← Quay lại trang sách

Chương 10

Ngay từ hồi chị vợ anh thợ cắt chưa rời đi, căn phòng phía dưới nhà cậu chủ đã có một thiếu phụ mắt đen đến thuê. Bà đi cùng đứa con gái nhỏ và người mẹ già cả tóc bạc phơ lúc nào cũng hút thuốc lá bằng cái tẩu hổ phách. Thiếu phụ rất đẹp, trông có vẻ quyền thế, kiêu hãnh. Giọng bà âm vang, dễ nghe. Bà thường cụp mắt nhìn mọi người, mí mắt hơi nheo, như thể người ta đứng cách bà quá xa và bà không trông rõ họ. Hầu như ngày nào anh lính đen đúa Chulpayev cũng dắt con ngựa lông hung hung chân nhỏ đến trước hiên nhà bà. Thiếu phụ bước ra hiên. Bà mặc áo nhung dài màu thép, tay đeo găng trắng, chân đi ủng vàng. Một tay cầm vạt áo và cái roi ngựa cán nạm mặt đá tím, tay kia bà âu yếm vuốt ve cái mõm ngựa đang há to. Con ngựa liếc bà bằng con mắt đỏ như lửa: Người nó rung lên bần bật, nó khẽ dập móng xuống mặt đất đã bị giẫm nát.

- Robaire. Ro…obaire. – Bà khẽ nói và vỗ mạnh vào cái cổ vươn thẳng rất đẹp của con ngựa.

Rồi đặt chân lên đầu gối anh Chulpayev, bà nhảy rất gọn lên yên ngựa. Con ngựa kiêu hãnh phi nước kiệu trên mặt đường. Bà ngồi rất khéo trên yên, tựa như người và ngựa gắn liền.

Thiếu phụ có một sắc đẹp hiếm có, vẻ đẹp tươi tắn khiến ta bồi hồi và làm hồn ta tràn ngập niềm vui sướng say sưa. Nhìn bà, tôi ngỡ rằng đó chính là hình ảnh của Diana Poitiers, của nữ hoàng Margot, của cô La Valliere và những nữ nhân vật điển hình khác trong các cuốn tiểu thuyết lịch sử![91]

Đám sĩ quan của sư đoàn đóng trong thành phố lúc nào cũng quẩn quanh bà. Tối tối, họ chơi dương cầm, vĩ cầm, ghi ta, khiêu vũ và ca hát ở nhà bà. Bám sát bà nhất là ông thiếu tá Olessov. Ông ta có đôi chân ngắn cũn cỡn, người to béo, tóc đốm bạc, mặt đỏ gay và nhầy mỡ, hệt như anh thợ máy trên tàu thủy. Ông chơi đàn ghi ta rất hay. Ông có vẻ giống người đầy tớ trung thành và ngoan ngoãn của thiếu phụ.

Đứa con gái nhỏ năm tuổi tóc quăn, mũm mĩm, cũng đẹp lộng lẫy như mẹ. Cặp mắt xanh to của cô bé có vẻ nghiêm trang, điềm tĩnh chờ đợi. Dáng điệu cô bé có một vẻ chín chắn người lớn.

Người bà thì từ sáng đến tối bận rộn công việc nội trợ với anh Chulpayev lầm lì, cau có và người hầu gái to béo mắt hiếng. Cô bé không có vú nuôi. Nó hầu như không có ai săn sóc, suốt ngày chơi ngoài hiên hay trên đống gỗ. Chiều chiều, tôi đến chơi với nó và thấy rất mến con bé ấy. Nó cũng rất chóng quen tôi. Khi tôi kể chuyện cổ tích, nó nằm ngủ thiếp trên tay tôi. Khi nó ngủ, tôi bế nó vào giường. Chẳng bao lâu nó quen tôi đến nỗi trước khi ngủ thế nào cũng đòi cho được tôi đến chia tay. Khi tôi đến, nó trịnh trọng duỗi bàn tay mũm mĩm ra cho tôi:

- Chào anh, ngày mai lại gặp nhé! Bà ơi, phải nói thế nào hở bà?

- Cầu Chúa che chở cho anh. – Người bà vừa nói vừa thở phào luồng khói xám ra khỏi miệng và cái mũi nhọn.

- Cầu Chúa che chở cho anh đến ngày mai nhé, còn em thì đi ngủ đây. – Cô bé nhắc lại rồi chui vào cái chăn viền đăng ten.

Người bà khuyên:

- Không phải “đến ngày mai” mà là “mãi mãi” chứ!

- Nhưng ngày mai vẫn là mãi mãi cơ mà, hở bà?

Nó thích dùng từ “ngày mai”, và những gì nó thích đều được chuyển về thì tương lai cả. Khi cắm xuống đất những bông hoa và cành gãy, nó nói:

- Ngày mai đây sẽ là một vườn hoa…

- Ngày mai em cũng sẽ mua một coong ngựa và em sẽ cưỡi lêêng trêêng như mẹ em ấy…

Nó rất thông minh, nhưng không vui vẻ lắm. Nhiều lúc đang chơi đùa ầm ĩ bỗng nhiên nó trầm ngâm suy nghĩ và độp hỏi:

- Tại sao cố đạo lại để tóc dài như đaàng bà nhỉ?

Khi bị gai làm sây sát, nó chỉ tay vào cây, dọa:

- Mày liệu hôồng đấy, tao sẽ cầu Chúa để Chúa phaạc mày. Ai Chúa cũng có thể phaạc được cả. Đến cả mẹ cũng bị Chúa phaạc đấy…

Đôi lúc khuôn mặt nó trở nên trầm lặng, phảng phất vẻ buồn nghiêm trang. Nó nép vào người tôi, nhìn bầu trời với cặp mắt xanh như chờ đợi và nói:

- Bà còn có lúc cáu giậng, chứ mẹ thì không bao giờ giậng đâu. Mẹ chỉ cười thôi. Ai cũng yê…êu mẹ cả và lúc nào mẹ cũng bậng cả. Khách đến nhiều nhiều là, ai cũng thích ngắm mẹ vì mẹ đẹẹp lắm. Mẹ đáng yê…êu lắm. Bác Olessov cũng nói thế.

Tôi rất thích nghe con bé nói chuyện. Nó kể cho tôi chuyện về cái thế giới rất xa lạ với tôi. Nó luôn kể về mẹ với vẻ sốt sắng, nói mãi không hết chuyện. Một cuộc sống mới êm đềm mở ra trước mắt tôi, tôi nhớ đến nữ hoàng Margot: Điều đó càng tăng thêm sự tin tưởng vào sách vở cũng như lòng thiết tha với cuộc sống của tôi.

Một buổi chiều, tôi đang ngồi ngoài hiên chờ nhà chủ đi chơi về, và con bé đang thiu thiu ngủ trên tay tôi, thì mẹ nó cưỡi ngựa về. Bà nhẹ nhàng nhảy xuống đất, hất đầu hỏi tôi:

- Sao? Nó ngủ rồi à?

- Vâng.

- Ra thế đấy…

Anh lính Chulpayev chạy tới dẫn ngựa đi. Thiếu phụ giắt roi vào thắt lưng, chìa tay ra:

- Cháu đưa nó cho bác!

- Bác để cháu bế em vào nhà cho!

- Nào!… – Thiếu phụ quát tôi như quát con ngựa của bà, chân bà giậm lên bậc tam cấp.

Con bé sực tỉnh, hấp háy mắt nhìn mẹ và cũng vươn tay ra. Hai mẹ con vào nhà.

Tôi đã quen với việc người ta quát mắng, nhưng thật khó chịu khi thấy thiếu phụ cũng quát như vậy. Ai mà chẳng nghe lời bà, dù bà chỉ khẽ ra lệnh thôi.

