← Quay lại trang sách

Chương 11

Tôi lại làm nghề rửa bát trên tàu thủy “Perm”[102], một con tàu rộng lớn, chạy nhanh và trắng như một con thiên nga. Bấy giờ tôi là tay rửa bát “chuyên nghiệp” hay còn gọi là “hầu bếp”. Nhiệm vụ của tôi là giúp đỡ các đầu bếp, hằng tháng tôi được trả bảy rúp.

Chủ tiệm ăn là một người to béo, vẻ dương dương tự đắc. Đầu lão hói như một quả bóng. Tay chắp sau lưng, suốt ngày lão đi đi lại lại một cách nặng nề trên boong như con lợn thiến tìm chỗ râm mát trong ngày oi bức. Tiệm ăn do vợ lão phụ trách, một người đàn bà tuổi ngoài bốn mươi, đẹp nhưng sồ sề, mặt trát bự phấn đến nỗi bụi nhờn trắng rơi từ má xuống đầy cái áo rực rỡ của mụ.

Bác đầu bếp giỏi Ivan Ivanovich, bí danh là “Gấu con”, cai quản khu bếp. Bác người thấp nhỏ, đầy đặn, có cái mũi như mỏ kền kền và cặp mắt như giễu cợt. Bác ăn mặc rất chải chuốt, cổ cồn hồ bột, ngày nào cũng cạo râu. Đôi má bác xanh, bộ ria đen vểnh ngược. Hễ rỗi là bác lại làm tình làm tội bộ ria, vân vê chúng bằng mấy ngón tay đỏ hồng vì lửa bếp và không ngừng soi ngắm trong một cái gương tròn con tí.

Người đáng chú ý nhất trên tàu thủy là anh thợ đốt lò Yaakov Shumov, một bần nông lực lưỡng ngực to. Khuôn mặt với cái mũi tẹt của anh bèn bẹt như cái xẻng. Cặp mắt gấu nhỏ như bị đôi lông mày rậm che lấp. Má anh lún phún lông như rêu trên bãi lầy. Tóc trên đầu thì như một cái mũ lông rậm, anh phải khó khăn lắm mới lùa được mấy ngón tay cong queo vào.

Anh chơi bài ăn tiền rất cừ và háu ăn một cách kinh khủng. Như một con chó đói, anh thường lê la quanh bếp, xin mấy mẩu thịt, miếng xương. Chiều nào anh cũng uống trà với bác “Gấu con” và kể nhiều chuyện kì lạ về đời mình.

Hồi nhỏ, anh giúp việc cho người chăn cừu ở Riazan, sau đấy một ông thầy tu qua đường đã dụ dỗ anh vào tu viện, và anh đã ở đó bốn năm.

- Lẽ ra tớ cũng thành thầy tu, một ngôi sao đen của Chúa rồi đấy. – Anh nói đùa, giọng liến thoắng. – Nếu không có một nữ tín đồ ở Penza đến viếng tu viện của bọn tớ. Bà ta thật ngộ nghĩnh, bà ta dỗ dành tớ: “Anh trông đẹp như thế này, khỏe như thế này, còn tôi là một người đàn bà lương thiện, sống cô đơn góa bụa, thôi thì anh cứ đến ở với tôi, trông nom sân vườn cho tôi, tôi có nhà riêng và buôn bán các loại lông thú, lông chim…”

Thế là bà ta chọn tớ làm người quét sân, còn tớ thì thành tình nhân của bà. Suốt ba năm trời tớ được ăn no mặc ấm…

- Mày nói phét khá lắm! – Bác “Gấu con” ngắt lời, đăm đăm nhìn mấy nốt sần sùi trên mũi mình. – Nếu nói phét mà được tiền thì chẳng mấy lúc mày giàu to!

Anh Yaakov vẫn nhai, những mớ lông xanh xám chuyển động trên bộ mặt đờ đẫn, hai vành tai lông lá nhúc nhích. Nghe xong lời nhận xét của bác đầu bếp, anh nói nhanh và nhịp nhàng như trước:

- Bà ta nhiều tuổi hơn tớ, nên tớ đâm ra chán, tớ buồn quá bèn léng phéng với đứa cháu gái của bà; không ngờ bà ta biết chuyện và tống cổ tớ…

- Với mày, phải như vậy mới được, không còn cách gì hơn đâu. – Bác đầu bếp nói, giọng cũng nhẹ nhàng và mạch lạc như anh Yaakov.

Sau khi nhét một miếng đường vào miệng, anh thợ đốt lò tiếp tục:

- Tớ sống vất va vất vưởng một thời gian, sau đó theo một ông già bán hàng rong người vùng Vladimir. Thế là tớ đi với ông ta khắp chân trời góc biển: Trên các dãy núi Balkan, đến xứ sở người Thổ Nhĩ Kì, người Romania, người Hi Lạp, người Áo… Dân tộc nào chúng tớ cũng đều gặp, mua hàng chỗ này, bán lại chỗ khác…

- Thế có ăn trộm không? – Bác đầu bếp nghiêm trang hỏi.

- Không bao giờ! Ông già không muốn thế! Ông ta bảo tớ: “Con hãy sống cho lương thiện trên đất người. Luật lệ ở đây không nể con đâu. Chỉ một tí là người ta chặt mất đầu đấy!” Thực ra tớ cũng có thử đi ăn trộm, nhưng chẳng ăn thua: Một lần tớ định dắt ngựa của một lão nhà buôn ra khỏi sân, nhưng không dắt được. Người ta tóm được tớ, và tất nhiên là họ nện tớ nhừ tử, nện xong họ lôi tớ đến sở cẩm. Chúng tớ có hai đứa, thằng kia cừ khôi lắm, nó mới thực là tay ăn trộm ngựa chính cống, còn tớ thì chỉ vào loại xoàng, tò mò là nhiều. Tớ vốn làm việc với tay nhà buôn kia, xây lò trong nhà tắm mới cho lão. Thế rồi lão bỗng ốm và nằm mơ thấy tớ; giấc mơ rất kinh khủng. Lão ta hoảng lên, bèn xin với sở cẩm: “Xin các ông tha cho hắn ta. (Tức là tớ đấy!) Các ông tha cho hắn kẻo hắn báo mộng cho tôi là nếu không thả hắn thì không khỏe được đâu, có lẽ hắn là phù thủy đấy.” (Tức là tớ là phù thủy đấy!) Chà, lão nhà buôn đó là một tay có tiếng tăm nên người ta mới tha cho tớ…

- Tha mày ra làm gì, cứ đem ngâm mày xuống nước ba ngày để mọi tật xấu trong người mày tan hết đi mới được. – Bác đầu bếp nói chen vào.

Anh Yaakov cũng phụ họa:

- Đúng đấy, tớ có nhiều tật xấu lắm, có thể nói những tật xấu của tớ chứa cả làng không hết…

Luồn ngón tay vào cái cổ áo đã cài chặt, bác đầu bếp cáu kỉnh kéo căng nó ra. Bác vừa lắc đầu vừa bực bội than vãn:

- Thật là một điều vô nghĩa lí! Một tên tội nhân sống trên trái đất như vậy đấy, nó ăn, nó uống, nó đi lang thang để làm gì mới được? Nào, mày thử nói xem mày sống để làm gì?

