← Quay lại trang sách

Chương 15

Tuyết ngoài đồng đã tan, những đám mây mùa đông trên trời cũng tan, biến thành mưa và tuyết rơi xuống đất. Mặt trời di chuyển mỗi ngày một chậm rãi, trời ấm áp hơn. Hình như ngày xuân tươi vui đã đến, nó đang vui đùa ẩn nấp đâu đây trên cánh đồng ngoại ô và sắp sửa ập vào thành phố. Đường phố phủ một lớp bùn đỏ quạch. Dọc vỉa hè có những lạch nước chảy. Đàn chim sẻ vui vẻ nhảy nhót giữa những vũng nước trên quảng trường Arestantskaya. Ai cũng có vẻ vội vàng bận rộn như chim sẻ. Trong sự ồn ã của mùa xuân, tiếng chuông của tuần chay vang lên gần như liên tục suốt từ sáng đến tối; những tiếng ngân nhè nhẹ làm lay động lòng người. Trong tiếng chuông ấy, cũng như trong tiếng nói của các cụ già, có một điều gì bực bội; hình như chuông kia đang nói đến mọi thứ trên đời với một niềm tuyệt vọng xót xa:

“Thế là hết, là hết, là hết…”

Nhân ngày lễ thánh của tôi, xưởng tặng tôi một bức tượng nhỏ xinh xắn được khắc họa rất đẹp – tượng thánh Aleksej. Bác Jikharev đọc một bài diễn thuyết dài với giọng trang nghiêm khiến tôi không bao giờ có thể quên.

- Cháu là người thế nào? – Bác vừa nói vừa gõ gõ ngón tay, lông mày khẽ rướn lên. – Cháu chỉ là một đứa bé mồ côi mới mười ba tuổi đầu. Bác nhiều tuổi hơn cháu gần như gấp bốn lần, vậy mà bác vẫn khen ngợi cháu, đồng tình với cháu vì cháu không có thái độ dửng dưng mà luôn tập trung vào công việc. Cháu cứ nên như thế mãi, điều đó rất tốt!

Bác nói đến cả những bầy tôi của Chúa và con người, nhưng tôi không thể hiểu được sự khác nhau giữa hai lớp người đó, và có lẽ chính bác cũng không rõ. Bác nói nghe rất chán, cả xưởng đều cười nhạo. Tôi đứng im, cầm bức tượng thánh trong tay, lòng cảm động và bối rối, không biết nên làm gì. Cuối cùng Kapendiukhin nóng ruột kêu lên:

- Có thể chấm dứt cái bài điếu văn ấy được rồi đấy, tai nó đã tím ngắt lại rồi kia kìa.

Sau đó anh vỗ vai tôi và cũng khen ngợi:

- Chú được cái tốt là đối với ai chú cũng coi như họ hàng thân thích cả, cái đó rất tốt! Khi chú có điều gì không nên không phải, đừng nói đến chuyện đánh chú, mà ngay cả việc mắng nhiếc, người ta cũng phải thấy không tiện!

Tất cả nhìn tôi bằng con mắt thiện cảm, họ âu yếm chế giễu sự lúng túng của tôi. Chỉ một tí nữa là tôi đã khóc òa lên vì niềm vui sướng đột ngột cảm thấy mình hữu ích với tất cả những con người ấy. Nhưng cũng chính vào buổi sáng hôm ấy, ở cửa hiệu, gã quản lí vừa hất đầu về phía tôi vừa nói với lão Pyotr Vassiliep:

- Thằng nhãi ranh nom đến khó chịu, chẳng được cái tích sự gì cả!

Như thường lệ, tôi đến cửa hiệu từ sáng sớm, nhưng quá trưa, lão quản lí bảo tôi:

- Đi về nhà, gạt tuyết trên mái nhà kho xuống và đổ đầy hầm đá…

Gã không biết hôm đó là ngày lễ thánh của tôi. Tôi cũng tin rằng không ai biết điều đó. Sau khi nghi thức chúc mừng ở xưởng kết thúc, tôi thay quần áo, chạy ra sân và trèo lên mái nhà kho, gạt đám tuyết nặng nề, rắn chắc và rất nhiều trong mùa đông ấy xuống. Nhưng vì xúc động, tôi quên mở cửa nhà hầm và để tuyết lấp cả cửa. Sau khi nhảy xuống đất, thấy sai lầm ấy, tôi lập tức bắt tay vào gạt tuyết ra khỏi nắp hầm. Tuyết ẩm nên đặc cứng lại, xẻng gỗ khó lòng mà xúc được, xẻng sắt thì không có. Vừa đúng lúc gã quản lí xuất hiện ở cổng thì tôi làm gãy xẻng. “Sướng lắm khổ nhiều”, câu tục ngữ Nga ấy trở thành sự thật.