Sau đó vài phút chị hầu gái mắt hiếng chạy đến gọi tôi: Con bé làm nũng không chịu đi ngủ nếu chưa được tôi chúc ngon giấc.

Tôi bước vào phòng khách, không khỏi có phần kiêu hãnh trước người mẹ. Con bé ngồi trong lòng mẹ, bà mẹ khéo léo nhẹ nhàng cởi áo cho nó.

- Đấy. – Bà nói. – Cái thằng bé kì quặc ấy nó đến rồi đấy!

- Không phải là thằng bé kì quặc mà là baạng của con…

- Ra thế đấy! Được, tốt lắm. Chúng ta sẽ tặng cậu bạn của con một món quà nhé. Con có muốn như thế không?

- Có, có!

- Được rồi, mẹ sẽ tặng cho nó. Còn con thì đi ngủ nhé.

- Chào anh, đến ngày mai lại gặp nhé! – Con bé vừa chìa tay cho tôi vừa nói. – Cầu Chúa che chở cho anh đến ngày mai…

Thiếu phụ ngạc nhiên:

- Ai dạy con như vậy đấy, bà phải không?

- Vâ…âng.

Khi nó ra khỏi phòng, thiếu phụ vẫy tay gọi tôi.

- Tặng cháu cái gì được đây?

Tôi nói rằng tôi chẳng cần gì cả, nhưng nếu bà có quyển sách nào cho tôi mượn để đọc thì thật tốt.

Thiếu phụ nâng cằm tôi bằng những ngón tay thơm tho nóng hổi, hỏi tôi với một nụ cười dịu dàng:

- Ra thế đấy, cháu thích đọc sách à? Cháu đã đọc những quyển gì rồi?

Khi cười trông bà càng đẹp hơn. Tôi lúng túng liệt kê vài tên sách.

- Cháu thích những gì trong các sách ấy? – Bà hỏi tôi, tay để trên bàn, ngón tay khe khẽ động đậy.

Người bà tỏa hương hoa thơm vừa đậm vừa dịu dàng, hòa lẫn một cách lạ thường với mùi mồ hôi ngựa. Thiếu phụ trầm ngâm và nghiêm trang nhìn tôi qua hàng mi dài – xưa nay chưa ai nhìn tôi như vậy cả.

Căn phòng ngổn ngang bàn ghế đẹp có nệm, hẹp lại giống một tổ chim. Các cửa sổ được che bằng màu xanh thẫm của hoa lá. Những tấm gạch tráng men trắng như tuyết trên lò sưởi lấp lánh trong bóng tối; cây dương cầm đen đặt bên cạnh cũng phản chiếu ánh sáng, óng ánh. Trên tường, trong mấy cái khung mạ vàng nhợt nhạt có những tấm bằng khen sẫm màu in đầy những chữ Slav to, dưới mỗi tấm có treo một cái ấn lớn màu đen lủng lẳng ở đầu một sợi dây. Tất cả những món đồ vật ấy đều nhìn thiếu phụ với một vẻ phục tùng và nhút nhát, y như tôi vậy.

Tôi cố cắt nghĩa cho bà hiểu rằng cuộc sống của tôi rất nặng nề, buồn tẻ, tôi đọc sách là để quên đi những điều đó.

- À, ra thế đấy! – Bà đứng dậy. – Cháu nói cũng có lí, cũng đúng đấy… Nào, chúng ta sẽ làm gì đây? Bác sẽ cho cháu mượn sách, nhưng bây giờ bác chưa có… Thôi được, cháu lấy tạm quyển này nhé…

Bà với quyển sách bìa vàng đã sờn nát trên đi văng.

- Cháu đọc xong, bác sẽ cho mượn tập hai. Tất cả có bốn tập…

Tôi ra về, mang theo cuốn Những bí mật ở Peterburg của công tước Meshtcheski và bắt đầu đọc rất chăm chú. Nhưng ngay từ những trang đầu tôi đã thấy “những bí mật” ở kinh thành Peterburg có phần nhạt nhẽo hơn “những bí mật” ở Madrid, London hay Paris nhiều. Chỉ có bài ngụ ngôn về Tự Do và Chiếc Gậy là làm tôi thích thú.

“Tao hơn mày.” Tự Do nói “Vì tao thông minh hơn.”

Nhưng Chiếc Gậy trả lời: “Không, tao hơn mày, vì tao mạnh hơn mày.”

Hai bên cãi nhau mãi, cãi nhau mãi, sau cùng chúng đánh nhau. Chiếc Gậy đánh quỵ Tự Do, còn Tự Do thì tôi nhớ là đâu như chết trong nhà thương vì bị đánh dữ quá.

Trong quyển sách có đoạn nói về người vô thần. Tôi còn nhớ công tước Meshtcheski cho rằng người theo chủ nghĩa vô thần là loại người độc ác đến mức độ anh ta nhìn gà thì gà chết. Tôi thấy chữ “vô thần” hơi thô lỗ, dễ gây cảm giác khó chịu, nhưng tôi không hiểu được gì hơn, đâm ra buồn nản. Tất nhiên tôi không biết đánh giá sách hay sách dở, tôi tin chắc đây là một cuốn hay, vì chả nhẽ thiếu phụ đường bệ và xinh đẹp như thế kia lại đi đọc loại sách tồi hay sao?

- Thế nào, cháu có thích không? – Thiếu phụ hỏi tôi khi tôi trả bà quyển tiểu thuyết bìa vàng của Meshtcheski.

Tôi trả lời “không” một cách khó khăn, tôi sợ rằng điều đó sẽ làm bà tức giận.

Nhưng bà chỉ cười to, tới sau rèm cửa phòng ngủ, mang lại một cuốn sách nhỏ bìa da dê thuộc màu xanh.

- Quyển này hẳn cháu sẽ thích, nhưng cháu đừng làm bẩn nhé!

Đó là tập thơ của Puskin. Tôi đọc một hơi tất cả những bài thơ đó, lòng tràn ngập cảm giác khát khao như người may mắn bước lạc vào một chốn đẹp chưa từng thấy, muốn chạy khắp nơi để xem, để ngắm. Đó cũng là cảm giác sau khi ta đi rất lâu trên những mỏm đất đầy rêu trong khu rừng lầy bỗng nhiên thấy hiện ra trước mắt bãi cỏ khô ráo, đầy hoa và tràn ngập ánh nắng. Ta đứng lại, sững sờ trong phút giây, rồi hớn hở tung tăng chạy khắp nơi: Mỗi một lần chân ta chạm vào lớp cỏ mềm mại trên miếng đất màu mỡ là một lần lòng ta rung lên niềm vui khôn tả.

Vẻ giản dị và nhạc điệu trong thơ Puskin khiến tôi ngạc nhiên đến độ suốt một thời gian dài, với tôi văn xuôi trở nên giả tạo, đọc lên không thấy tự nhiên chút nào. Phần mở đầu của tập thơ Ruslan gợi tôi liên tưởng đến những chuyện cổ tích hay nhất của bà được cô đọng thành một khối. Có những dòng thơ làm tôi quá đỗi kinh ngạc bởi sự thẳng thắn ấn tượng.

Nơi kia trên những đường hoang vắng

Có dấu chân thú dữ dị kì.

Tôi thầm nhắc đi nhắc lại mãi câu thơ tuyệt diệu đó trong óc, và tôi nhìn thấy hình ảnh những con đường mòn hẻo lánh quen thuộc, nhìn thấy những dấu vết bí ẩn làm nhàu nát lớp cỏ còn trĩu những giọt sương long lanh như thủy ngân. Những dòng thơ âm vang, dễ nhớ một cách lạ lùng: Chúng tô thắm những gì chúng gợi lên. Tôi sung sướng vô cùng, cuộc sống của tôi trở nên nhẹ nhàng dễ chịu. Những lời thơ vang lên như những tiếng chuông báo hiệu một cuộc đời mới. Hạnh phúc biết bao khi mình biết đọc, biết viết!