Anh thợ đốt lò vừa nhai tóp tép vừa trả lời:

- Tớ chẳng biết gì sất. sống là sống, có thế thôi. Người này nằm, kẻ khác đi, công chức thì suốt đời ngồi, nhưng ăn thì người nào cũng phải ăn cả…

Bác đầu bếp lại càng thêm cáu kỉnh.

- Thế nghĩa là mày là đồ con lợn, thật không biết gọi thế nào hơn được nữa! Đồ cặn bã.

- Sao đằng ấy lại chửi tớ? – Anh Yaakov ngạc nhiên hỏi. – Bọn bần nông chúng mình đều cùng một gốc mà ra cả[103]. Đằng ấy đừng chửi nữa, tớ cũng chẳng nhờ thế mà khá hơn được đâu…

Con người ấy hấp dẫn tôi rất nhanh và mãnh liệt. Lúc nào tôi cũng kinh ngạc nhìn anh, miệng há hốc nghe anh nói. Theo tôi, anh có hiểu biết vững vàng, theo lối phán đoán riêng của anh, về cuộc sống. Anh dùng chữ “đằng ấy” để gọi tất cả mọi người. Với ai anh cũng nhìn thẳng vào mặt họ một cách đàng hoàng. Kể từ thuyền trưởng đến chủ tiệm ăn và các hành khách sang trọng ở buồng hạng nhất, anh đều coi ngang hàng như mình, như các thủy thủ, đám hầu bàn và những hành khách trên boong.

Có lần anh đứng thẳng trước mặt thuyền trưởng và thợ máy, hai cánh tay dài như tay khỉ chắp sau lưng, lặng lẽ nghe người ta mắng anh vì tội lười biếng hay vì đã chơi bài ăn hết tiền của một hành khách. Anh cứ đứng trơ ra như vậy; rõ ràng những lời chửi mắng chẳng có tác dụng gì với anh, những câu dọa đuổi anh khỏi tàu khi cập bến tới cũng chẳng khiến anh kinh sợ.

Trong con người anh có điều gì khác hẳn mọi người, như ở bác Tốt Lắm, và có lẽ chính anh cũng tin vào cái đặc điểm ấy, cho là không ai có thể hiểu được mình.

Tôi chưa bao giờ thấy anh giận dữ hay suy nghĩ. Cũng không nhớ có lần nào anh nín lặng được một lúc. Hầu như ngoài cả ý muốn của anh, lời nói cứ tuôn ra như một dòng suối bất tận từ cái miệng râu ria xồm xoàm. Khi người ta chửi rủa anh hoặc khi anh nghe ai kể một câu chuyện thú vị, môi anh mấp máy, tựa hồ anh nhắc thầm lại những điều được nghe hay tiếp tục nói thầm ý nghĩ của mình. Ngày ngày, sau phiên trực, anh chui ra từ cửa hầm lò, chân trần, người đầm đìa mồ hôi và dầu mỡ. Cái áo không đai của anh ướt đẫm, để hở ra bộ ngực phủ đầy những sợi lông rậm loăn xoăn. Và lập tức, trên boong tàu vang lên giọng nói đều đều, đơn điệu, hơi khàn khàn của anh. Những câu nói ấy cứ rào rào rơi xuống như những giọt mưa.

- Chào mẹ! Mẹ đi đâu đấy? Đi Chistopol à? Biết rồi, con đã ở đấy, đã đi làm thuê cho một lão Tarta giàu sụ tên là Usan Gubaildulin. Lão già ấy có ba vợ, lão khỏe lắm, mặt đỏ như gấc. Mụ vợ trẻ người Tarta của lão thật là ngộ nghĩnh, con cũng có tí tội lỗi với mụ ta…

Anh đã ở khắp mọi nơi; với tất cả những người đàn bà đã gặp trong đời anh đều có dính líu “tí tội lỗi”. Anh kể mọi chuyện với vẻ vô tâm, bình thản, tựa như trong cuộc sống anh không hề gặp điều tủi nhục hay những lời xỉ vả. Chỉ một lúc sau, tiếng nói của anh lại vang lên ở phía đuôi tàu.

- Người đáng trọng phải là người biết cờ bạc! Chà, nghề cờ bạc cũng hay hay đấy chứ! Ngồi một chỗ, hái ra tiền, có khác gì đi buôn…

Tôi thấy anh ít khi nói những “tốt”, “xấu”, “tồi”, hầu như luôn dùng các từ “ngộ nghĩnh”, “hay hay”, “thú vị”. Người đàn bà đẹp đối với anh là “một con bướm ngộ nghĩnh”, một ngày nắng đẹp là “một ngày hay hay”. Nhưng anh thường nói nhất hai chữ “Cóc cần!”

Ai cũng cho anh là lười biếng, nhưng tôi thấy anh làm công việc nặng nhọc trong hơi nóng ngột ngạt, hôi hám cũng tận tụy như mọi người. Hơn nữa, chưa bao giờ tôi thấy anh kêu mệt hay phàn nàn như các thợ đốt lò khác.

Một hôm, một bà khách già bị đánh cắp mất túi tiền. Lúc bấy giờ đang là buổi chiều quang đãng yên tĩnh, mọi người sống trong bầu không khí nhân hậu và hòa thuận. Thuyền trưởng cho bà cụ năm rúp, các hành khách cũng lạc quyên được một số tiền như thế. Khi người ta trao tiền cho bà cụ, bà vừa làm dấu, vừa khom lưng cảm tạ mọi người:

- Bà con ơi, đây nhiều hơn số tiền của tôi ba rúp mười kopek.

Một hành khách vui vẻ thốt lên:

- Cứ giữ cả lấy, bà cụ ạ, việc gì phải kêu lên thế? Ba rúp chẳng bao giờ thừa đâu…

Một hành khách khác ý nhị:

- Tiền không như người, chẳng bao giờ thừa đâu…

Còn anh Yaakov thì đi tới trước mặt bà cụ, đề nghị với vẻ thành thật:

- Cho con số tiền thừa ấy cho, để con đánh bạc.

Xung quanh cười ầm lên, nghĩ rằng anh thợ đốt lò nói đùa, nhưng anh ta vẫn nằng nặc dỗ dành bà cụ già đang bối rối:

- Nào đưa đây, cụ! Cụ giữ tiền làm quái gì? Cụ cũng về chầu trời đến nơi rồi còn gì nữa…

Người ta chửi rủa và đuổi anh đi chỗ khác. Anh lắc đầu, ngạc nhiên nói với tôi:

- Thật là lũ người quái gở! Sao họ cứ dây vào việc của người khác làm gì? Chính bà cụ nói số tiền ấy là thừa cơ mà! Mà tớ thì chỉ ba rúp là đủ vui rồi…

Tiền bạc hình như khiến anh vui thích. Trong khi nói chuyện, anh ưa mài mấy hào bạc và xu đồng vào quần cho thật sáng bóng, rồi cầm bằng mấy ngón tay cong queo, giơ lên trước cái mũi tẹt, nhíu lông mày lại ngắm nghía. Nhưng anh không phải là người hám tiền.

Có lần anh rủ tôi chơi bài, nhưng tôi không biết chơi.

- Không biết à? – Anh ngạc nhiên hỏi. – Sao mày lại như vậy? Thế mà cũng gọi là biết đọc biết viết đấy! Phải dạy cho mày mới được. Chơi bài ăn đường nhé!