- Thế-ế đấy… – Gã quản lí vừa nói với giọng châm biếm vừa tiến lại gần tôi. – Chao ôi, làm với ăn, sao quỷ không tha, ma không bắt mày đi! Tao phải nện vào cái đầu mất trí của mày…

Gã giơ cán xẻng dọa đánh tôi, tôi lùi lại và tức giận nói:

- Tôi đến đây không phải để làm người quét sân cho anh…

Gã phi cán xẻng vào chân tôi, tôi chụp lấy một nắm tuyết và ném vào giữa mặt gã. Gã vừa nhổ vừa cắm đầu chạy mất, còn tôi thì bỏ việc, đi vào xưởng. Một phút sau, cô vợ chưa cưới của gã, một cô gái hiếu động, mặt đầy trứng cá, từ trên gác chạy xuống.

- Maksimovich, lên gác ngay!

- Không lên. – Tôi đáp.

Bác Larionovich ngạc nhiên khẽ hỏi tôi:

- Sao lại không lên?

Tôi kể cho bác nghe câu chuyện vừa rồi, bác cau mày vẻ suy nghĩ rồi đi lên gác, sau khi nói thầm với tôi:

- Cháu bướng quá, chú em ạ…

Trong xưởng nhốn nháo hẳn lên, người ta chửi rủa gã quản lí. Kapendiukhin nói:

- Chà, lần này thì người ta đuổi mày mất!

Tôi không sợ. Quan hệ của tôi với gã quản lí từ lâu đã không thể nào chịu nổi. Gã thù ghét tôi ra mặt và càng ngày càng ghét cay ghét đắng. Tôi cũng không thể chịu nổi gã, nhưng tôi muốn hiểu vì sao gã lại đối với tôi vô lí như thế.

Gã vứt tiền ra sàn cửa hiệu. Khi quét nhà, thấy tiền, tôi liền xếp vào cái chén nhỏ ở quầy hàng, nơi vẫn để tiền xu cho ăn mày. Khi tôi đoán được dụng ý của những vật tìm thấy ấy, tôi bèn nói với gã quản lí:

- Anh vãi tiền ra đất cho tôi nhặt thì chỉ mất thì giờ của anh thôi.

Gã đỏ mặt và buột miệng quát:

- Mày không có quyền dạy tao, tao khắc biết việc tao làm!

Nhưng lập tức gã chữa lại ngay:

- Tao vãi tiền ra để mà làm gì? Tự nó rơi đấy chứ.

Gã cấm tôi đọc sách ở cửa hiệu, gã nói:

- Đấy không phải là việc hợp với đầu óc mày! Hay mày định trở thành một nhà thông thái, hở thằng nhãi lười biếng ăn bám kia?

Gã chưa thôi ý định dùng những đồng hai mươi kopek để câu tôi; tôi thừa hiểu nếu trong lúc tôi quét sàn, chẳng may đồng tiền lăn vào kẽ ván, gã sẽ tin chắc rằng tôi lấy cắp. Lúc đó tôi lại đề nghị với gã một lần nữa rằng hãy bỏ cái trò ấy đi. Nhưng cũng ngay hôm đó, khi mang ấm nước sôi từ quán ăn về, tôi nghe thấy gã gợi ý cho tên quản lí vừa tới làm thuê cho cửa hiệu bên cạnh:

- Cậu hãy xúi nó lấy cắp tập Thánh thi, chúng tớ sắp nhận được những tập Thánh thi đấy, ba hộp cả thảy…

Tôi hiểu gã đang nói về tôi. Khi tôi bước vào cửa hiệu, cả hai tên lúng túng. Nhưng ngoài dấu hiệu đó ra, tôi còn nhiều lí do khác để tình nghi bọn họ đang bàn những mưu mô ngu xuẩn chống lại tôi.

Tên quản lí cửa hiệu bên cạnh không phải là người mới; y được coi là một tay buôn bán khôn khéo, nhưng điêu đứng vì nghiện rượu, y đã bị lão chủ đuổi đi, nhưng sau đó lão chủ lại vẫn phải dùng đến tên quản lí gầy đét và yếu đuối có cặp mắt giảo quyệt đó. Nhìn bề ngoài, y ăn nói có vẻ ngọt ngào, nhất cử nhất động đều tuân theo lão chủ. Y luôn luôn mỉm cười kín đáo, láu lỉnh, thích dùng những tiếng cay độc. Người y tanh tanh, hôi hôi như những người sâu răng, mặc dù răng y trắng tinh và chắc chắn…

Có hôm y làm cho tôi rất đỗi ngạc nhiên: Y lại gần tôi, miệng mỉm cười có vẻ dịu dàng, nhưng đột nhiên y gạt mũ của tôi xuống và túm lấy tóc tôi. Chúng tôi bắt đầu đánh nhau, y đẩy tôi từ ngoài hành lang vào cửa hiệu, cố làm cho tôi ngã vào những tủ kính lớn kê trên sàn. Nếu y đạt được điều đó, chắc chắn tôi sẽ làm vỡ kính, làm hỏng những bức tranh khắc và có thể sẽ làm sây sát những bức tượng thánh đắt tiền. Y rất yếu nên tôi đã thắng; nhưng sau đó tôi rất ngạc nhiên khi thấy tên râu xồm ấy ngồi trên sàn, vừa lau cái mũi bị đánh tơi bời vừa khóc sướt mướt.