Những chuyện cổ tích tuyệt mĩ của Puskin dễ hiểu và gần gũi hơn cả. Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần và đã thuộc lòng. Lên giường, tôi vẫn nhắm mắt đọc thì thầm những câu thơ cho đến khi thiếp đi. Đôi khi tôi kể những chuyện ấy cho mấy người lính cần vụ. Họ nghe, vừa cười ha hả vừa văng tục không chút ác ý. Anh Sidorov vò đầu tôi, khẽ nói:

- Chà, lạy Chúa, thật là tuyệt!

Những người trong nhà nhận ra tôi đang sống trong trạng thái khích động. Bà chủ già chửi tôi:

- Cái thằng chết giẫm ấy suốt ngày chúi đầu vào sách! Còn cái ấm samovar đã bốn ngày chưa chùi đấy! Tao mà vớ được một cái gậy [92] thì cứ gọi là…

Cái gì? Gậy à? Tôi bèn dùng mấy câu thơ giễu bà:

Tâm hồn đen tối xấu xa.

Mụ già phù thủy chỉ ưa oán thù…[93]

Tôi càng thêm ngưỡng mộ thiếu phụ. Đấy, bà đã đọc những quyển sách như vậy đấy! Đâu có như chị vợ giống pho tượng sứ của anh thợ cắt kia!…

Khi tôi mang quyển sách đến nhà thiếu phụ, bùi ngùi đưa trả, bà nói với tôi, giọng đầy tin tưởng:

- Cháu đọc thích chứ? Cháu đã nghe nói về Puskin chưa?

Tôi đã đọc một bài về cuộc đời thi sĩ trên một tờ tạp chí nhưng muốn được chính bà kể cho nghe nên tôi bảo tôi không biết gì cả.

Sau khi kể vắn tắt về cuộc đời và cái chết của Puskin, bà mỉm cười, tươi như một ngày xuân:

- Yêu đàn bà nguy hiểm như thế đấy, cháu thấy chưa?

Qua những cuốn sách đã đọc, tôi cũng biết tình yêu quả thực là một điều nguy hiểm, nhưng cũng là một điều vui sướng nữa. Tôi nói:

- Nguy hiểm thật đấy, nhưng mà người ta vẫn cứ yêu! Ngay cả phụ nữ cũng đau khổ vì tình yêu cơ mà…

Qua lớp lông mi, đôi mắt thiếu phụ lướt qua tôi như cách bà vẫn nhìn những người khác. Bà nghiêm trang:

- Ra thế đấy! Cháu biết điều ấy à? Vậy thì bác cũng mong cho cháu đừng quên điều ấy!

Rồi bà bắt đầu hỏi tôi thích những bài thơ nào.

Tôi trả lời câu được câu chăng, vừa giơ tay làm điệu bộ, vừa đọc thuộc lòng những bài thơ. Bà yên lặng, chăm chú nghe tôi, rồi đứng lên, đi đi lại lại trong phòng, trầm ngâm:

- Con quỷ đáng yêu này, cháu phải đi học mới được! Bác sẽ chú ý đến việc này… Chủ nhà có họ với cháu phải không?

Khi tôi nói “vâng”, bà thốt lên:

- Ồ! – Tựa như muốn chê trách tôi.

Bà cho tôi mượn tập Thi ca của Beranger[94] in rất đẹp kèm những bản vẽ khắc, cạnh vàng, bìa da đỏ. Tôi như mê mẩn trong mối buồn đau gắn chặt một cách lạ kì với niềm vui dạt dào trong tập thơ.

Tôi tê tái lòng khi đọc những câu thơ đầy cay đắng của Người hành khất già:

Là giun độc, tôi phiền ngài lắm nhỉ

Vậy xin ngài cứ giẫm chết tôi đi!

Giẫm bẹp đi, đừng thương tiếc làm gì!

Tại sao ngài không cho tôi được học,

Để sức mạnh của tôi dùng đúng lúc?

Từ kiếp giun thành kiếp kiến tái sinh,

Khi chết còn ôm ấp được cha anh!

Nhưng thân già giờ chơ vơ mòn mỏi,

Đang gọi kêu lòng căm thù nhân loại.

Tiếp đó tôi cười đến chảy nước mắt khi đọc bài Người chồng hay khóc. Tôi nhớ nhất là câu sau đây:

Bí quyết của cuộc sống vui tươi,

Không khó gì đối với người bình dị!…

Beranger đã khuấy lên một niềm vui không gì kiềm chế nổi trong tôi, khiến tôi muốn nghịch ngợm, muốn bướng bỉnh đối đáp, muốn châm chọc, và chỉ trong một thời gian ngắn tôi đã thành thạo những trò đó. Tôi cũng học thuộc lòng các bài thơ của ông và hào hứng đọc cho mấy người lính cần vụ nghe mỗi khi tạt qua bếp của họ vài phút.

Nhưng chẳng bao lâu, tôi không đến với họ nữa, vì hai câu thơ:

Chiếc mũ nào mà chẳng vừa,

Với cô gái mười bảy tuổi.[95]

đã trở thành đầu đề cho mấy câu chuyện khả ố về phụ nữ. Tôi tức điên lên, cầm một cái xoong phang vào đầu gã Ermokhin. Anh Sidorov và mấy người khác gỡ được tôi ra khỏi đôi tay hung dữ của Ermokhin, nhưng từ đó tôi không dám xuống bếp của cánh sĩ quan nữa.

Tôi không được đi chơi phố. Mà cũng chẳng còn thì giờ mà đi chơi. Công việc mỗi ngày một nhiều. Bây giờ, ngoài công việc thường ngày của con sen, người quét sân và “thằng nhỏ sai vặt”, hằng ngày tôi còn phải đóng đinh căng vải lên những tấm bảng to, dán các bản vẽ lên đó, chép lại bản dự toán các công trình xây dựng cho cậu chủ, tính tiền trả cho các chủ thầu. Cậu chủ cặm cụi làm việc từ sáng đến tối như một cái máy.

Hồi đó những dãy nhà công cộng của hội chợ sắp được chuyển thành tư hữu của các thương gia. Các dãy hàng quán được tu sửa gấp, cậu chủ tôi nhận thầu sửa chữa cửa hàng và xây dựng các công trình mới. Cậu lập bản vẽ “sửa chữa lại các đầu hồi giáp nhau, đục cửa tò vò trên mái” và những bản vẽ tương tự, còn tôi thì mang mấy bản vẽ đó kèm một phong bì bên trong nhét một tờ hai mươi lăm rúp tới cho ông kiến trúc sư già. Ông kiến trúc sư nhận tiền và phê: “Bản vẽ đúng với nguyên bản. Mọi công việc đã được mỗ kiểm soát”. Lẽ dĩ nhiên, có bao giờ ông trông thấy nguyên bản đâu, còn kiểm soát các công việc thì ông cũng không sao làm nổi vì ông ốm đau luôn, không bao giờ ra khỏi nhà cả.

Tôi cũng mang của hối lộ đến cho ông quản lí khu hội chợ cùng một số công chức quan trọng khác, và luôn nhận lại được “giấy phép để làm việc phi pháp” như cách cậu chủ tôi thường giễu gọi mấy thứ giấy tờ đó. Nhờ thế mà tôi được phép chiều chiều chờ nhà chủ ở cửa, ở ngoài hiên, khi họ đến thăm nhà người quen. Những dịp như thế cũng không thường xuyên lắm, nhưng thường quá nửa đêm nhà chủ mới về, và suốt trong mấy tiếng đồng hồ liền, tôi ngồi trên thềm hiên hay trên đống gỗ trước hiên nhìn qua cửa sổ nhà bà thiếu phụ của tôi, khát khao lắng nghe tiếng nhạc, tiếng chuyện trò vui vẻ.