Anh được tôi nửa funt đường cục và nhét dần tất cả vào cái miệng lông lá. Sau khi thấy tôi đã biết chơi, anh đề nghị:

- Bây giờ chơi ăn tiền hẳn hoi nhé! Mày có tiền không?

- Em có năm rúp.

- Tao có hơn hai rúp đây.

Lẽ dĩ nhiên, chỉ thoáng một chốc là tôi nhẵn túi. Cay cú, tôi đổi cái áo khoác lấy năm rúp để đánh tiếp và lại thua. Đôi ủng mới đổi lấy ba rúp cũng thua nốt. Anh Yaakov bèn bất bình bảo tôi với một vẻ gần như cáu giận:

- Xì, mày không thể chơi được đâu! Mày nóng nảy quá. Bây giờ cái áo này xếp lại, cả đôi ủng này nữa. Tao lấy làm gì. Thôi, cầm lấy cả giày, áo, lẫn tiền. Mày lấy bốn rúp, còn một rúp thì tao lấy coi như tiền công dạy… Được chứ?

Tôi rất cảm ơn anh.

- Cóc cần! – Anh trả lời câu cảm ơn của tôi. – Cờ bạc là cờ bạc, là một thú tiêu khiển, thế mà mày thì cứ lao vào như đi đánh nhau ấy. Ngay lúc đánh nhau cũng không nên nóng nảy. Đánh phải có suy nghĩ hẳn hoi. Nóng nảy thì được gì? Mày đang còn trẻ, phải biết tự kiềm chế. Một lần không xong, năm lần không đạt, bảy lần không được, thì nhổ một bãi nước bọt vào đấy, đừng chơi nữa. Khi nào thấy nguôi nguôi thì lại chơi! Thế mới thật là biết chơi!

Càng ngày tôi càng thích và cũng càng ghét anh. Đôi lúc những câu chuyện anh kể làm tôi nhớ đến bà ngoại. Con người anh có nhiều cái lôi cuốn tôi, nhưng tính quá thờ ơ của anh có lẽ đã trở thành bản chất, khiến tôi rất ghét anh.

Một hôm, vào lúc mặt trời sắp lặn, có một hành khách hạng nhì say rượu ngã xuống sông. Đó là một thương gia đẫy đà người vùng Perm. Ông ta vừa vùng vẫy, vừa trôi trên dòng nước vàng óng pha sắc đỏ. Người ta vội hãm máy. Con tàu tuôn bọt từ dưới những bánh xe và dừng lại. Những tia sáng đỏ chói của chiều tà nhuộm đám bọt thành màu máu. Xa xa, phía sau đuôi tàu, một thân hình đen đen chơi vơi trong đám máu đang sôi sục. Trên mặt sông, tiếng kêu thất thanh vang lên làm nôn nao cả người. Hành khách la ó, túm tụm, chen lấn nhau trên boong, tụ lại ở đuôi tàu. Ông bạn đồng hành của người chết đuối có bộ tóc hung hung, trán hói, cũng say rượu. Ông ta nắm tay đấm lung tung để len tới boong và rền rĩ:

- Cút đi! Tôi sẽ cứu…

Đã có hai thủy thủ nhảy xuống nước, bơi sải tới phía người bị ngã tàu. Xuồng được thả từ đuôi tàu, nhưng giữa những tiếng thủy thủ la ó, phụ nữ kêu thét, giọng khàn khàn của anh Yaakov tuôn ra như một dòng suối yên tĩnh và đều đều:

- Ông ta chết đuối mất thôi, không thoát được đâu. Vì ông ta mặc áo khoác ngoài! Quần áo lụng thụng là thế nào cũng chìm. Xem đàn bà đấy, tại sao họ lại chóng chìm hơn đàn ông? Là vì họ mặc váy! Đàn bà mà đã rơi xuống nước thì cứ gọi là chìm xuống tận đáy như quả tạ[104] vậy! Đấy, các người cứ nhìn xem, lão ta chìm nghỉm rồi đấy, tớ nói có sai đâu…

Người lái buôn chết đuối thật. Người ta lùng vớt ông ta suốt hai tiếng đồng hồ nhưng không thấy. Người bạn của ông ta sau khi tỉnh rượu cứ ngồi ở đuôi tàu thở hổn hển và lầm bầm rầu rĩ:

- Hừ! Cơ sự thế đấy! Bây giờ tôi biết làm thế nào? Biết nói năng ra sao với gia đình bác ta? Gia đình bác ấy…

Anh Yaakov đến đứng trước mặt ông ta, tay chắp sau lưng, tìm cách an ủi:

- Không việc gì đâu, bác lái ạ! Có ai biết được số mình phải chết ở chỗ nào. Có người chỉ vì ăn nấm và lăn đùng ra chết thì sao? Hàng ngàn người ăn nấm không việc gì, còn anh ta ăn vào thì ngoẻo! Đấy là tôi chỉ nói về nấm thôi!

Người to lớn, lực lưỡng, anh đứng trước mặt người lái buôn, tuôn ra hàng tràng lí lẽ như cối xay tuôn trấu. Thoạt đầu ông khách vừa lặng lẽ khóc vừa lấy lòng bàn tay to lớn quệt nước mắt, nhưng sau khi nghe lọt những câu nói của anh Yaakov, ông rít lên:

- Đồ quỷ! Tại sao mày còn đến đây hành hạ tao nữa? Các ông bà ơi, lôi nó đi chỗ khác, không có tôi giết chết nó bây giờ đấy!

Anh Yaakov bình tĩnh rút lui:

- Con người thật là lạ! Mình muốn điều hay cho họ thế mà người ta lại định gây sự cả với mình…

Có lúc tôi có cảm giác anh Yaakov là một người ngốc nghếch. Nhưng nhiều khi tôi lại cho rằng anh cố ý làm ra vẻ ngu ngốc. Tôi háo hức muốn hỏi anh cho kì hết: Anh đã lang thang trên trái đất này như thế nào, đã thấy những gì? Nhưng ít khi tôi đạt được mục đích. Đầu ngẩng lên, đôi mắt gấu đen thẫm lim dim, anh lấy tay vuốt khuôn mặt lông lá, vừa hồi tưởng vừa nói chậm rãi:

- Ở chỗ nào người cũng đông như kiến ấy, chú em ạ. Chỗ này người, chỗ kia cũng người! Đông nhất tất nhiên là nông dân, có thể nói là trên mặt đất này bần nông đông như lá thu rụng vậy. Người Bulgaria ấy à? Tớ đã thấy họ rồi, cả người Hi Lạp nữa. Tớ còn thấy cả người Serbia, người Romania và đủ thứ dân du mục, nhiều lắm, đủ hạng người. Họ thế nào ấy à? Còn thế nào nữa? Ở thành phố thì là dân thành thị, còn ở thôn quê thì là dân quê, cũng hệt như chúng ta vậy. Nhiều cái giống nhau lắm, có cả những người cũng nói tiếng Nga, nhưng họ bảo tôi họ là người Tarta hay người Moldova ấy. Người Hi Lạp thì không nói được tiếng Nga. Họ nói liến thoắng lắp bắp, nghe như có câu cú hẳn hoi, mà chẳng hiểu đâu vào với đâu cả. Với bọn họ thì chỉ có xòe tay ra hiệu mà thôi. Còn ông già của tớ thì hay ra vẻ ta đây biết nói tiếng Hi Lạp. Ông cụ cứ lúng ba lúng búng những “karamara” với “kalimera”. Ông cụ láu cá lắm. Ông ta xoay xở chúng nó ra trò!… Mày lại hỏi “chúng nó” là ai à? Thằng nỡm, còn ai vào đây nữa? Tất nhiên là bọn da đen, cả người Romania cũng đen. Họ cùng thờ một Chúa. Người Bulgaria cũng đen, nhưng họ theo đạo của chúng ta. Còn người Hi Lạp thì cũng tựa như dân Thổ Nhĩ Kì…

Tôi có cảm giác anh chưa nói hết những điều anh biết. Còn điều gì đấy nữa mà anh không muốn nói ra.