Sáng hôm sau, khi nhà chủ đi vắng và chỉ còn lại một mình chúng tôi, y vừa xoa bóp chỗ sưng trên sống mũi vừa thân mật nói với tôi:

- Chú tưởng hôm qua tớ tự ý và thích thú chồm vào người chú à? Tớ không phải là thằng ngốc, vì tớ biết rằng chú sẽ thắng tớ, tớ vừa yếu lại vừa say rượu. Đó là tại lão chủ sai tớ. Lão bảo: “Mày cứ gây sự với nó, cố để nó làm hỏng thật nhiều đồ đạc ở cửa hiệu của nó trong lúc đánh nhau, dù sao thì cũng gây thiệt hại cho chúng!” Còn tự tớ thì không đời nào, chú xem đấy, chú đã làm méo cái mặt mẹt của tớ rồi…

Tôi tin lời y và thấy thương hại y. Tôi biết y sống thiếu thốn bên một mụ đàn bà thường hay đánh đập y. Nhưng dù sao tôi vẫn hỏi:

- Thế nếu như người ta bắt anh đầu độc một người nào đấy, chắc anh cũng đầu độc chứ?

- Lão sẽ bắt. – Tên quản lí khẽ nói và mỉm cười một cách đáng thương. – Lão có thể…

Một lát sau y hỏi tôi:

- Này. Tớ không có lấy một đồng xu nào dính túi, ở nhà không có gì ăn, vợ nó sẽ mè nheo. Anh bạn hãy xoáy ở trong kho một bức tượng thánh nào đấy cho tớ, tớ sẽ đem bán đi, nhá? Có xoáy được không? Hay là xoáy tập Thánh thi vậy?

Tôi nhớ lại hiệu giày và ông lão gác nhà thờ; tôi nghĩ bụng: Thằng này sẽ phản bội mình! Nhưng khó lòng mà từ chối, tôi bèn cho y một bức tượng thánh, còn việc xoáy tập Thánh thi đáng giá mấy rúp thì tôi không dám, tôi cảm thấy đó là một tội lỗi lớn. Biết làm thế nào được? Trong đạo đức luôn luôn che giấu sự tính toán hơn thiệt: “Hình pháp” thiêng liêng trong trắng đã tiết lộ rõ điều bí mật nhỏ bé ấy; đằng sau nó bao giờ cũng ẩn nấp sự dối trá to lớn của óc tư hữu.

Khi tôi nghe thấy gã quản lí của tôi gợi cho con người đáng thương này dạy tôi lấy cắp tập Thánh thi, tôi sợ quá. Rõ ràng là gã quản lí của tôi biết tôi có lấy đồ của hắn để đem cho và tên quản lí bên cạnh đã kể cho gã nghe về bức tượng thánh.

Sự xấu xa của việc làm phúc nhờ tài sản của kẻ khác và cạm bẫy ti tiện kết hợp với nhau đã gây cho tôi một cảm giác phẫn nộ, chán ghét chính bản thân mình và tất cả mọi người. Suốt mấy ngày, tôi đau khổ chờ đợi giờ phút người ta mang những hộp sách đó tới. Cuối cũng người ta đưa sách tới, tôi xếp mấy hộp đó vào kho. Tên quản lí của hiệu bên cạnh tìm gặp và xin tôi cho y một tập Thánh thi.

Tôi bèn hỏi y:

- Thế anh đã kể cho tay chủ tôi về chuyện bức tượng thánh rồi à?

- Kể rồi. – Y đáp với giọng buồn rầu. – Anh bạn ạ, tính tôi không thể giấu được chuyện gì…

Câu nói đó làm tôi kinh ngạc, tôi ngồi thụp xuống sàn và tròn xoe mắt nhìn y. Y bắt đầu vội vã lắp bắp, trông y vừa có vẻ ngượng nghịu vừa đáng thương một cách vô cùng thiểu não:

- Chú mình có biết không, chính nhà chủ đã đoán ra, lão chủ của tôi đã đoán ra và nói với nhà chủ của chú…

Tôi tưởng tôi chết mất. Những con người này đã chơi xỏ tôi, và giờ đây ở trại giam tội phạm ít tuổi đã dành sẵn cho tôi một chỗ rồi! Đã vậy thì được! Đã chết đuối thì chết hẳn ở chỗ sâu cho cam. Tôi liền giúi vào tay tên quản lí hiệu bên cạnh một tập Thánh thi, y giấu vào trong áo bành tô và đi ngay, nhưng y lại lập tức quay lại và ném tập Thánh thi vào chân tôi, vừa nói vừa bỏ đi thẳng:

- Tớ không lấy đâu! Tớ sẽ chết theo chú mất…

Tôi không hiểu những lời nói ấy. Tại sao y lại chết theo tôi? Nhưng tôi rất hài lòng là y không lấy cuốn sách. Sau việc này gã quản lí nhỏ bé của tôi càng nhìn tôi với vẻ tức giận và nghi ngờ.

