn thúc tôi thêm sôi nổi muốn đập phá, muốn đạp đổ hàng rào và đánh đấm bọn lỏi con.

Trong giờ nghỉ, mấy người lính mời tôi hút loại thuốc rẻ tiền, cho tôi xem mấy cây súng nặng nề, đôi lúc có người lại chĩa lưỡi lê vào bụng tôi và hét lên ra bộ hung dữ:

- Xiên chết con gián này!

Lưỡi lê sáng loáng, sinh động như một con rắn uốn mình muốn cắn tôi, tôi thấy hơi rờn rợn nhưng rất khoái.

Anh lính đánh trống, người Moldova, dạy tôi gõ dùi trên mặt trống. Đầu tiên anh túm chặt hai bàn tay tôi, khiến chúng mỏi nhừ, đau điếng, sau đó dúi đôi dùi trống vào những ngón tay đã rã rời.

- Gõ đi! Một, hây! Một, hây! Tram ta ta tam! Gõ vào mặt trống. Bên trái nhẹ, bên phải mạnh, tram ta ta tam! – Anh quát nghe phát khiếp, cặp mắt chim của anh trố ra.

Tôi chạy theo những người lính trên cánh đồng đến hết buổi tập rồi tiễn chân họ qua suốt cả thành phố cho tới trại lính mới thôi. Tôi vừa đi vừa nghe những bài hát vang vang, ngắm nghía những khuôn mặt hiền lành, tất cả đều còn mới mẻ tựa như những đồng năm kopek mới rập.

Khối người đồng nhất dày đặc vui vẻ trôi trên đường phố với một sức mạnh thống nhất ấy đã gây được thiện cảm, khiến ai cũng muốn hòa vào dòng người như trôi trên một dòng sông hoặc đi giữa một khu rừng. Những người đó không biết sợ là gì, họ đối diện với mọi sự một cách dũng cảm, họ có thể chiến thắng tất cả, họ có thể đạt được những điều họ muốn, và điểm quan trọng là tất cả bọn họ đều giản dị, hiền hậu.

Một hôm, trong giờ nghỉ, một hạ sĩ trẻ cho tôi một điếu thuốc to tướng và nói:

- Hút chơi! Loại thuốc này tao rất quý, tao không cho ai mấy khi, chỉ có chú mày ngoan tao mới cho đấy!

Tôi châm thuốc, hút. Viên hạ sĩ lùi lại một bước. Bỗng một luồng lửa đỏ lóe lên làm tôi mờ cả mắt và bị cháy sém tay, mũi, lông mày. Đám khói xám mằn mặn làm tôi hắt hơi và ho sặc sụa. Tôi sợ hãi nhắm tịt mắt, giậm chân, còn những người lính thì vây lấy tôi thành một vòng tròn dày đặc, vui vẻ cười hô hố. Tôi bỏ về, nhưng tiếng huýt sáo, tiếng cười vẫn đuổi theo tôi. Có cái gì quất vào tôi như roi của mục đồng. Những ngón tay bị bỏng nhức nhối, mặt ngứa ngáy, nước mắt trào ra, nhưng điều khiến tôi khổ tâm nhất không phải là sự đau đớn mà là nỗi kinh ngạc nặng nề, không hiểu sao người ta lại đối xử với tôi như vậy? Tại sao trò chơi khăm ấy lại làm cho đám thanh niên vốn hiền lành thích thú đến như thế?

Về tới nhà, tôi leo lên gác thượng, ngồi trên đấy rất lâu, hồi tưởng tất cả những điều tàn nhẫn không sao giải thích được mà tôi đã gặp rất nhiều lần trên đường đời. Hình ảnh sáng rõ và sinh động nhất mà tôi nhớ lại là hình ảnh anh lính nhỏ bé ở Sarapul. Anh đứng trước mặt và hỏi tôi:

- Thế nào? Mày đã hiểu chưa?

Nhưng sau đó ít lâu tôi còn phải chịu đựng một cảnh tượng nặng nề và quái gở hơn nữa.