Xem các tranh trên tạp chí, tôi biết rằng thủ đô Athens của Hi Lạp là một thành phố cổ kính và rất đẹp, nhưng anh Yaakov lắc đầu một cách nghi ngờ, phủ nhận Athens.

- Họ nói láo với chú em đấy. Chẳng có Athens nào cả, chỉ có Athos thôi. Nhưng Athos không phải là thành phố mà là một ngọn núi, trên đó có tu viện[105]. Ngoài ra chẳng còn gì hết. Núi ấy gọi là núi thánh Athos, có những bức tranh như vậy. Ông già cũng đã từng buôn bán các tranh ấy. Còn có thành phố Belgorod trên sông Danube, cũng như Yaroslavl hay Nizhny của ta vậy. Thành phố của họ trông xấu xí, nhưng làng quê thì đẹp. Đàn bà cũng như vậy thôi. Chà, đàn bà của họ cũng dễ làm say đắm lòng người lắm! Tớ suýt nữa thì ở lại hẳn đấy với một cô ả… Không nhớ tên là gì nhỉ?

Anh lấy tay vuốt mạnh khuôn mặt đờ đẫn. Mớ râu cứng khẽ lạo xạo. Từ trong cuống họng anh vẳng lên một tiếng cười giống như tiếng trống cơm vỡ.

- Con người ta cũng hay quên thật! Thế mà hai đứa đã có lúc… Khi chia tay cô ả khóc ghê quá, cả tớ cũng khóc, thật đấy.

Trắng trợn một cách thản nhiên, anh bắt đầu dạy tôi cách đối xử với phụ nữ.

Chúng tôi ngồi ở phía đuôi tàu. Trời đêm ấm áp, mặt trăng như trôi về phía chúng tôi. Bờ cỏ thấp thoáng nhô lên trên làn nước bạc. Những đốm lửa vàng nhấp nháy trên phía bờ dốc như những ngôi sao bị trái đất giam cầm. Vạn vật đều di chuyển, như thao thức thì thầm, như sống một cuộc đời trầm lặng nhưng rất thật. Trong bầu không khí tĩnh mịch buồn buồn và dịu dàng đó, lọt thỏm mấy tiếng khàn khàn.

- Đôi khi cô ta duỗi tay, dang chân…

Những câu chuyện của anh Yaakov thường trắng trợn nhưng không chối tai; trong đó không có vẻ gì khoe khoang tàn nhẫn, chỉ đượm nét chất phác pha chút buồn bã. Mặt trăng trên bầu trời trần trụi một cách trơ trẽn nhưng cũng khiến tôi xúc động, buồn vô duyên cớ. Trong tâm trí, tôi nhớ lại những điều tốt lành, tươi đẹp nhất trong đời. Tôi nhớ đến Nữ hoàng Margot, đến những câu thơ không thể nào quên vì chân lí đúng đắn của chúng:

Chỉ bài ca mới cần vẻ đẹp,

Còn vẻ đẹp đâu cần đến bài ca…

Xua đuổi cơn mơ mộng đó như xua đuổi một giấc ngủ chập chờn, tôi tiếp tục gặng hỏi anh thợ đốt lò về cuộc đời của anh và những điều anh đã thấy.

- Chú mày thật là kì khôi. – Anh nói. – Chú muốn tớ kể gì với chú? Tớ đã thấy đủ mọi thứ trên đời này rồi. Tu viện đã thấy chưa? Thấy rồi! Quán ăn thấy chưa? Cũng thấy rồi! Tớ thấy cả cuộc sống của quý tộc lẫn cuộc sống của bần nông. Tớ đã từng lúc no lúc đói…

Anh hồi tưởng lại chuyện cũ, thong thả như đi trên một chiếc cầu tròng trành, nguy hiểm bắc ngang dòng suối sâu.

- À, thí dụ chuyện này nhé. Một lần vì ăn trộm ngựa, tớ bị giải đến đồn cảnh sát. Tớ nghĩ bụng: “Thôi chuyến này phải đi Siberia mất rồi!” Nhưng lão đồn trưởng lúc ấy đang gắt ầm ĩ vì cái lò sưởi tỏa khói um khắp căn nhà mới của lão. Tớ bèn nói: “Thưa ngài, việc này tôi có thể sửa chữa được.” Lão ta quát tớ: “Câm mồm! Ngay đến thợ lành nghề nhất cũng còn chịu bó tay nữa là mày…” Tớ bảo lão: “Thưa ngài, cũng có lúc anh chăn cừu còn khôn hơn ông đại tướng cơ đấy.” Kể tớ lúc bấy giờ cũng táo gan thật; đằng nào thì cũng bị đày đi Siberia rồi! Lão ta bảo tớ: “Thôi mày cứ làm đi. Nhưng coi chừng đấy, nếu tồi hơn trước thì tao sẽ băm vụn xương mày ra.” Trong hai ngày, tớ sửa xong cái lò sưởi. Lão đồn trưởng ngạc nhiên thốt lên: “Chà, đồ ngu, đồ xuẩn thật! Mày là một tay thợ lò giỏi, sao mày lại đi làm cái chuyện ăn trộm ngựa như vậy, hả?” Tớ bèn nói: “Thưa ngài, đấy chỉ là do sự ngu xuẩn mà thôi.” “Đúng!” Lão nói. “Đó là do sự ngu xuẩn đấy thôi. Đáng thương cho mày thật.” Đấy, lão nói rằng lão thương tớ, chú mày thấy đấy chứ? Một lão cẩm, vì chức vụ, không biết thương ai bao giờ, ấy thế mà lão ấy thương tớ…

- Rồi sao nữa? – Tôi hỏi.

- Chẳng sao cả. Lão ấy thương tớ chứ còn gì nữa!

- Thương anh làm gì cơ chứ. Anh như hòn đá ấy!

Anh Yaakov cười hiền hậu:

- Thằng bé mới lạ chứ! Chú nói hòn đá à? Vậy thì chú hãy biết thương hòn đá đi, hòn đá cũng có ích của hòn đá, có đá mới lát được đường phố đấy. Bất cứ vật liệu nào mình cũng phải biết thương tiếc chúng, chẳng có cái gì vô ích đâu. Cát là gì? Ấy thế mà cỏ vẫn mọc trên cát đấy!

Khi anh Yaakov nói những câu như vậy, tôi càng thấy rõ ràng rằng anh biết nhiều điều mà tôi chưa thể hiểu.

- Anh thấy bác đầu bếp thế nào? – Tôi hỏi anh.