Các cánh cửa sổ đều mở. Qua tấm rèm cửa và màng lưới hoa tôi thấy bóng dáng cân đối của các sĩ quan chuyển động trong phòng khách, ông thiếu tá to béo đi đi lại lại, bóng dáng thiếu phụ uyển chuyển lướt qua, bà mặc giản dị và đẹp một cách lạ thường.

Tôi thầm gọi bà là nữ hoàng Margot.

“Chính đây là cuộc sống vui thú mà các tiểu thuyết Pháp thường miêu tả.” Tôi nghĩ vậy khi nhìn qua các cửa sổ. Những lúc ấy tôi thấy buồn buồn: Lòng ghen trẻ thơ khiến tôi đau lòng khi thấy nhiều đàn ông vây quanh Nữ hoàng Margot. Họ quấn lấy bà như đàn ong bò vẽ quấn quanh một bông hoa.

Một sĩ quan cao dong dỏng và lúc nào cũng ủ ê ít đến hơn những người khác. Trán ông có nhiều sẹo chém, mắt hõm sâu. Lần nào ông cũng mang theo một cây vĩ cầm, chơi hay đến nỗi khách qua đường cũng phải dừng lại dưới cửa sổ, dân trong phố kéo ra tập hợp trên các đống gỗ, ngay cả đến nhà chủ của tôi, nếu họ không đi vắng, cũng mở cửa sổ ra, vừa nghe vừa khen ngợi người chơi đàn. Tôi không nhớ ra ngoài thầy phụ lễ ở nhà thờ họ còn khen ai nữa, và cũng biết họ vẫn thích bánh rán với mỡ cá hơn là âm nhạc.

Thỉnh thoảng ông sĩ quan hát và ngâm thơ bằng giọng trầm trầm. Ông vừa thở hổn hển vừa ấp lòng bàn tay vào trán. Một hôm, khi tôi đang chơi với cô bé dưới cửa sổ, Nữ hoàng Margot đề nghị ông ta hát, ông từ chối năm lần bảy lượt rồi cuối cùng tuyên bố bằng một giọng rành rọt:

Chỉ bài ca mới cần vẻ đẹp,

Còn vẻ đẹp đâu cần đến bài ca…

Tôi rất thích hai câu thơ đó và không hiểu sao thấy thương thương ông sĩ quan.

Tôi thích nhất khi được nhìn bà thiếu phụ của tôi ngồi trước dương cầm chơi đàn một mình trong phòng. Tiếng nhạc làm tôi ngây ngất say sưa. Tôi không còn thấy gì ngoài ô cửa sổ in hình dáng thanh tú của người đàn bà dưới ánh sáng vàng của ngọn đèn, ngoài vẻ mặt trông nghiêng kiêu hãnh và những ngón tay trắng trẻo lướt nhanh thoăn thoắt như những cánh chim trên phím đàn của thiếu phụ.

Tôi vừa nhìn bà, vừa lắng nghe tiếng đàn rầu rĩ và tôi mơ ước: Nếu tôi tìm được một kho tàng, tôi sẽ đem biếu bà hết, để bà trở thành một người thật giàu có. Còn nếu tôi là Skobelev[96] thì tôi lại sẽ tuyên chiến với Thổ Nhĩ Kì để lấy tiền bồi thường của họ xây một ngôi nhà trên bờ dốc Otkos – nơi đẹp nhất trong thành phố. Tôi sẽ tặng bà ngôi nhà đó, chỉ mong sao bà rời khỏi khu phố này, rời khỏi căn nhà này, nơi người ta đồn đại nhiều điều đáng bực và xấu xa về bà.

Các láng giềng và người phục vụ trong khu nhà chúng tôi, nhất là nhà chủ của tôi, nói xấu Nữ hoàng Margot một cách độc địa cũng như khi họ nói về chị vợ anh thợ cắt, có điều thận trọng hơn, mỗi khi nói, họ lại nhìn xung quanh và hạ thấp giọng.

Họ sợ bà, có lẽ vì bà là vợ góa của một nhân vật rất quyền quý. Anh lính Chulpayev – một con người có chữ nghĩa, luôn luôn đọc kinh Phúc Âm – nói với tôi rằng những bằng khen treo trên tường trong phòng bà đều do các vua Nga cổ xưa: Goudonov, Aleksej và Pyotr Đại đế tặng cho cha của chồng bà. Cũng có thể người ta sợ bà cầm cái roi ngựa cán nạm mặt đá tím vụt vào họ. Người ta đồn rằng có lần bà đã cầm roi vụt một viên chức quan trọng nào đấy.

Nhưng những lời thì thầm ấy tồi tệ chẳng khác gì lời đồn đại ầm ĩ. Bà thiếu phụ của tôi sống trong không khí hằn thù, khó hiểu đối với tôi và nó cứ giày vò tôi mãi. Cậu Viktoruska kể rằng có lần về nhà vào lúc quá nửa đêm, cậu thoáng nhìn vào cửa sổ phòng ngủ của Nữ hoàng Margot và trông thấy bà ngồi trên đi văng, mặc độc chiếc áo lót, còn thiếu tá thì quỳ gối cắt móng chân rồi lấy bọt biển lau chân cho bà.

Bà già vừa nhổ nước bọt vừa chửi rủa. Mợ chủ thì đỏ mặt tía tai réo:

- Xì, chú Viktor! Chú thật là trơ trẽn! Mà các ông bà kia cũng thật là lũ đốn mạt!

Cậu chủ lặng yên mỉm cười. Tôi rất biết ơn cậu vì cậu đã nín lặng, nhưng cũng phấp phỏng lo cậu đồng tình tham gia vào các chuyện nói xấu kia. Hai người đàn bà vừa xuýt xoa, vừa kêu ơi ới, tỉ mỉ hỏi cậu Viktoruska xem thiếu phụ đã ngồi ở tư thế nào, ông thiếu tá đã quỳ ra sao. Cậu Viktoruska không ngừng tô thêm những chi tiết mới:

- Mặt ông ta đỏ ửng lên, lưỡi thè ra…

Tôi thấy chẳng có gì xấu xa trong việc ông thiếu tá cắt móng chân cho thiếu phụ cả, nhưng tôi không tin rằng ông ta đã thè lưỡi. Tôi bảo rằng đó là một chuyện bịa đặt có tính chất lăng mạ, và tôi bảo cậu Viktoruska:

- Nếu đấy là chuyện xấu thì cậu còn đứng nhìn vào cửa sổ làm gì? Cậu có còn bé bỏng gì cho cam…

Tất nhiên là tôi bị chửi một trận nên thân, nhưng những lời chửi mắng không làm tôi bực tức. Tôi chỉ muốn một điều: Chạy ngay xuống nhà dưới, quỳ trước mặt thiếu phụ như ông thiếu tá và cầu xin bà: “Bác ơi, bác hãy rời khỏi khu nhà này đi!”

Từ ngày tôi biết có một cách sống khác, những con người, những tình cảm và ý nghĩ khác, khu nhà này cùng những người sống trong đó càng gây thêm trong lòng tôi sự chán ghét sâu sắc. Cả khu nhà bị bao trùm bởi lớp màng bẩn thỉu của các chuyện đơm đặt vô liêm sỉ, không có ai là không bị nói xấu. Ông cố đạo ốm yếu đáng thương của trung đoàn bị mang tiếng là tay rượu chè be bét và trụy lạc. Theo lời kể của nhà chủ tôi, các sĩ quan và vợ của họ đều sống trong những hố lầy tội lỗi. Những câu chuyện đơn điệu của đám lính về phụ nữ khiến tôi khó chịu. Đáng ghét nhất là nhà chủ của tôi. Tôi hiểu rất rõ cái “chân giá trị” của mấy lời phê phán tàn nhẫn vẫn được họ ưa chuộng. Việc quan sát thói hư tật xấu của con người là trò tiêu khiển không mất tiền duy nhất của họ. Nhà chủ của tôi giải trí bằng cách dùng lời nói để dằn vặt, châm chọc những người lân cận, tựa như họ muốn trả thù tất cả mọi người vì chuyện chính họ phải sống lương thiện, chật vật và buồn tẻ.