Tôi nhớ lại những chuyện đó khi bác Larionich đi lên gác. Bác ở trên đó không lâu rồi trở xuống với vẻ chán nản và trầm lặng. Trước bữa ăn tối, bác nói riêng với tôi:

- Bác hết sức nài xin cho cháu thôi việc ở cửa hiệu và tới xưởng làm việc. Nhưng không ăn thua! Kouzka không thích thế. Hắn rất không ưa cháu…

Ở nhà này tôi còn có một kẻ địch nữa là cô vợ chưa cưới của gã quản lí, một cô gái cợt nhả quá mức. Bọn thanh niên trong xưởng bông đùa cô ả, họ đón cô ở phòng ngoài và ôm lấy cô. Cô ả không bực mình về chuyện đó, chỉ khẽ kêu ư ử như cún con. Từ sáng đến tối, cô ả luôn mồm nhai tóp tép, trong túi nào cũng nhét đầy bánh bàng, bánh xốp. Hai hàm của cô ả không ngừng động đậy. Nhìn khuôn mặt vô vị có cặp mắt xam xám không lúc nào yên của ả thật là khó chịu. Cô ả thường đố tôi và Pavel những câu đố bao giờ cũng bao hàm một ý nghĩa thô tục. Cô ả dạy cho chúng tôi những câu nói nhanh sẽ nhịu thành những câu tục tĩu.

Một hôm có một người nào đấy trong đám thợ cả đứng tuổi nói với cô ả:

- Kể thì cô cũng lẳng lơ quá đấy!

Cô ả trâng tráo dùng lời của một bài hát thô bỉ đáp lại:

Nếu gái tơ biết ngượng,

Sao trở nên đàn bà?

Lần đầu tiên tôi thấy một cô gái như vậy. Cô ả ve vãn tôi một cách thô thiển làm tôi sợ và ghê tởm. Khi thấy tôi không ưa những trò ve vãn ấy, cô ả càng hay quấy rầy hơn.

Có một lần, ở dưới hầm rượu, khi tôi cùng Pavel giúp cô ả giội nước sôi vào các thùng gỗ để đựng kvass và dưa chuột, cô ả bảo chúng tôi:

- Này, các cậu, có muốn tớ dạy các cậu hôn không?

- Tôi còn biết giỏi hơn chị là đằng khác. – Pavel vừa cười vừa trả lời cô ả.

Còn tôi thì bảo cô ả đi mà hôn chồng chưa cưới của cô. Tôi đã nói câu đó không được nhã nhặn lắm, làm cô ả nổi giận:

- Chà, đồ lỗ mãng! Một tiểu thư đối xử nhã nhặn với hắn, mà hắn lại lên mặt như vậy. Mày thật là đồ thộn!

Cô ả giơ ngón tay dọa tôi và nói thêm:

- Này, liệu hồn, tao sẽ cho mày biết tay!

Pavel cũng vừa ủng hộ tôi vừa bảo cô ả:

- Nếu chồng chưa cưới của chị mà biết thì hắn sẽ cho chị một mẻ.

Cô ả nhăn bộ mặt đầy trứng cá với vẻ khinh bỉ:

- Tao không sợ hắn! Với số hồi môn của tao, tao có thể kiếm được hàng chục đứa như hắn. Con gái chỉ còn được đùa nghịch trước khi cưới mà thôi.

Cô ả bắt đầu đùa nghịch với Pavel. Từ đấy tôi lại có thêm một kẻ mách lẻo thường xuyên về mình.

Đối với tôi, cuộc sống ở cửa hiệu càng ngày càng khó chịu. Tôi đã đọc hết tất cả các sách tôn giáo, những cuộc tranh luận và trò chuyện của mấy nhà thông thái đã không còn lôi cuốn được tôi: Họ nói đi nói lại cũng vẫn ngần ấy chuyện. Chỉ có lão Pyotr Vassiliep, với vốn hiểu biết các khía cạnh tăm tối của cuộc sống con người và tài nói vừa sôi nổi vừa hấp dẫn, là còn lôi cuốn tôi như trước. Đôi lúc tôi nghĩ rằng nhà tiên tri Ilya đơn độc và hay thù hằn cũng đã sống trên trái đất như vậy.

Nhưng mỗi lần tôi nói chuyện cởi mở với lão già về mọi người, về những ý nghĩ của mình thì sau khi gật gù đồng tình, lão lại kể lại cho gã quản lí những điều tôi đã nói. Gã này hoặc chế nhạo tôi thậm tệ, hoặc cáu kỉnh chửi mắng tôi.