- Lão “Gấu con” ấy à? – Anh Yaakov thản nhiên. – Thấy lão ta thế nào ư? Chẳng có cái quái gì mà phải nghĩ với ngợi về lão ấy cả.

Đúng, Ivan Ivanovich quá đứng đắn, quá phẳng lặng, không hề làm cho người khác phải nghĩ ngợi về mình. Chỉ có điều bác không thích anh thợ đốt lò, luôn luôn mắng chửi anh, nhưng cũng lại luôn luôn mời anh uống trà.

Một lần bác bảo anh Yaakov:

- Đồ khốn kiếp, nếu như còn chế độ nông nô mà tao lại là chủ của mày thì mỗi tuần tao phải dần mày ít nhất bảy lần.

Anh Yaakov nhận xét một cách thành thật:

- Bảy lần thì hơi nhiều một chút đấy!

Tuy mắng chửi anh Yaakov, không hiểu sao bác đầu bếp vẫn cứ cho anh ăn đủ thứ. Bác giúi cho anh một mẩu bánh rồi bảo:

- Tọng đi!

Anh Yaakov nhai thong thả:

- Ivan Ivanovich ạ, nhờ đằng ấy mà tớ mới lấy lại sức được đấy.

- Mày cần sức lực làm gì hở đồ lười kia?

- Làm gì à? Để sống cho lâu chứ sao!

- Mày sống để làm gì, đồ quỷ?

- Quỷ cũng thích sống chứ. Hay là đằng ấy cho rằng sống chẳng vui sướng quái gì? Ivan Ivanovich ạ, cuộc sống thú vị lắm…

- Thật là đồ nghếch!

- Cái gì?

- Đồ nghếch!

- Chữ với nghĩa. – Anh Yaakov ngẩn người.

Bác “Gấu con” bảo tôi:

- Đấy, mày thấy không: Chúng mình thì đổ mồ hôi, sôi nước mắt bên cái bếp nóng như địa ngục này, ấy thế mà nó, xem đấy, vẫn cứ tọng nhét mãi y như một con lợn thiến vậy!

- Mỗi người một số phận. – Anh thợ đốt lò vừa nhai vừa nói.

Tôi biết làm việc bên lò đốt vất vả và nóng nực hơn ở bếp nhiều, nhiều đêm tôi thử đốt lò cùng anh Yaakov nên tôi lấy làm lạ là tại sao anh không muốn nói cho bác đầu bếp biết những nỗi cực nhọc trong công việc của mình. Con người ấy còn biết đến một điều gì đấy khác thường nữa…

Thuyền trưởng, thợ máy, đội trưởng và mọi người đều chửi mắng anh, nhưng lạ là người ta không đuổi anh. Các thợ đốt lò đối xử với anh rõ ràng là tốt hơn đối với những người khác, mặc dù họ cũng chế giễu anh vì tội hay ba hoa và tội đánh bạc. Tôi hỏi họ:

- Anh Yaakov có tốt không?

- Yaakov ấy à? Tốt chứ! Hắn ta không hay tự ái. Muốn làm gì hắn thì làm, có gắp than nóng bỏ vào áo hắn cũng vậy…

Mặc dầu phải làm việc vất vả bên nồi hơi và ăn khỏe như voi[106], anh Yaakov ngủ rất ít. Nhiều khi, hết ca làm, anh chẳng thay quần áo, cứ để người đầm đìa mồ hôi và bẩn thỉu như vậy mà ngồi lì suốt đêm ở đuôi tàu nói chuyện với hành khách hoặc đánh bạc.

Anh đứng trước mặt tôi, y như một cái hòm khóa kín. Tôi cảm thấy trong hòm có chứa điều gì cần thiết cho tôi, tôi cứ muốn tìm được chìa khóa để mở nó ra.

- Này chú em, tớ chẳng hiểu là chú muốn gì nữa? – Anh vừa hỏi vừa nhìn tôi bằng cặp mắt khuất sau đám lông mày. – Ừ thì tớ đã đi đây đi đó nhiều nơi trên trái đất chứ sao? Thằng bé mới lạ chứ! Thôi, hãy nghe tớ kể cho một câu chuyện đã xảy ra với tớ nhé.

Và anh bắt đầu kể. Hồi ấy, ở một tỉnh lị có ông thẩm phán trẻ tuổi. Ông ta bị lao phổi. Còn vợ ông là người Đức thì lại khỏe mạnh, chưa con cái gì. Chị ta phải lòng một thương gia đã có người vợ đẹp và ba đứa con. Tay này biết chị người Đức kia yêu mình, muốn đùa chơi để chế giễu chị này. Hắn ta hẹn chị đến vườn nhà vào ban tối, rồi lại rủ hai người bạn đến nấp sau bụi cây.

Thật là thú vị! Thế là chị người Đức đến đấy. Hắn ta bảo chị: “Thưa cô, tôi không thể nào yêu cô được. Tôi đã có vợ rồi. Nhưng tôi đã dự trữ cho cô hai người bạn, một người góa vợ và một người chưa vợ con gì cả.” Chị người Đức kêu lên một tiếng và tát cho hắn một cái vào mặt. Hắn ngã lộn nhào qua chiếc ghế dài.

Còn chị ta thì cứ quật giày vào mõm hắn tới tấp. Chính tớ dẫn chị ta đến, vì tớ làm vườn cho tay thương gia ấy mà. Tớ nhìn qua khe rào, thấy cứ tíu mù tít cả lên[107]. Hai người bạn vội chạy tới túm tóc chị ta.

Tớ bèn nhảy qua hàng rào vào và đẩy họ ra: “Các ông ơi, không nên như vậy.” Chị ta thật tâm đến với hắn, thế mà hắn nỡ bày trò làm nhục chị. Tớ dẫn chị đi khỏi nơi đó. Bọn họ còn lấy gạch ném tớ sưng cả đầu… Chị ta buồn rầu quá, cứ đi đi lại lại trong sân như người mất hồn và bảo tớ: “Anh Yaakov, tôi sẽ về Đức thôi, khi nào chồng tôi chết, tôi sẽ đi khỏi đây!” Tớ bảo: “Tất nhiên rồi, phải đi thôi.” Ông thẩm phán chết, chị ta cũng đi biệt. Thật là một người đàn bà dịu dàng, khôn ngoan. Và ông thẩm phán cũng thật là một người hiền lành, cầu Chúa thương xót đến ông ta…

Tôi im lặng, thắc mắc không hiểu được ý nghĩa của câu chuyện. Tôi cảm thấy trong đó có điều gì quen thuộc, tàn nhẫn, vô nghĩa, nhưng chẳng biết nói như thế nào.

- Chuyện có hay không? – Anh Yaakov hỏi.

Tôi nói lung tung một thôi và chửi rủa phẫn nộ, anh bình tĩnh giải thích:

- Người ta sống no đủ rồi, cái gì cũng thích, có lúc muốn đùa chơi một chút, nhưng không thành vì họ không biết cách. Dân buôn tất nhiên là loại người thực tế. Việc buôn bán đòi hỏi phải dùng đến mưu mẹo nhiều, sống mãi với tính toán cũng buồn, thế là họ muốn chơi đùa chút chút mà!