Tôi hay chạy đến trại lính của những người Cossack ở gần xóm Pecherskaya. Những người Cossack này có vẻ khác hẳn mấy người lính, không phải vì họ cưỡi ngựa giỏi hơn và ăn mặc đẹp hơn, mà vì họ nói năng khác, hát những bài hát khác và nhảy múa rất đẹp. Có lần, vào buổi chiều, sau khi chải lông cho ngựa xong, họ quây lại thành một nhóm cạnh chuồng ngựa, rồi một anh chàng Cossack nhỏ bé tóc hung hất mớ tóc xõa lên, nhẹ nhàng vươn dài người ra và cất cao giọng ca như kèn đồng, cất tiếng hát một bài buồn thảm về sông Đông êm đềm, về dòng Danube xanh biếc. Anh như một chú chim cổ đỏ nhắm nghiền mắt hót và thường hót cho đến khi ngã từ cành cao xuống đất rồi chết. Cổ áo sơ mi không cài để lộ cặp xương quai xanh giống bộ hàm thiếc ngựa bằng đồng. Cơ thể anh cũng như được đúc bằng đồng. Anh lắc lư trên đôi chân dong dỏng, tựa hồ đất dưới chân anh bị chấn động, tay anh dang ra, mắt nhắm nghiền, giọng vang vang, hình như anh đã biến thành một chiếc kèn đồng hay cây sáo của người mục đồng. Đôi lúc tôi tưởng như anh sẽ ngã lộn nhào, lưng úp xuống đất, chết như một con chim cổ đỏ, vì anh đã dốc hết nghị lực và tâm hồn mình vào bài ca.

Bạn anh đứng vây quanh anh như một vòng hoa, tay đút túi hoặc chắp sau lưng, nghiêm nghị nhìn khuôn mặt như đồng của anh và theo dõi bàn tay anh bơi trong không khí. Họ hát trịnh trọng, bình tĩnh như trên bục nhà thờ. Trong giờ phút đó, tất cả bọn họ, người rậm râu lẫn không râu, giống như các pho tượng thánh: Họ mang vẻ nghiêm khắc và xa lạ khác hẳn những con người bình thường. Bài hát dài như một con đường thênh thang, bằng phẳng, mênh mông và sáng rõ làm sao. Khi nghe hát, tôi quên hết tất thảy, không rõ giờ là ngày hay đêm, mình là trẻ con hay đã thành ông lão!

Tiếng hát đã tắt, chỉ còn nghe thấy tiếng bầy ngựa thở dài, buồn nhớ cảnh tự do phóng khoáng của thảo nguyên, tiếng đêm thu đang chầm chậm lan tới từ đồng nội không gì ngăn cản được. Và trái tim thì cứ lớn mãi lên, như muốn vỡ tung ra vì tràn trề những nguồn cảm xúc phi thường, vì tình yêu vĩ đại và thầm lặng đối với con người, với trái đất.

Với tôi, anh chàng Cossack nhỏ bé và như được đúc bằng đồng kia không phải một con người bình thường, anh là một nhân vật siêu quần – một nhân vật thần thoại, tốt đẹp hơn, cao thượng hơn tất cả mọi người. Tôi không thể nào nói chuyện được với anh, khi anh hỏi tôi điều gì, tôi sung sướng mỉm cười và lúng túng lặng yên. Tôi sẵn sàng nín thinh và ngoan ngoãn như một con cún nhỏ đi theo anh chỉ cốt để trông thấy anh nhiều hơn và nghe anh hát.

Có lần, tôi thấy anh đứng trong xó chuồng ngựa, đưa tay lên ngắm nghía chiếc nhẫn trơn bằng bạc trên ngón tay. Đôi môi xinh đẹp của anh mấp máy, bộ ria mép ngắn hoe đỏ rung rung, khuôn mặt có vẻ buồn rầu, bực bội.

Một tối nọ, tôi xách lồng chim vào một quán ăn ở quảng trường Sennaya cũ. Người chủ quán vốn là một tay thích chơi loại chim hót và thường mua chim của tôi.