Một hôm, tôi nói với lão già rằng thỉnh thoảng tôi có ghi những lời lẽ của lão vào vở, trong cuốn vở đó tôi đã ghi nhiều câu thơ và nhiều câu châm ngôn trích trong các sách. Lão già thông thái rất kinh hãi, vội vàng lảo đảo đến chỗ tôi và lo lắng hỏi:

- Cháu làm thế để làm gì? Cháu còn bé, không nên làm việc đó! Để ghi nhớ ư? Không nên, cháu hãy thôi việc đó đi! Cháu thật là lạ lùng! Cháu đưa cho ông cuốn vở ghi ấy nhé, thế nào?

Lão kiên trì thuyết phục tôi hồi lâu để tôi đưa cho lão cuốn vở hoặc đốt cuốn vở đi. Sau đó lão bực tức thì thầm với gã quản lí.

Trên đường về nhà, gã quản lí nghiêm khắc bảo tôi:

- Nghe nói mày vẫn hay ghi chép gì đó, không được làm cái trò ấy nữa, nghe chưa? Chỉ có bọn mật thám mới làm việc ấy thôi.

Tôi thiếu thận trọng, hỏi:

- Thế Sitanov thì sao? Anh ấy cũng ghi chép.

- Cũng ghi chép à? Thằng ấy lớn đầu mà ngốc…

Sau khi im lặng hồi lâu, gã gạ gẫm tôi, giọng dịu dàng khác thường:

- Này, đưa cho ta xem cuốn vở của chú và cả của Sitanov, ta sẽ cho chú năm mươi kopek! Nhưng phải làm thế nào cho Sitanov không biết, phải thật khéo…

Có lẽ gã tin rằng tôi sẽ thực hiện mong muốn của gã nên chẳng nói thêm lời nào nữa, chạy vượt lên trước bằng đôi chân ngắn cũn cỡn.

Về nhà, tôi kể cho Sitanov nghe chuyện gã quản lí gạ gẫm tôi. Sitanov cau mày.

- Em đã nói lộ bí mật một cách vô ích rồi đấy… Bây giờ thì nhất định hắn sẽ dụ một tay nào vào đây lấy cắp cuốn vở của anh và của em. Em nên đưa anh cuốn vở của em để anh giấu đi… Coi chừng, hắn sắp đuổi em đấy!

Tôi tin như vậy và quyết định ngay khi bà tôi trở về thành phố là lập tức rời khỏi đây. Suốt cả mùa đông bà sống ở Balakhna vì có người mời bà tới dạy các cô gái làm đăng ten. Ông tôi lại đến ở Kunavino; tôi không đi thăm ông, và tuy ông vào thành phố luôn, ông không hề đến thăm tôi. Một hôm, tôi chạm trán ông ngoài phố; ông mặc cái áo lông gấu chuột nặng nề, bước đi trịnh trọng, chậm rãi như một cố đạo. Tôi chào ông, ông che lòng bàn tay nhìn tôi rồi ề à, vẻ suy nghĩ:

- A, mày đấy ư… Bây giờ mày là tay vẽ tượng thánh… Đúng, đúng… Thôi, đi nhé, đi nhé!

Ông đẩy tôi sang bên, rồi tiếp tục đi vẫn với dáng điệu trịnh trọng và chậm rãi.

Tôi ít gặp bà tôi; bà làm việc không biết mệt mỏi để nuôi thêm ông bị bệnh lẫn cẫn tuổi già; ngoài ra bà còn vất vả với lũ con của các cậu. Nhất là thằng Sascha, con cậu Mikhail, một thanh niên đẹp trai, mơ mộng và ham đọc sách, đã làm bà tôi phải lo nghĩ nhiều. Nó làm việc ở các xưởng nhuộm, và đổi chủ luôn. Trong những khoảng thời gian chờ đợi, nó sống bám vào bà, yên trí chờ bà tìm cho nó một chỗ mới. Em gái của Sascha cũng hay quấy rầy bà. Nó không may lấy phải một gã thợ nghiện rượu, gã đánh đập nó và đuổi nó khỏi nhà.

Mỗi khi gặp bà, tôi càng khâm phục tâm hồn bà một cách có ý thức hơn; nhưng tôi cảm thấy tâm hồn đẹp đẽ ấy bị những chuyện thần thoại làm cho mù quáng, nó không có khả năng nhìn thấu, hiểu được những hiện tượng thực tế chua xót. Những nỗi lo âu, lo lắng của tôi đều xa lạ với bà.

- Phải chịu đựng, Alyosha ạ!

Đó là tất cả những gì bà có thể nói với tôi để đáp lại các chuyện tôi kể về cuộc sống quái gở, về nỗi đau khổ của mọi người, về nỗi buồn chán của tôi, về tất cả những điều làm tôi phẫn nộ.

Tôi không sao quen được tính cam chịu, và nếu đôi khi tôi biểu lộ đức tính ấy – vốn dĩ là đức tính của thú vật, của cỏ cây, của đá sỏi, thì chẳng qua cũng chỉ để tự thử thách, để biết khả năng của mình đến đâu, biết mức độ chịu đựng để tồn tại được trên trái đất này của mình. Nhiều thiếu niên mới lớn, vì tính trẻ con ngu xuẩn, ganh tị với sức lực người lớn, thường cố sức nâng những quả tạ quá nặng so với bắp thịt và xương cốt của chúng, huênh hoang như các lực sĩ với những quả tạ hai pood.