Dòng sông sủi bọt trôi nhanh sau đuôi tàu. Nghe thấy rõ tiếng nước chảy sôi sục. Bờ sông đen ngòm chậm chạp chạy theo dòng nước. Hành khách ngáy ngủ trên boong. Một người đàn bà cao gầy mặc áo dài đen, đầu trần, tóc bạc, lò dò lần bước giữa đám người đang thiu thiu ngủ trên những hàng ghế dài, đi về phía chúng tôi…

Anh thợ đốt lò hích vai tôi, khẽ nói:

- Nhìn kìa, đang buồn đấy…

Tôi có cảm giác như anh ta thấy thú vị trước nỗi buồn của kẻ khác.

Anh kể rất nhiều chuyện. Tôi say sưa lắng nghe, nhớ hết mọi chuyện anh kể, nhưng không nhớ có chuyện nào vui. Anh kể với giọng bình thản hơn cả sách. Trong sách, tôi thường thấy được tình cảm của nhà văn, thấy được sự giận dữ, niềm vui sướng, nỗi lo âu, vẻ giễu cợt của tác giả. Còn anh thợ đốt lò thì không cười, không phê phán; hình như chẳng có gì khiến anh tức giận và cũng không có gì làm anh vui sướng rõ rệt. Anh nói như một người làm chứng bàng quan trước quan tòa, như một người hờ hững với cả bên nguyên, bên bị lẫn quan tòa. Sự bàng quan đó càng ngày càng gây thêm trong lòng tôi nỗi bực tức, khiến tôi thấy ghét anh Yaakov.

Cuộc sống sôi sục trước mặt anh như ngọn lửa trong lò, phía dưới nồi hơi. Anh đứng trước lò, bàn tay sần sùi cầm cái búa gỗ khẽ gõ vào van vòi hơi để điều hòa sức đốt.

- Họ có làm anh bực mình không?

- Ai dám làm tớ bực? Tớ khỏe như thế này, chỉ quại cho một cái…

- Em không nói đến chuyện đánh đấm, mà muốn nói về tâm hồn anh. Họ có làm cho tâm hồn anh bực tức không?

- Không thể nào làm bực tức tâm hồn. Những chuyện bên ngoài không sao chạm được đến tâm hồn. Không có gì có thể chạm tới tâm hồn con người cả.

Hành khách trên boong, thủy thủ và mọi người thường hay nói đến chữ “tâm hồn” như nói đến đất đai, lúa gạo, công việc, phụ nữ… Đó là chữ đầu lưỡi trong những câu chuyện, thông dụng như đồng năm kopek. Tôi không muốn nghe chữ ấy trên đầu lưỡi cay độc của mọi người. Khi những bần nông mang chữ “tâm hồn” ra để chửi rủa nhau, dù là đùa vui hay ác ý, tôi thấy tim mình như thắt lại.

Tôi còn nhớ rất kĩ bà tôi đã nói về tâm hồn một cách trân trọng biết nhường nào. Đó là đài hoa thần bí của tình yêu, của sắc đẹp, của niềm vui. Tôi tin rằng sau khi những con người lương thiện chết đi, các thiên thần cánh trắng sẽ mang tâm hồn họ lên tận trời xanh, tới chỗ vị Chúa hiền từ của bà. Chúa âu yếm đón những tâm hồn đó và nói:

- Thế nào, tâm hồn yêu quý, trong sạch của ta, chắc con đã đau khổ nhiều và mệt mỏi lắm phải không?

Và Người ban cho tâm hồn sáu cánh trắng của thiên sứ.

Anh Yaakov Shumov cũng ít nói về tâm hồn và nói với một vẻ thận trọng, miễn cưỡng giống như bà. Khi chửi, anh không đả động đến tâm hồn. Còn khi những người khác tranh cãi nhau về tâm hồn thì anh cúi cái cổ bò đỏ tía xuống và im lặng. Khi tôi hỏi anh tâm hồn là gì, anh trả lời:

- Là linh hồn, là hơi thở của Chúa…

Tôi chưa thỏa mãn và gặng hỏi thêm. Anh cúi đầu xuống bảo tôi:

- Về chuyện linh hồn thì ngay đến các cha cố cũng chẳng hiểu thêm được là mấy đâu, chú em ạ. Đó là một vấn đề bí ẩn…

Anh khiến tôi phải luôn nghĩ đến anh, phải gắng sức một cách rất căng thẳng để hiểu anh. Nhưng sự gắng sức của tôi vô hiệu quả. Ngoài anh ra, tôi chẳng thấy gì cả. Với thân hình to lớn, anh đã che lấp mất tất cả.

Mụ vợ người chủ tiệm đối xử với tôi có vẻ dịu dàng rất khả nghi. Sáng sáng tôi phải bưng nước cho mụ rửa mặt, mặc dù đó là nhiệm vụ của cô hầu gái thứ hai Lusha – một cô gái sạch sẽ và tươi tắn. Đứng trong buồng tàu chật hẹp, bên cạnh mụ chủ tiệm cởi trần đến tận thắt lưng, trông thấy tấm thân vàng ệch nhăn nheo như bột chua của mụ, tôi nhớ đến thân hình chắc mịn với nước da ngăm ngăm của Nữ hoàng Margot, thấy khó chịu vô cùng. Mụ chủ tiệm vẫn huyên thuyên, lúc thì than vãn cằn nhằn, lúc thì giận dữ mỉa mai.

Ý nghĩa mấy lời mụ nói không lọt vào tiềm thức của tôi, mặc dầu tôi cũng đoán mang máng. Đó là những ý nghĩa đáng thương, thấp hèn, đáng xấu hổ. Nhưng tôi không thấy tức giận, vì tôi xa lạ với người đàn bà ấy và với tất thảy những gì xảy ra trên tàu. Tôi như núp sau một tảng đá lớn phủ đầy rêu. Nó ngăn cách tôi với cái thế giới kia, cái thế giới lênh đênh suốt ngày đêm đến chốn nào không rõ.

- Gavrilovna của chúng tôi đã phải lòng anh rồi đấy. Há miệng ra mà đón hạnh phúc đi. – Câu nói giễu cợt của cô Lusha thoảng đến tai tôi như trong một giấc mơ.

Không riêng mình cô ta nhạo báng tôi. Tất cả đám người hầu trong tiệm đều biết rõ nhược điểm của bà chủ.

Bác đầu bếp nhăn mặt:

- Mụ ta cái gì cũng đã nếm rồi, bây giờ lại muốn ăn quả đầu mùa đấy! Thật là đồ… cẩn thận, Peskov ạ!

Cả anh Yaakov cũng khuyên tôi như cha răn con:

- Tất nhiên nếu mày lớn thêm chừng hai tuổi nữa thì tao sẽ khuyên mày nên thế nào, nhưng bây giờ, vào tuổi mày, tốt hơn hết là đừng có dây vào! Còn thì tùy mày thôi…

- Anh đừng nói đến những trò đê mạt đó.

- Tất nhiên rồi…

Nhưng ngay sau đó, anh lại đưa mấy ngón tay lên xoa bù đám tóc rối trên đầu rồi tuôn ra mấy lời thao thao bất tuyệt:

- Nhưng cũng phải hiểu cho mụ ta mới được. Nhu cầu không thỏa mãn, tuổi già lại đến nơi… Ngay đến chó còn thích được vuốt ve nữa là con người! Đàn bà sống bằng mơn trớn cũng như cây nấm sống nhờ sự ẩm ướt vậy. Chính bản thân mụ ta cũng ngượng chứ, nhưng biết làm thế nào? Xác thịt đòi hỏi phải được mơn trớn, chỉ có thế mà thôi…

Tôi cố nhìn thẳng vào cặp mắt khó hiểu của anh:

- Anh có thương hại bà ta không?