Anh Cossack ngồi trong góc quán, cạnh quầy đồ ăn, giữa lò sưởi và bức tường. Ngồi cạnh anh là một người đàn bà đẫy đà, to gần gấp đôi anh. Khuôn mặt tròn trĩnh của bà ta nhẵn bóng như miếng da dê thuộc. Bà nhìn anh bằng cặp mắt âu yếm hơi pha chút lo âu của người mẹ. Anh say mèm, đôi chân duỗi ra kéo lê trên sàn và có lẽ chạm mạnh vào chân người đàn bà nên bà ta giật mình, nhăn mặt và nhẹ nhàng nhắc:

- Đừng có vớ vẩn…

Anh Cossack cố nhướn lông mày nhưng chúng lại uể oải hạ xuống. Anh nóng quá, cởi cả cúc áo khoác lẫn cúc áo sơ mi, để hở cổ. Người đàn bà tụt khăn trùm đầu xuống vai rồi đặt hai cánh tay trắng trẻo, khỏe mạnh lên bàn, những ngón tay cấu vào nhau đỏ cả lên. Tôi càng nhìn họ kĩ bao nhiêu thì lại càng thấy họ giống đứa con có lỗi và người mẹ hiền từ bấy nhiêu. Người đàn bà nói với anh bằng một giọng âu yếm và trách móc, còn anh thì lúng túng yên lặng, không có cách gì đối đáp những lời quở mắng hợp tình hợp lí kia.

Bỗng nhiên anh đứng bật lên như bị kim châm. Anh chụp chiếc cát két xuống quá trán rồi lấy lòng bàn tay đập đập mũ. Không cài áo, anh đi ra cửa. Người đàn bà cũng đứng dậy, nói với chủ quán:

- Chúng tôi sẽ trở lại ngay, bác Kuzmits ạ…

Mọi người tiễn chân họ bằng những chuỗi cười và những câu đùa. Một người thốt lên, giọng oang oang và nghiêm khắc:

- Lão hoa tiêu mà trở về thì nó sẽ cho mụ một trận!

Tôi theo sau hai người. Họ đi trước tôi chừng mười bước. Trong bóng đêm, họ đi xiên qua quảng trường lầy lội về phía bờ dốc cao của sông Volga. Tôi trông thấy người đàn bà vừa đỡ anh chàng Cossack vừa bước lắc lư, nghe thấy tiếng bùn kêu lép nhép dưới chân họ. Người đàn bà khẽ hỏi anh, giọng van xin:

- Anh đi đâu thế? Hở, còn đi đâu nữa?

Tôi lội bùn theo họ mặc dù ngược đường về. Khi tới lề đường bên bờ dốc, anh Cossack dừng lại, lùi xa người đàn bà một bước rồi thình lình thụi vào mặt bà ta. Người đàn bà kêu lên, vẻ ngạc nhiên và sợ hãi:

- Ối, sao lại như vậy?

Tôi kinh hoàng, chạy đến gần. Anh Cossack ôm ngang lưng người đàn bà, quăng bà ta qua lan can xuống sườn dốc rồi nhảy theo. Cả hai lăn trên lớp cỏ của sườn dốc như hai bao cát đen sì. Tôi rụng rời tay chân, đứng yên không nhúc nhích, nghe tiếng váy áo bị xé soàn soạt, tiếng anh Cossack gầm gừ và tiếng lắp bắp trầm trầm, đứt quãng của người đàn bà:

- Tôi kêu lên bây giờ… Tôi kêu…

Bà ta kêu một tiếng thật to và đau đớn, rồi không gian bỗng trở nên yên lặng. Tôi quờ quạng, tìm được một hòn đá, ném xuống. Có tiếng cỏ lào xào. Trên quảng trường vang lên tiếng đập cửa kính ở một quán rượu. Ai đó kêu khe khẽ, có lẽ là bị vấp ngã. Rồi sự yên lặng đầy đe dọa trở lại.