Khi nghe người ta kể những điều bỉ ổi về Nữ hoàng Margot, tôi rất phẫn nộ. Ôi! Đâu có phải là sự phẫn nộ trẻ thơ nữa! Tim tôi sôi sục lòng căm ghét những kẻ hay bịa đặt điều nọ tiếng kia, tôi không sao nén được ý muốn chọc tức tất cả bọn họ, làm những điều tai quái. Đôi lúc tôi thấy dằn vặt vì thương hại bản thân, thương hại mọi người. Lòng thương hại thầm lặng đó khiến tôi khổ sở hơn cả lòng căm ghét.

Tôi biết về Nữ hoàng nhiều hơn những người xung quanh, và tôi ngại rằng họ không thể biết hết những điều mà tôi biết.

Vào những ngày lễ, khi nhà chủ kéo nhau tới nhà thờ xem lễ lớn đến trưa mới về, tôi sang nhà thiếu phụ cả buổi sáng. Bà gọi tôi vào phòng ngủ. Tôi ngồi trên ghế bành nhỏ bọc lụa vàng. Con bé leo lên đùi tôi. Tôi kể cho bà nghe về các sách tôi đã đọc, bà nằm trên cái giường rộng, hai lòng bàn tay nhỏ nhắn úp vào nhau, tì dưới má. Thân hình bà khuất dưới cái chăn vàng óng như mọi đồ đạc trong phòng ngủ. Mớ tóc đen tết thành bím vắt trên vai, vắt ra phía trước và đôi khi thõng từ trên giường xuống sàn.

Vừa nghe, bà vừa nhìn vào mặt tôi bằng cặp mắt dịu dàng, rồi hơi mỉm cười:

- Ra thế đấy!

Cho đến cả nụ cười đầy thiện cảm của bà trong mắt tôi cũng trở thành nụ cười độ lượng bề trên của một bà hoàng. Bà nói bằng một giọng ấm dịu và tôi có cảm tưởng như lúc nào bà cũng nói một câu: “Ta biết rằng ta tốt hơn hẳn, trong sạch hơn hẳn mọi người. Ta không cần kẻ nào trong bọn họ cả.”

Đôi khi tôi gặp bà ngồi chải tóc trước gương, trên một cái ghế bành thấp. Đuôi tóc xõa trên đầu gối, trên tay ghế bành, vắt qua lưng ghế và buông thõng xuống tận sàn. Tóc bà dài và tốt như tóc của bà ngoại tôi. Tôi trông thấy bộ ngực nở và ngăm ngăm của bà trong gương. Bà mặc áo nịt và đi tất ngay trước mặt tôi. Hành động ấy của bà không gợi cho tôi ước muốn xấu xa nào; tôi chỉ thấy vui sướng và hãnh diện về bà. Người bà lúc nào cũng tỏa ra một mùi hoa thơm ngát, hương thơm ấy bao quanh, bảo vệ bà khỏi những ý nghĩ xấu xa.

Lúc bấy giờ tôi là một thiếu niên khỏe mạnh, cường tráng, và đã biết tới những bí mật trong quan hệ giữa đàn ông và đàn bà. Nhưng người ta nói các bí mật ấy trước mặt tôi với ác ý nhẫn tâm, với sự tàn bạo phũ phàng, một cách bẩn thỉu tới mức tôi không thể nào hình dung được rằng người đàn bà ấy lại có thể để cho một người đàn ông nào ôm ấp. Tôi rất khổ tâm khi nghĩ rằng một người nào đó có quyền táo bạo và suồng sã đụng chạm tới người bà, rằng bàn tay của người đó có thể làm chủ thân thể bà. Tôi tin chắc rằng Nữ hoàng Margot không biết đến những loại tình ái trong xó bếp hoặc góc kho. Bà biết những niềm vui khác cao cả hơn, một tình yêu khác hơn…

Nhưng một hôm, vào lúc xế chiều, khi đi vào phòng khách, tôi bỗng nghe thấy phía sau tấm màn của phòng ngủ vang lên tiếng cười giòn giã của nữ chủ trái tim tôi và một giọng đàn ông:

- Hẵng hượm đã nào… Trời ơi! Anh không tin…

Tôi hiểu rằng mình phải quay ra, nhưng không làm sao mà bỏ đi được…

- Ai đấy? – Thiếu phụ hỏi. – Cháu đấy à? Vào đây…

Trong phòng ngủ, mùi hoa ngột ngạt. Ánh sáng lờ mờ. Các cửa sổ đều buông rèm kín. Nữ hoàng Margot nằm trên giường, chăn phủ kín đến cằm. Ông sĩ quan chơi vĩ cầm ngồi bên tường ngay cạnh bà. Ông mặc áo lót, để hở ngực. Trên ngực ông cũng có một vết sẹo. Nó kéo dài thành một dải đỏ từ vai phải tới đầu ngực và nổi lên rõ ràng đến nỗi mặc dầu ánh sáng lờ mờ, tôi vẫn trông thấy rõ. Tóc ông sĩ quan bị vò rối, trông thật là buồn cười. Lần đầu tiên tôi trông thấy nụ cười trên khuôn mặt đầy sẹo buồn rầu của ông. Ông cười trông đến lạ. Còn đôi mắt to như mắt phụ nữ của ông thì nhìn Nữ hoàng, tựa hồ như lần đầu tiên ông được ngắm nghía sắc đẹp của bà.

- Đây là bạn tôi. – Nữ hoàng Margot nói, không hiểu là với tôi hay với ông sĩ quan. – Cháu sợ cái gì? – Giọng của bà như từ xa vang tới. – Cháu lại đây…

Khi tôi đến gần, bà ôm lấy cổ tôi bằng cánh tay trần ấm áp:

- Lớn lên cháu cũng sẽ được hạnh phúc… Thôi, cháu ra đi!

Tôi đặt quyển truyện lên giá sách, lấy một quyển khác rồi ra khỏi phòng, bàng hoàng như trong một giấc mơ.

Một cái gì tan vỡ trong tim tôi. Tất nhiên, không giây phút nào tôi nghĩ rằng Nữ hoàng của tôi cũng yêu đương giống những người đàn bà khác. Và tôi cũng không cho phép mình nghĩ như vậy về viên sĩ quan. Tôi trông thấy gương mặt ông, nụ cười của ông hiện ra trước mắt. Ông cười sung sướng như một đứa trẻ con ngạc nhiên trước một điều bất ngờ. Khuôn mặt buồn rầu của ông bỗng tươi mới kì diệu. Chắc ông phải yêu Nữ hoàng lắm. Lẽ nào lại không yêu cho được, cái người đàn bà ấy? Và bà cũng có thể rộng lượng mà ban tình yêu cho ông; ông chơi đàn hay biết chừng nào, và ngâm thơ mới tình cảm làm sao…

Nhưng chính cũng vì phải viện đến những lí do đó để an ủi mình mà tôi nhận ra mọi việc không phải đều tốt đẹp, đều đúng đắn trong thái độ của tôi đối với những điều tôi đã trông thấy, và đối với chính bản thân Nữ hoàng Margot. Tôi thấy như mình bị mất một cái gì và suốt mấy ngày tôi sống trong trạng thái hết sức buồn rầu.