- Tớ ấy à? Mụ ta là mẹ tớ hay sao? Đến mẹ người ta còn không thương nữa là… Còn mày thì thật là kì quặc!

Anh cười hềnh hệch như tiếng trống cơm vỡ.

Đôi lúc tôi nhìn anh và có cảm giác như mình rơi vào một khoảng không trống rỗng im lìm, lọt xuống một cái hố không đáy, đen tối.

- Anh Yaakov này, anh xem, ai cũng có vợ cả, tại sao anh không lấy vợ đi?

- Để làm gì? Đàn bà thì lúc nào tớ cũng có thể kiếm được, điều đó, ơn Chúa, cũng dễ dàng thôi… Có vợ rồi thì phải sống yên một nơi mà làm ruộng, mà tớ thì chỉ có tí ruộng đất, ruộng xấu nhưng cũng bị ông chú chiếm mất. Thằng em tớ mãn hạn lính trở về, cãi nhau với ông chú, kiện cáo rồi lấy cọc nện vào đầu ông ta một cái. Máu phụt ra. Thế là nó ngồi tù mất năm rưỡi. Ra tù thì chỉ có một con đường là lại vào tù. Còn vợ nó là một người đàn bà trẻ, trông cũng hay hay… Chà, nhưng kể đến làm gì mới được chứ! Lấy vợ có nghĩa là phải ngồi quanh quẩn bên chiếc cũi chó, làm một ông chủ gia đình, nhưng lính tráng thì đâu có làm chủ được cuộc đời mình.

- Anh có cầu nguyện không đấy?

- Thằng mới kì chứ! Tất nhiên là tớ có cầu nguyện…

- Cầu như thế nào?

- Đủ mọi thứ.

- Anh đọc kinh gì?

- Tớ không thuộc kinh. Tớ chỉ nói: “Lạy Chúa Jesus, xin Chúa hãy ban phước cho con lúc con sống, và cho con được thanh thản lúc nào con chết… Xin Chúa hãy cứu con khỏi ốm đau…” Đấy, tớ còn nói thêm ít câu nữa…

- Câu như thế nào?

- Còn thế nào nữa? Nói gì thì Chúa cũng đều nghe được hết!

Anh đối xử với tôi dịu dàng và với vẻ hiếu kì như đối với một con chó con khôn ngoan biết làm những trò ngộ nghĩnh. Có lần tôi ngồi với anh ban đêm; người anh lúc nào cũng có mùi dầu hỏa, mùi khói và mùi hành – anh thích ăn hành sống như ăn táo, bỗng anh đề nghị:

- Nào, Alyosha, đọc thơ đi chứ!

Tôi thuộc lòng nhiều bài thơ, ngoài ra tôi còn có một quyển vở dày trong đó ghi những bài tôi thích. Tôi đọc Ruslan cho anh nghe. Anh ngồi ngây người ra nghe như một người mù và câm, không thở khò khè nữa, rồi anh nói nho nhỏ:

- Câu chuyện cũng mạch lạc và hay hay đấy chứ! Mày nghĩ ra đấy ư? Puskin à? Có một người tên là Mukhin Puskin, tớ đã thấy ông ta…

- Không phải đâu, ông này bị người ta giết từ lâu rồi!

- Vì sao thế?

Tôi kể vắn tắt cho anh nghe như Nữ hoàng Margot đã kể với tôi. Anh Yaakov nghe xong, thản nhiên nói:

- Bao nhiêu người khốn khổ vì đàn bà…

Tôi thường kể cho anh những câu chuyện đã đọc trước kia. Những câu chuyện ấy lẫn lộn với nhau, quyện trong đầu óc tôi thành một chuyện dài dằng dặc về cuộc sống đẹp đẽ, sôi nổi, hừng hực nhiệt tình nồng cháy, đầy rẫy chiến công điên cuồng, những gương cao thượng sáng ngời, những may mắn kì diệu, những cuộc đọ súng và cái chết, những lời nói cao thượng cùng hành vi bỉ ổi. Tôi cho Rokambol có những nét hào hiệp của Lya Molya, Annibal và Golonna; Louis XI có tính tình như cụ Grandet; còn chuẩn úy Otletaev thì giống như Henry IV[108]. Hứng lên, tôi thay đổi tính tình nhân vật, xáo trộn các sự kiện, câu chuyện mới đối với tôi là một thế giới mà tôi được tự do, giống như vị Chúa của ông tôi, sắp đặt mọi người tùy theo ý muốn. Mớ sách vở hỗn độn không ngăn cản tôi trông thấy những điều hiển nhiên trong thực tế, cũng không làm nguội lạnh ý muốn tìm hiểu những con người thực; nó bao trùm lấy tôi như một làn mây trong suốt nhưng không thể xuyên qua, không để cho những nhơ bẩn truyền nhiễm, những nọc độc của cuộc sống lọt vào.

Sách vở giúp tôi vững vàng: Biết con người yêu thế nào và đau khổ ra sao, tôi không thể nào lui tới nhà thổ; cái kiểu ăn chơi dung tục và thấp hèn khiến tôi ghê tởm và thương hại kẻ nào thỏa mãn với nó. Rokambol dạy tôi kiên cường, không để cho hoàn cảnh khuất phục, các nhân vật của Dumas trau dồi trong tôi ý nguyện đem hết sức mình phụng sự một sự nghiệp lớn lao cao cả. Nhân vật mà tôi thích nhất là vua Henry IV vui vẻ. Tôi nghĩ rằng bài hát nổi tiếng của Beranger chính là nói đến vua Henry IV:

Vua ban cho dân cày nhiều quyền lợi,

Còn riêng vua vui thú rượu vơi đầy;

Có gì đâu, nếu toàn dân hạnh phúc,

Thì việc gì vua chẳng uống cho say?[109]

Các cuốn tiểu thuyết thường mô tả Henry IV là người nhân hậu, gần gũi với nhân dân Pháp. Trong sáng như thái dương, nhà vua khiến tôi tin tưởng rằng nước Pháp là đất nước tuyệt mĩ nhất trái đất, là quê hương của các hiệp sĩ, dù khoác áo vua hay mặc quần áo nông dân cũng đều cao thượng như nhau: Ange Pitou cũng là một hiệp sĩ khác nào D’Artagnan[110]. Khi vua Henry IV bị giết, tôi buồn ứa nước mắt và căm thù nguyền rủa Ravaillac[111]. Vua Henry hầu như cũng luôn là nhân vật chính trong các chuyện tôi kể cho anh thợ đốt lò, và tôi nhận thấy anh Yaakov cũng thích nước Pháp và vua Henry. Anh nói:

- Vua Henry là một người tốt đấy chứ! Với ông ta thì có muốn đi bắt cá chép hay làm gì cũng được.