Tôi cũng như vậy, theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng, bằng cả thể lực và tinh thần. Chỉ nhờ một sự ngẫu nhiên nào đấy mà tôi đã không chết hay tàn tật suốt đời vì cố gắng vô ích. Bởi không có gì hủy hoại con người một cách đáng sợ bằng tính cam chịu, bằng sự khuất phục trước những sức mạnh của ngoại cảnh.

Tuy nhiên, nếu không may giờ đây tôi tàn phế hay ngã xuống, trong giờ phút cuối cùng tôi có thể hãnh diện nói rằng suốt bốn chục năm trời có những người đã làm đủ mọi cách để bóp méo tâm hồn tôi, nhưng nỗ lực ngoan cố của họ không thành công lắm.

Ý muốn mãnh liệt thích nghịch ngợm, mua vui cho thiên hạ, bắt họ phải cười càng ngày càng choán lấy tôi. Tôi ngày một thành thạo, khéo kể chuyện và bắt chước điệu bộ các con buôn ở chợ Nizhny, mấy ông bần nông, các bà nông dân mua bán tượng thánh, gã quản lí lươn lẹo và những nhà thông thái ưa tranh cãi.

Mọi người trong xưởng đều cười rộ; anh em thợ hay bỏ việc để xem tôi biểu diễn, nhưng sau đó bao giờ bác Larionovich cũng khuyên tôi:

- Sau bữa tối cháu hãy biểu diễn thì hơn, kẻo làm cản trở công việc…

Sau khi “biểu diễn” xong, tôi cảm thấy nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng. Khoảng nửa giờ đến một giờ, đầu óc tôi trở nên thảnh thơi dễ chịu; nhưng sau đó hình như đầu tôi lại đầy những cái đinh nhỏ nhọn hoắt, chúng quấy rầy, khiêu khích không để tôi yên.

Xung quanh tôi như có sự rối rắm bẩn thỉu nào đó sôi lên sùng sục, tôi cảm tưởng mình đang bị rối lên trong đó.

Tôi nghĩ bụng: “Chẳng lẽ suốt đời như thế này ư? Ta sẽ sống như những con người này, sẽ không tìm thấy, không nhìn thấy cái gì tốt đẹp hơn ư?”

- Maksimovich ạ, sao dạo này cháu hay cáu thế? – Bác Jikharev vừa nói vừa chăm chú nhìn tôi.

Sitanov thường hỏi:

- Em làm sao thế?

Tôi không biết trả lời sao cả.

Cuộc sống đã ngang nhiên xóa bỏ một cách thô bạo khỏi tâm hồn tôi những bản năng tốt đẹp nhất, thay thế một cách trắng trợn bằng những điều ngu xuẩn phi lí. Tôi phẫn nộ và kiên trì chống lại sự cưỡng bức ấy. Tôi bơi trên cùng dòng sông với tất cả mọi người, nhưng đối với tôi nước có phần lạnh giá hơn và nó không giữ tôi dễ dàng như những người khác: Nhiều khi tôi thấy mình chìm nghỉm xuống một đáy sâu nào đó.

Mọi người đối xử với tôi ngày một tốt hơn: Họ không mắng tôi như mắng Pavel, không chế giễu tôi, gọi tôi bằng tên lót của cha để nhấn mạnh thái độ quý trọng. Tôi rất hài lòng với điều đó, nhưng tôi cũng khổ tâm khi thấy họ uống nhiều rượu vodka quá, thấy những lúc say rượu họ rất đáng ghét, thấy thái độ thô bỉ của họ với phụ nữ, mặc dù tôi hiểu rằng rượu vodka và đàn bà là trò tiêu khiển duy nhất trong cuộc sống của họ.

Tôi buồn rầu nhớ lại rằng ngay cả Natalya Kozlovsky thông minh và can đảm cũng gọi đàn bà là trò tiêu khiển.

Nhưng còn bà tôi thì sao? Còn Nữ hoàng Margot thì sao?

Tôi nhớ đến Nữ hoàng với một cảm giác gần như sợ hãi. Trong kí ức tôi bà như hư ảo, xa xăm, tựa như tôi đã gặp bà trong mộng.

Tôi bắt đầu nghĩ quá nhiều về phụ nữ và tự hỏi: Tại sao Chủ nhật tôi lại không đi tới chỗ mà tất cả mọi người đều tới? Đó không phải là đòi hỏi xác thịt – tôi khỏe mạnh và thường khó tính, nhưng đôi khi tôi khao khát đến điên cuồng được ôm một người thân yêu – một người thật thông minh và tinh tế – muốn nói rất lâu, rất cởi mở với người đó về những băn khoăn day dứt của tâm hồn mình như nói với một bà mẹ.