Dưới chân dốc bỗng hiện ra cục gì to và trắng. Nó vừa nức nở vừa thở phì phò, chập chững, chậm chạp tiến dần lên. Tôi nhận ra người đàn bà. Bà ta bò bằng hai chân và hai tay, trông như một con cừu. Bà ta trần đến thắt lưng, hai vú to lủng lẳng, trông bà tựa như có ba gương mặt. Cuối cùng bà ta cũng lên được tới lan can, ngồi thụp xuống cạnh tôi. Bà thở hổn hển như một con ngựa bị quần mệt nhừ, sửa lại mớ tóc rối bù. Trên tấm thân trắng nõn, trông rõ mấy vệt bùn đen kịt. Bà ngồi khóc, chùi nước mắt trên má như một con mèo ngồi rửa mặt. Trông thấy tôi, bà kêu khe khẽ:

- Trời ơi, ai đấy? Đi đi, rõ dơ!

Tôi không thể bước nổi. Sửng sốt vì ngạc nhiên, vì cay đắng, tê tái, tôi nhớ đến câu nói của bà dì Matryona:

“Đàn bà là sức mạnh. Eva còn lừa dối cả Chúa nữa đấy…”

Người đàn bà đứng dậy, lấy những mảnh váy che ngực, để hở chân và vội vã bỏ đi. Phía dưới chân dốc, anh chàng Cossack xuất hiện, vẫy vẫy mấy mảnh vải rách màu trắng trong không khí. Anh khẽ huýt sáo, lắng nghe một lúc rồi cất giọng vui vẻ:

- Darya ơi! Sao thế? Bọn Cossack này bao giờ cũng kiếm chác được những thứ cần thiết… Em tưởng anh say rượu hay sao? Không đâu, đây là anh vờ vĩnh với em thôi… Darya ơi!

Anh ta đứng vững vàng, giọng giễu cợt, không có vẻ gì là say rượu cả. Anh khom lưng, lấy những mảnh giẻ lau ủng:

- Này, cầm lấy áo… Dashka[61] ơi! Thôi đừng có uốn éo nữa…

Và anh văng một câu tục tĩu thật to với người đàn bà.

Tôi ngồi trên đống đá dăm, nghe thấy giọng nói đó thật đơn độc trong màn đêm tịch mịch và cũng thật hách dịch quá chừng.

Những đốm lửa trong những chiếc đèn lồng trên quảng trường nhảy nhót trước mắt tôi. Bên phải, trường cao đẳng dành cho các tiểu thư quý phái quét vôi trắng nổi bật giữa đám cây cối đen sì. Anh Cossack vừa uể oải tuôn ra hàng tràng những tiếng tục tằn vừa bước trên quảng trường, tay vẫy vẫy mảnh giẻ trắng. Cuối cùng anh biến mất như một giấc mộng dữ.

Dưới chân dốc, ống thoát đang phụt hơi ở trạm bơm. Trên bến sông, một cỗ xe ngựa đang chạy. Xung quanh vắng vẻ không một bóng người. Tôi đi ven bờ dốc, người mụ mị, tay vẫn nắm chặt hòn đá lạnh giá mà tôi không kịp ném vào người anh chàng Cossack. Đến gần nhà thờ Thánh Georgiy, tôi bị một người tuần đêm ngăn lại. Bác ta giận dữ hỏi tôi là ai và mang gì trong cái bị sau lưng.

Tôi kể cho bác nghe tỉ mỉ về anh chàng Cossack. Bác cười hô hố, hét lên:

- Tài quá nhỉ! Chú mày ạ, bọn Cossack vốn là dân sành sỏi, họ không như chúng ta đâu. Còn mụ kia thì thật là đồ chó đẻ.

Bác ta cười rũ rượi, còn tôi thì tiếp tục đi, băn khoăn không hiểu bác ta cười gì.

Và tôi bỗng kinh hoảng nghĩ: Nếu việc này cũng xảy ra với mẹ tôi, với bà tôi thì sẽ ra sao?

Chú thích:

[1] Họ của Napoleon. Sau khi quân Pháp do Napoléon dẫn đầu xâm chiếm nước Nga, người Nga dùng chữ Bonaparte để chửi rủa.

[2] Một giống chim tước.

[3] Xung phong.

[4] Tức Darya, cách gọi thân mật.