Anh không biểu lộ tình cảm một cách khoa trương, không ngắt mạch kể chuyện của tôi bằng các câu hỏi. Anh im lặng ngồi nghe, lông mày nhíu lại, khuôn mặt bất động tựa một hòn đá lâu đời bị mốc bao phủ. Nhưng nếu vì lí do gì mà tôi ngừng kể, anh lập tức hỏi ngay:

- Hết rồi à?

- Chưa.

- Thế thì đừng có ngừng làm gì! – Anh thở dài nói về người Pháp. – Họ sống thoải mái thật…

- Anh bảo cái gì?

- Đấy, tớ với chú thì sống và làm việc quần quật như thiêu thân, còn họ thì sống thoải mái quá. Họ có công việc gì làm đâu, chỉ uống rượu và rong chơi, sống như vậy cũng hay hay đấy!

- Họ cũng làm việc chứ!

- Trong những chuyện chú kể, tớ có thấy điều đó đâu.

Anh thợ đốt lò nhận xét, và tôi bỗng cũng thấy rõ ràng: Đại đa số sách tôi đã đọc hoàn toàn không nhắc đến chuyện những nhân vật cao thượng đã sống bằng gì và làm việc như thế nào.

- Thôi, tớ ngủ một chút đã. – Anh Yaakov nói và nằm lăn ngay tại chỗ vừa ngồi.

Chỉ một lúc, anh đã thở phì phò đều đặn.

Mùa thu, khi bờ sông Kama ngả màu đỏ hoe, cây cối óng vàng và những tia nắng xiên nhợt nhạt, anh Yaakov bỗng đột ngột rời tàu. Mới hôm trước anh còn bảo tôi:

- Alyosha, ngày kia chúng ta sẽ tới Perm, ta sẽ đi làm cho tâm hồn được sảng khoái, rồi sau đó thắng bộ, tới quán ăn nghe nhạc, cũng hay hay đấy chứ! Tớ thích nghe máy hát lắm.

Nhưng tới Sarapul thì có một hành khách lên tàu. Ông ta người to béo, mặt nhăn nheo và không có râu ria. Chiếc áo dạ dài ấm với cái mũ có tai bằng lông cáo càng khiến ông giống đàn bà. Ông lập tức chiếm ngay lấy chiếc bàn con gần bếp – là chỗ ấm hơn cả, gọi trà và bắt đầu uống nước nóng, mặc cho mồ hôi ra nhễ nhại, không chịu cởi áo và bỏ mũ.

Mây thu không ngớt gieo xuống những hạt mưa nhỏ. Hình như cứ mỗi lần người hành khách đó lấy cái khăn tay kẻ ô ra lau mồ hôi trên mặt thì mưa rơi nhẹ, lúc nào ông ta ra nhiều mồ hôi thì mưa càng nặng hạt.

Chẳng bao lâu, anh Yaakov đã quẩn quanh bên ông ta. Họ bắt đầu cùng nhau xem bản đồ. Người khách lấy tay chỉ lên bản đồ, còn anh thợ đốt lò thì bình thản nói:

- Cũng được! Chẳng sao. Tớ cóc cần…

- Tốt lắm. – Người khách nói với giọng nhỏ nhẻ, sau khi đã nhét quyển lịch vào cái túi da hé mở phía dưới chân.

Họ bắt đầu uống trà và nói chuyện thì thầm.

Trước khi anh Yaakov làm việc, tôi hỏi anh người khách kia là ai. Anh cười tủm tỉm:

- Thấy chưa, hình như dân hoạn đấy, chú em ạ! Ông ta từ Siberia tới, xa lắm! Ông ta cũng ngộ nghĩnh đấy chứ, sống theo kế hoạch hẳn hoi…

Anh bỏ đi, hai gót chân đen sì và rắn chắc như móng ngựa giậm trên boong tàu, nhưng anh lại dừng lại và gãi hông.

- Tớ sẽ đi giúp việc cho ông ta đấy! Khi nào tới Perm, tớ sẽ xuống tàu và vĩnh biệt Alyosha nhé! Tớ sẽ đi tàu hỏa, sau đó sẽ đi đường thủy, rồi lại còn đi ngựa nữa. Phải đi mất đâu những năm tuần cơ đấy. Chà, con người ta chỗ nào mà chả tới được…

- Anh quen ông ta à? – Tôi hỏi và lấy làm ngạc nhiên vì quyết định bất ngờ của anh Yaakov.

- Quen ở đâu? Tớ chưa bao giờ gặp ông ta trước đây và cũng chưa từng sống ở những nơi ông ta đã sống…

Sáng hôm sau, anh Yaakov mặc áo khoác ngắn đầy dầu mỡ, chân đi giày cũ, đầu đội mũ cối rách long vành của bác “Gấu con”, nắm chặt tay tôi trong những ngón tay cứng như gang của anh mà nói:

- Có đi với tớ không? Nếu nói, ông ta sẽ nhận cả chú nữa đấy. Có muốn đi thì tớ sẽ bảo ông ta. Người ta sẽ hoạn cái của thừa của chú và sẽ cho chú tiền. Làm tàn tật con người là cái thú của họ, họ còn thưởng nữa là khác…

Ông khách hoạn đứng bên thành tàu, tay nải trắng cặp nách, nhìn chằm chặp vào anh Yaakov bằng cặp mắt của người chết, người ông phục phịch, trương phình như kẻ chết trôi. Tôi lầm bầm nguyền rủa ông ta. Anh Yaakov siết chặt bàn tay tôi một lần nữa:

- Kệ ông ta, cóc cần! Kẻ nào có Chúa của kẻ ấy, việc quái gì đến ta. Thôi, vĩnh biệt nhé! Tớ mong cho chú được hạnh phúc!

Rồi anh Yaakov Shumov ra đi, chân nam đá chân siêu như một con gấu, để lại trong lòng tôi cảm giác nặng nề, phức tạp. Tôi vừa thương vừa bực anh, lại vừa có vẻ như hơi ganh tị. Tôi lo lắng suy nghĩ: Người ta đi tới những nơi xa lạ để làm gì?

Còn anh Yaakov Shumov thì là người như thế nào nhỉ?

Chú thích:

102) Gorky bỏ nhà người cậu đến làm trên tàu Perm từ mùa xuân năm 1882.

103) Nguyên văn: Những quả sồi của cùng một cây sồi.

104) Nguyên văn: Quả cân nặng một pood.

105) Núi Athos ở Macedonia có nhiều tu viện.

106) Nguyên văn: Như ngựa.

107) Nguyên văn: Như cháo sôi sục.

108) Lya Molya và Golonna là các nhân vật trong truyện Nữ hoàng Margot của Dumas Cha; Annibal là vị tướng sống khoảng thế kỉ thứ III – thứ II trước Công nguyên; Louis XI (1423 – 1483) là vua Pháp, người củng cố cho chính thể chuyên chế, nhân vật trong tiểu thuyết của Walter Scott; Grandet là nhân vật trong truyện Eugénie Grandet của Balzac; Otletaev là nhân vật trong truyện Thiếu úy kị binh Otletaev; Henry IV là vua Pháp.

109) Bài ca Vua Ivoto (ám chỉ vua Henry IV) của Beranger.

110) Ange Pitou – nhân vật trong truyện Ange Pitou của Dumas. D’Artagnan là nhân vật trong truyện Ba chàng ngự lâm pháo thủ của Dumas.

111) Người giết vua Henry IV.