Tôi thèm muốn được như Pavel, đêm đêm nó kể với tôi mối tình của nó với cô hầu phòng ở nhà đối diện.

- Cậu này, thật là một chuyện buồn cười: Một tháng trước đây mình lấy tuyết ném cô ấy, mình không thích cô, nhưng bây giờ mỗi khi mình ngồi trên ghế nép chặt vào người cô, mình thấy không còn có ai đáng yêu quý hơn cô nữa!

- Cậu với cô ấy nói những chuyện gì?

- Dĩ nhiên là đủ mọi chuyện. Cô ấy kể cho mình về cuộc đời cô, mình cũng kể cho cô ấy về mình. Rồi chúng mình hôn nhau… Được cái là cô ấy rất ngay thật… Giá cậu biết cô ấy đáng yêu như thế nào!… Chà, cậu hút thuốc như một tay lính già ấy!

Tôi hút rất nhiều. Say thuốc lá thường làm dịu bớt những băn khoăn và cảm giác lo âu. Rất may là tôi ghê tởm mùi vị rượu vodka. Nhưng Pavel lại thích uống, và khi say rượu nó khóc lóc thảm thương:

- Tôi muốn đi về nhà, về nhà! Buông cho tôi đi về nhà…

Tôi nhớ là nó cũng mồ côi, bố mẹ nó đã mất từ lâu, anh chị em đều không có; mới tám tuổi đầu nó đã phải đi ở.

Với tâm trạng dằn vặt ấy, lại thêm tiếng gọi của mùa xuân đầy tươi mới, tôi quyết định sẽ làm việc trên tàu thủy và khi xuống Astrakhan sẽ chạy trốn sang Ba Tư.

Tôi không nhớ tại sao lại quyết định đến Ba Tư; có lẽ chỉ vì tôi rất thích các lái buôn Ba Tư ở hội chợ Nizhny Novgorod: Họ ngồi im như những bức tượng thần bằng đá, chìa bộ râu nhuộm ra nắng, điềm tĩnh hút ống điếu; mắt họ vừa to vừa đen, dường như am hiểu mọi thứ trên đời.

Đáng lẽ tôi đã bỏ đi đến chân trời góc bể, nhưng trong tuần lễ Phục sinh, nhân lúc một số thợ về quê thăm nhà, số còn lại la cà trong các quán rượu, vào một ngày nắng ráo, đang lúc dạo chơi ở cánh đồng bên sông Oka, tôi gặp cậu chủ, cháu của bà ngoại tôi.

Cậu mặc áo khoác mỏng màu xám, tay thọc vào túi quần, miệng ngậm điếu thuốc lá, đầu đội mũ hất ngược ra sau gáy; khuôn mặt nhã nhặn của cậu như mỉm cười thân mật với tôi. Cậu có cái vẻ dễ thương của một người tự do, vui vẻ. Ngoài hai người chúng tôi, không có ai trên đồng cả.

- A, Peskov, Chúa đã sống lại! Chúc mừng cháu!…

Chúc mừng nhau xong, cậu hỏi tôi sống ra sao; tôi thành thật kể với cậu rằng xưởng, thành phố, và mọi thứ nói chung đều khiến tôi chán ngán và tôi đã quyết định đi Ba Tư.

- Không nên! – Cậu nói, vẻ nghiêm trang. – Đi Ba Tư làm khỉ gì kia chứ? Này anh bạn, tôi biết chuyện đó lắm; hồi trạc tuổi anh tôi cũng thích bay nhảy khắp bốn phương trời.

Tôi thích lối nói nhẹ nhàng phóng khoáng như vậy. Trong cậu có điều gì lôi cuốn, tươi xanh như trời xuân. Từ đầu đến chân, trông cậu rất ngang tàng.

- Hút thuốc không? – Cậu vừa hỏi vừa chìa cho tôi hộp đựng thuốc lá bằng bạc có những điếu thuốc kếch xù.

Sự mời mọc đó hoàn toàn chinh phục tôi.

- Thế này nhé, Peskov, anh lại đến ở với tôi! – Cậu đề nghị. – Này anh bạn, năm nay tôi đã nhận thầu khoảng bốn mươi ngàn rúp những công trình kiến trúc ở hội chợ, anh có hiểu không? Tôi sẽ phái anh tới hội chợ làm việc, giống như một người đốc công[152] của tôi. Anh sẽ nhận vật liệu, trông nom cho công việc được tiến hành đúng lúc đúng chỗ, và đừng để đám thợ lấy cắp, thế có được không? Tiền công mỗi tháng năm rúp, ngoài ra mỗi bữa ăn trưa được trả thêm năm kopek! Mấy mụ đàn bà không dính dáng gì tới anh cả; sáng sớm anh đi, tối trở về, phớt tỉnh họ đi! Nhưng anh chớ có nói với họ chuyện chúng ta gặp nhau đấy, đến Chủ nhật này, nhân ngày lễ Thánh Foma, anh cứ tới, như thế nhé!