… Một hôm, tôi gây ra trò nghịch ngợm tai quái và ngu xuẩn. Khi tôi đến nhà thiếu phụ để mượn sách, bà nghiêm khắc bảo tôi:

- Thế mà bác cũng nghe người ta nói rằng cháu nghịch lắm đấy! Bác thật không ngờ…

Tôi không nín được nữa, bèn kể cho bà biết rằng tôi sống thật đau khổ, thật nặng nề, mỗi khi nghe người ta nói xấu bà. Thiếu phụ đứng trước mặt tôi, tay đặt lên vai tôi, thoạt đầu bà nghiêm trang chăm chú nghe tôi nói, nhưng sau đó bà phì cười và khẽ đẩy tôi ra.

- Thôi đủ rồi, bác đã biết tất cả những chuyện đó, cháu hiểu chứ? Bác biết cả!

Rồi bà nắm lấy hai tay tôi mà nói với một giọng trìu mến:

- Cháu càng ít chú ý đến những chuyện đê tiện ấy bao nhiêu thì càng tốt cho cháu bấy nhiêu… Mà sao cháu để tay bẩn thế này…

Chao ôi, bà còn phải nói làm gì điều đó! Nếu như bà cũng phải đánh đồ đồng, lau sàn, giặt tã lót thì chắc tay bà cũng không hơn gì tay tôi.

- Biết sống thì thiên hạ căm tức, ganh tị. Còn không biết sống thì người ta khinh. – Thiếu phụ ôm lấy tôi, trầm ngâm. Bà vừa kéo tôi sát vào người, vừa nhìn vào mắt tôi, mỉm cười. – Cháu có yêu bác không?

- Có.

- Yêu lắm chứ?

- Vâng.

- Nhưng yêu như thế nào?

- Cháu không rõ.

- Cảm ơn nhé. Cháu thật là tốt! Bác rất thích thấy mình được người ta yêu quý…

Bà mỉm cười, muốn nói với tôi điều gì, nhưng bỗng thở dài rồi nín thinh hồi lâu, tay vẫn chưa buông tôi ra.

- Cháu cứ đến chơi luôn với bác nhé. Lúc nào đến được thì cứ đến…

Tôi tận dụng đặc quyền đó và nhờ lui tới luôn nên tôi thâu nhận được rất nhiều điều bổ ích. Sau bữa trưa, nhà chủ của tôi thường ngủ, còn tôi thì chạy xuống nhà dưới, và nếu bà có nhà, tôi ngồi chơi với bà hàng giờ, có khi còn lâu hơn.

- Phải đọc những sách Nga, phải hiểu biết cuộc sống của người Nga chúng mình mới được. – Bà vừa găm cặp vào mớ tóc thơm thơm bằng những ngón tay đỏ hồng khéo léo vừa bảo tôi.

Rồi bà kể tên các nhà văn Nga và hỏi tôi:

- Cháu nhớ chứ?

Bà hay nói với vẻ suy tư và hơi bực tức:

- Cháu phải đến trường mới được, phải học mới được! Khổ, thế mà bác vẫn cứ quên mất chuyện ấy!…

Sau những buổi ngồi dưới nhà bà, tôi lại chạy lên gác với một quyển truyện mới trong tay, lòng lâng lâng nhẹ nhõm.

Tôi đã đọc quyển Kí sự gia đình của Aksakov, thiên trường ca nổi tiếng của nước Nga Trong rừng[97], tập Nhật kí của người đi săn hay tuyệt diệu, những tập truyện ngắn của Grebenkov[98] và Solugub[99], các tập thơ của Venevitinov[100], Odoevski[101], Tutchev. Những sách ấy đã gột rửa khỏi tâm hồn tôi lớp vỏ ngoài của những ấn tượng về cuộc sống thực tế bần cùng đầy cay đắng. Tôi cảm nhận được thế nào là một quyển sách hay và hiểu được sự cần thiết của sách vở. Đọc những quyển sách ấy, tâm hồn tôi thư thái vì một niềm tin tưởng vững chắc: Không chỉ có mình tôi trên trái đất này và tôi sẽ không trở nên vô ích đâu!

Khi bà tôi đến thăm, tôi thích thú kể cho bà nghe về Nữ hoàng Margot. Bà vừa khoan khoái hít thuốc lá vừa nói với vẻ tin tưởng:

- Hừ, tốt thế đấy! Trên đời thiếu gì người tốt, cứ chịu tìm là sẽ gặp thôi!

Có lần bà đề nghị:

- Có lẽ bà nên đến nhà người ta để cảm ơn cho cháu!

- Không cần đâu, bà ạ…

- Ừ thì thôi… Lạy Chúa tôi, cuộc sống thật là tốt đẹp! Con chỉ muốn sống mãi!

Nữ hoàng Margot chưa kịp lo đến việc cho tôi đi học thì ngày lễ Ba Ngôi đã xảy ra một chuyện bực mình, suýt nữa làm hại tôi.

Trước dịp lễ ít ngày, hai mí mắt tôi bỗng sưng vù lên, mắt híp lại. Nhà chủ lo tôi mù, chính tôi cũng hoảng. Người nhà đưa tôi đến bác sĩ sản khoa quen là ông Henrik Rodzevich. Ông ta nạo phía trong mi mắt tôi. Suốt mấy ngày tôi phải nằm đeo băng trên mắt, buồn chán trong màn đen tối nặng trĩu. Trước ngày lễ một hôm, người ta tháo băng cho tôi. Tôi lại đi đứng như thường, như thể lần mò được ra khỏi ngôi mộ sau khi bị chôn sống. Không có gì khủng khiếp bằng cảnh mù, đó là một trải nghiệm đau khổ không sao diễn tả nổi, nó tước đoạt mất của con người đến chín phần mười thế giới xung quanh.

Trong ngày lễ Ba Ngôi tưng bừng, vì còn đau nên từ trưa tôi được miễn hết công việc lặt vặt trong nhà. Tôi tha thẩn đến các nhà bếp thăm mấy anh lính cần vụ. Trừ Chulpayev nề nếp ra, ai cũng đều say mèm. Chập choạng tối, Ermokhin cầm thanh củi phang vào đầu Sidorov. Anh này nằm lăn ra, bất tỉnh nhân sự ở phòng ngoài, còn Ermokhin thì hoảng sợ chạy xuống khe trốn.

Tin đồn xôn xao truyền đi rất nhanh khắp cả khu nhà rằng Sidorov đã bị đánh chết. Người ta xúm lại trước cửa hiên, đứng nhìn anh lính nằm thẳng đờ, đầu vắt qua ngưỡng cửa từ nhà bếp ra nhà ngoài. Họ xì xào là phải gọi cảnh sát đến, nhưng chẳng ai chịu đi và cũng chẳng ai dám đụng đến anh lính.

Bỗng chị thợ giặt Natalya Kozlovsky xuất hiện. Chị mặc một chiếc áo dài mới tinh phơn phớt tím, quàng chiếc khăn vuông trắng trên vai. Chị giận dữ xô mọi người, bước vào phòng ngoài, ngồi xổm xuống và nói to:

- Thật là lũ ngốc, anh ta còn sống đây này! Mang nước lại đây…

Người ta khuyên chị:

- Đừng có nhúng tay vào việc của người khác làm gì!

- Tôi bảo là mang nước lại đây cơ mà! – Chị ta quát lên như người la cháy nhà.

Rồi với vẻ thông thạo, chị vén cái váy mới lên quá đầu gối, sửa lại váy lót và đặt cái đầu đầm đìa máu của anh lính lên đầu gối mình.

Đám người đứng xem sợ sệt bỏ về, vẻ không tán thành hành động của chị. Trong bóng tối nhá nhem của căn phòng ngoài, tôi trông thấy cặp mắt đầy lệ long lanh giận dữ trên khuôn mặt trắng trẻo tròn trĩnh của chị thợ giặt. Tôi bèn xách một thùng nước đến. Chị bảo tôi giội lên đầu, lên ngực anh Sidorov và dặn:

- Đừng có giội vào người chị. Chị còn phải đến thăm nhà một người bạn nữa…

Anh lính hồi tỉnh, mở đôi mắt đờ đẫn ra, cất tiếng rên rỉ.

- Đỡ anh ta lên. – Chị Natalya vừa nói vừa xốc nách anh lính, không cho chạm vào người vì chị sợ bẩn váy. Chúng tôi khiêng anh lính vào bếp, đặt anh lên giường. Chị lấy một miếng giẻ ướt lau mặt cho anh và dặn tôi:

- Em thấm nước vào giẻ rồi đặt lên đầu anh ấy để chị đi lùng cho ra cái thằng khốn kiếp kia. Đồ quỷ này, cứ rượu chè bê tha rồi cũng có ngày đi đày sớm.

Chị tụt cái váy lót bị dây bẩn xuống sàn, quăng vào một xó nhà, cẩn thận sửa lại váy ngoài bị nhàu kêu sột soạt và bỏ đi.

Anh Sidorov cựa quậy, duỗi tay chân, vừa nấc vừa kêu ú ớ. Những giọt máu đặc thẫm nặng nề rơi từ đầu anh xuống bàn chân trần của tôi. Thật là khó chịu, nhưng tôi sợ quá, không dám nhích chân tránh những giọt máu đó.

Tôi thấy đau khổ vô cùng. Ngày hội tưng bừng khắp khu nhà. Ngoài hiên, cổng ra vào được trang trí bằng những cây bạch dương nhỏ. Những cành phong, cành thanh lương trà mới chặt được buộc vào các cột ven đường. Cả khu phố ngập trong một màu xanh vui mắt. Cảnh vật như tươi hơn, mới mẻ: Từ sáng sớm tôi đã có cảm giác rằng ngày hội xuân sẽ còn kéo dài mãi và cuộc sống từ ngày hôm nay trở đi sẽ trong sạch hơn, sáng sủa hơn, vui tươi hơn.

Anh lính bỗng nôn mửa. Căn bếp sặc mùi rượu và mùi hành sống. Thỉnh thoảng lại có những bộ mặt to lớn, lờ đờ, mũi bẹp gí dán vào cửa kính. Những bàn tay tì vào má khiến mấy khuôn mặt đó như có thêm cái tai to quái dị.

Anh lính hồi tỉnh, lầm bầm:

- Tôi làm sao thế này? Ngã à? Thằng Ermokhin phải không? Thằng bạn quỷ thật…

Rồi anh ho húng hắng và khóc lè nhè. Anh rền rĩ:

- Em gái của anh ơi… Em gái…

Anh đứng được lên, loạng choạng, ướt át và hôi thối, nhưng lại lảo đảo ngã phịch xuống giường. Anh đảo mắt một cách kì quái:

- Chúng nó giết mình chết mất rồi…

Tôi phì cười.

- Ai cười đấy, đồ quỷ? – Anh lính đờ đẫn nhìn tôi. – Mày cười thế à? Chúng nó đã giết tao thừa sống thiếu chết như thế này…

Anh lấy hai tay đẩy tôi ra và lầm bầm:

- Hạn thứ nhất Ilya phát nguyên; hạn thứ hai Georgiy lên ngựa; hạn thứ ba chớ có đến tôi! Cút ngay, đồ chó sói…

Tôi nói:

- Đừng có vớ vẩn!

Bỗng dưng anh nổi cáu, giậm chân và quát tôi:

- Chúng nó giết tao, thế mà mày còn…

Và anh tống mạnh bàn tay khẳng khiu, bẩn thỉu vào mắt tôi. Tôi hét to, mắt hoa lên chẳng thấy gì nữa và chạy ra ngoài sân, về phía chị Natalya đang đi đến. Chị nắm tay lôi Ermokhin tới.

- Đi đi, cái con ngựa này! Em làm sao thế? – Chị túm lấy tôi và hỏi.

- Anh ấy đánh em…

- Đánh à…à…?

Chị ngạc nhiên kéo dài giọng rồi kéo Ermokhin, nói với hắn:

- Đồ quỷ này, may nhé, hãy cảm tạ Chúa đi!

Tôi lấy nước rửa mắt. Đứng từ phòng ngoài nhìn vào, tôi thấy hai anh lính đã làm lành với nhau, ôm nhau khóc, rồi họ cùng ôm chầm lấy chị Natalya. Còn chị thì đấm vào tay họ, quát lên:

- Bỏ tay ra, lũ chó này! Tôi là nhân tình, nhân ngãi của các người đấy hẳn? Đi ngủ cả đi trong lúc nhà chủ của các người chưa về. Nào, nhanh lên! Không có thì lôi thôi đấy!

Chị đặt họ ngủ như đặt lũ trẻ con, một người nằm trên sàn, một người nằm trên giường. Khi họ đã ngáy cả, chị ra nhà ngoài.

- Áo xống của chị bẩn hết cả rồi, thế mà định mặc để đi thăm bạn đấy! Nó đánh em à?… Thằng ngu xuẩn đến thế thì thôi! Rượu chè tai hại như vậy đấy! Đừng uống làm gì, em nhé, đừng có bao giờ uống rượu…

Tôi ngồi với chị trên cái ghế dài ngoài cổng, hỏi chị sao không sợ những người say rượu.

- Cả những người tỉnh chị cũng không sợ. Chị trị được tuốt! – Chị giơ nắm đấm đỏ hồng siết chặt. – Hồi còn mồ ma chồng chị, hắn cũng rượu chè bí tỉ; có lần hắn say rượu bị chị trói cả tay lẫn chân lại. Khi hắn tỉnh, chị lột quần hắn ra, lấy roi phết cho một trận. Chị bảo: “Đừng có rượu chè say sưa. Anh đã lấy vợ thì vợ anh sẽ tiêu khiển cho anh, chứ không phải là rượu!” Chị nói thế và nện cho hắn một trận nhừ tử rồi mới cởi trói, đến nỗi sau trận đòn đó anh chàng cứ gọi là hiền như bụt…

- Chị khỏe thật. – Tôi bảo chị, lại nhớ đến bà Eva đã lừa cả Chúa Trời.

Chị Natalya thở dài:

- Đàn bà phải khỏe hơn đàn ông mới được. Lẽ ra là phải khỏe gấp đôi ấy, nhưng Chúa đã ăn bớt mất. Đàn ông là loại người hay thay đổi tính nết.

Chị bình thản nói, không có vẻ gì là ác ý. Chị ngồi dựa lưng vào bờ rào, tay khoanh trước bộ ngực nở nang, buồn rầu đưa mắt nhìn con đập đầy gạch đá rác rưởi. Tôi quên cả thời gian, mải mê nghe những lời nói thông minh đó. Thình lình, tôi trông thấy mợ chủ khoác tay chồng xuất hiện ở phía cuối con đập. Họ bước khoan thai, đường bệ như một cặp gà trống mái. Họ chăm chú nhìn chúng tôi và nói gì với nhau không rõ.

Tôi chạy lại mở cửa chính. Mợ chủ vừa lên thang vừa thâm hiểm bảo tôi:

- Mày đã đánh bạn với lũ thợ giặt rồi đấy à? Đã học đòi cách tán tỉnh lũ đàn bà hạ lưu rồi cơ à?

Câu nói đó ngu xuẩn đến nỗi tôi không buồn để ý. Điều đáng bực hơn là cậu chủ cũng cười nhạt:

- Còn sao nữa, cũng đến tuổi rồi!…

Sáng hôm sau, khi xuống kho lấy củi, tôi bắt được một túi đựng tiền rỗng không bên cạnh ô cửa vuông của chuồng mèo ở cửa kho. Tôi đã nhiều lần thấy cái túi này trong tay anh Sidorov, nên tôi mang ngay đến cho anh.

- Thế còn tiền đâu? – Anh khoắng tay vào trong túi và hỏi. – Một rúp hai mươi kopek đâu rồi? Đưa tiền đây.

Đầu anh quấn một chiếc khăn mặt như tín đồ Hồi giáo, người vàng võ, gầy gò, anh cáu kỉnh hấp háy cặp mắt sưng vù, vẫn không tin rằng tôi đã tìm thấy cái túi rỗng.

Ermokhin chợt đi đến, hất đầu về phía tôi và xúi anh Sidorov:

- Chính nó ăn cắp rồi! Nó đấy! Mày cứ lôi nó đến nhà chủ nó! Lính không ăn cắp của lính đâu!

Câu nói đó đã thầm mách với tôi rằng chính hắn là kẻ ăn cắp tiền và cũng chính tay hắn ném túi tiền vào nhà kho để cho tôi bắt được.

Tôi liền hét thẳng vào mặt hắn:

- Nói láo, chính anh ăn cắp thì có!

Và tôi hoàn toàn tin tưởng rằng mình đã đoán đúng, vì bộ mặt thớt của hắn nhăn lại vì sợ hãi và tức giận; hắn lồng lộn, hét lên the thé:

- Mày cứ đưa bằng chứng ra đây!

Tôi biết lấy gì làm bằng chứng? Ermokhin vừa la hét vừa kéo tôi ra sân, anh Sidorov theo sau chúng tôi, la lên những gì không rõ. Những cái đầu nhô ra ở các cửa sổ; bà mẹ của Nữ hoàng Margot vừa nhìn vừa bình thản hút thuốc lá. Tôi hiểu rằng mình đã bị mất hết uy tín trong mắt Nữ hoàng của tôi. Tôi điên cả người.

Tôi còn nhớ cảnh bọn lính túm lấy tay tôi, còn nhà chủ thì đứng trước mặt họ, vừa nghe những lời buộc tội vừa đồng tình phụ họa.

Mợ chủ quả quyết:

- Tất nhiên là nó lấy rồi! Hôm qua, nó tán tỉnh con mụ thợ giặt ở ngoài cổng, chứng tỏ nó có tiền. Với mụ ta mà không có tiền thì đừng có hòng…

- Đúng như vậy đấy ạ! – Ermokhin kêu lên.

Sàn dưới chân tôi như sụt xuống, một mối căm phẫn điên cuồng thiêu đốt tôi, tôi liền chửi mợ một thôi và bị một trận đòn nên thân.

Nhưng không chỉ có trận đòn hành hạ tôi mà cả ý nghĩ không hiểu bây giờ Nữ hoàng Margot sẽ nghĩ về tôi ra sao cũng giày vò tôi. Làm sao bào chữa được trước mặt bà? Lòng tôi vô cùng đau khổ trong những giờ phút đen tối ấy.

May mắn làm sao, bọn lính phao truyền rất nhanh câu chuyện này khắp khu nhà, khắp dãy phố và đến chiều, khi đang nằm trên gác thượng, tôi bỗng nghe thấy tiếng kêu của chị Natalya Kozlovsky ở phía dưới.

- Không, việc gì mà tôi phải im! Không được, chú mình ạ, đi đi, đi đi! Tôi đã bảo là anh đi cơ mà! Không có tôi sẽ đến thưa với chủ của anh, ông ta sẽ bắt anh phải…

Tôi linh cảm thấy ngay rằng chuyện ồn ào đó có liên quan tới mình. Chị Natalya kêu gần phía hiên nhà của chúng tôi, giọng chị vang lên mỗi lúc một to hơn, đắc thắng hơn.

- Hôm qua anh đã đưa cho tôi xem bao nhiêu tiền? Anh lấy tiền đó ở đâu ra, nói xem nào!

Tôi nghẹn lên vì sung sướng nghe tiếng anh Sidorov rền rĩ:

- Chà… Chà… Ermokhin…

- Còn thằng bé thì bị người ta bêu riếu, đánh đập như thế đấy, hở?

Tôi muốn chạy ngay xuống sân, nhảy múa lên vì vui sướng và hôn đền ơn chị thợ giặt, nhưng vừa lúc đó mợ chủ của tôi kêu lên – có lẽ mợ từ cửa sổ nói vọng xuống:

- Thằng bé bị đòn vì nó hỗn láo, chứ không ai cho nó là đứa ăn cắp, trừ nhà chị ra thôi, đồ điêu ngoa!

- Thưa bà, chính bà là đồ điêu ngoa, bà là đồ con bò cái, xin phép được nói với bà như vậy!

Tôi nghe câu chửi ấy như nghe một điệu nhạc. Những giọt lệ nóng hổi vì tủi cực, vì biết ơn chị Natalya như đốt bỏng lòng tôi; tôi nghẹn ngào cố ngăn dòng nước mắt.

Sau đó, cậu chủ thong thả trèo lên gác mái, ngồi xuống chỗ giáp đòn tay nhà cạnh tôi, và vừa vuốt tóc vừa nói:

- Sao, Peskov, bị xúi quẩy à, chú em?

Tôi lặng thinh, quay mặt đi.

- Dầu sao thì cháu chửi cũng thật là quá quắt. – Cậu nói tiếp.

Tôi khẽ bảo cậu:

- Khi nào khỏi, cháu sẽ không ở đây nữa…

Cậu ngồi lặng yên một lúc, vừa hút thuốc vừa chăm chú nhìn vào đầu điếu thuốc, nhỏ nhẹ:

- Biết làm thế nào được, đó là việc của cháu! Cháu chẳng còn bé bỏng gì nữa, tự mình nghĩ lấy, cái gì có lợi cho mình nhất thì làm…

Rồi cậu bỏ đi. Như những lần khác, tôi thấy thương thương cậu.

Bốn ngày sau, tôi rời bỏ khu nhà. Tôi khao khát muốn đến từ biệt Nữ hoàng Margot, nhưng tôi không đủ can đảm. Thú thực, tôi cũng mong tự bà sẽ gọi tôi đến.

Khi chia tay với con bé, tôi nhờ nó:

- Em nhớ nói với mẹ rằng anh rất cảm ơn mẹ nhé! Em có nói không?

- Em sẽ nói. – Nó hứa và dịu dàng, âu yếm mỉm cười. – Tạm biệt anh đến ngày mai nhé, phải hông?

Hai mươi năm sau, tôi gặp lại cô bé, lúc bấy giờ đã là vợ của một sĩ quan hiến binh…

Chú thích:

1) Diana Poitiers là nhân vật trong nhiều truyện lịch sử phiêu lưu. Nữ hoàng Margot là nhân vật trong truyện Nữ hoàng Margot. Cô La Valliere là nhân vật trong truyện Hai mươi năm sau của A. Dumas Cha.

2) Nguyên văn: Con lăn.

3) Thơ của Puskin.

4) Nhà thơ cách mạng Pháp (1780 – 1857).

5) Thơ của Puskin.

6) Một tướng Nga nổi tiếng trong cuộc chiến tranh Nga – Thổ Nhĩ Kì (1877 – 1878).

7) Kí sự gia đình của Aksakov (1791 – 1859) mô tả những sinh hoạt của tầng lớp địa chủ thời xưa. Trong rừng của Melnikov Pechersky (1819 – 1883) mô tả cuộc sống của các thương gia cựu giáo vùng ven sông Volga.

8) Grebenkov (1812 – 1818), nhà văn và nhà thơ người Ukraine.

9) Solugub (1814 – 1882), nhà văn và nhà viết kịch.

10) Venevitinov (1805 – 1827), nhà thơ.

11) Odoevski (1802 – 1839), nhà thơ trong nhóm Những người tháng Chạp.