Chúng tôi chia tay nhau như những người bạn. Lúc tạm biệt, cậu bắt tay tôi và thậm chí lúc tôi đi xa rồi cậu vẫn còn vẫy mũ, vẻ niềm nở.

Về xưởng, tôi nói với mọi người rằng tôi sẽ nghỉ việc, lúc đầu mọi người luyến tiếc khiến tôi khá cảm động; người tỏ vẻ lo ngại nhất là Pavel.

- Cậu hãy suy nghĩ kĩ đi. – Nó nói, vẻ trách móc. – Bọn mình sống với nhau đã quen rồi, cậu làm sao có thể sống nổi với bọn bần nông phức tạp, bọn thợ mộc thợ nề ấy… Chao ôi, cậu quên câu tục ngữ “Cha cố đời nào lại đi làm thằng nhỏ” rồi à?

Bác Jikharev lẩm bẩm:

- Cá tìm đến chỗ sâu, còn thanh niên thường tìm đến chỗ khó khăn nhất…

Buổi chia tay tôi do xưởng tổ chức vừa buồn vừa nặng nề.

- Tất nhiên là cái gì cũng nên trải nghiệm. – Bác Jikharev nói, mặt bác vàng khè vì nôn nao sau khi uống rượu. – Nhưng tốt hơn cả là nên bám thật chắc ngay tức khắc vào một cái gì đó…

- Và cứ bám như thế suốt đời. – Bác Larionich khẽ bổ sung.

Tôi cảm thấy họ nói với vẻ gắng gượng và hình như chỉ cố làm cho tròn bổn phận. Sợi chỉ thắt chặt tôi với họ dường như đã mục nát và đột nhiên bị dứt đứt.

Lão Golovev say rượu trở mình trên gác lửng, thở khò khè:

- Tôi muốn tất cả bị bỏ tù hết! Tôi biết một bí mật! Ở đây những ai tin vào Chúa? A ha-a-a!

Giống như mọi khi, những bức tượng thánh vẽ dở chưa có mặt mũi đứng dựa vào tường, mấy quả cầu thủy tinh dính chặt vào trần nhà. Đã từ lâu người ta không làm việc dưới ánh đèn, những quả cầu ấy không được dùng đến nên bị phủ một lớp bồ hóng và bụi xám ngắt. Mọi thứ xung quanh đã in sâu trong trí nhớ đến nỗi nhắm mắt lại tôi vẫn nhìn thấy trong bóng tối toàn bộ quang cảnh hầm nhà, những cái bàn, mấy hộp sơn trên bệ cửa sổ, các chùm bút lông có cán, những bức tượng thánh, thùng nước rác ở góc nhà, cái chậu rửa tay bằng đồng trông giống mũ sắt của lính cứu hỏa. Và cả cái chân trần trụi của lão Golovev buông thõng từ trên gác lửng xuống, xanh tái như chân người chết đuối.

Tôi muốn rời khỏi nơi đây thật mau, nhưng ở Nga người ta thích kéo dài những giây phút buồn bã; phút giây tiễn biệt như thể lễ an táng cho người chết.

Bác Jikharev nhíu mày, nói với tôi:

- Cuốn sách Con quỷ ấy bác không thể trả cháu đâu, nếu cần bác sẽ trả cho cháu hai mươi kopek nhé?

Cuốn sách đó là của riêng tôi, ông già đội trưởng đội cứu hỏa đã tặng tôi, tôi rất tiếc phải nhượng cuốn “Lermontov” cho người khác. Tôi hơi có vẻ bực tức, từ chối lấy tiền. Bác Jikharev bình tĩnh nhét đồng hai mươi kopek vào ví và tuyên bố dứt khoát:

- Có thế nào thì bác cũng không trả cháu cuốn sách này đâu. Cuốn sách này không dành cho cháu, đó là một cuốn sách mà hễ đem theo mình ít lâu là có thể phạm tội ngay…

- Cuốn sách này cháu thấy người ta có bán ở hiệu đấy!

Nhưng bác khẩn khoản nói với tôi:

- Cái đó không lạ, ở hiệu ngay cả súng lục cũng có bán…

Thế là bác không trả “Lermontov” cho tôi.

Khi lên gác để từ biệt bà chủ, tôi bỗng gặp người cháu gái bà ở phòng ngoài, cô ả hỏi:

- Nghe nói anh sắp đi phải không?

- Phải.

- Nếu anh không đi thì cũng bị đuổi thôi. – Cô ả nói với tôi, không được nhã nhặn lắm nhưng giọng rất chân thành.

Còn bà chủ say rượu thì bảo:

- Thôi từ biệt nhé, cầu Chúa phù hộ cho cháu! Cháu là một thằng bé hư và hỗn láo! Mặc dù ta chưa tận mắt nhìn thấy cháu làm gì xấu nhưng mọi người đều nói cháu là một đứa bé hư!

Rồi bỗng nhiên bà bật khóc, nói với giọng nghẹn ngào:

- Giá mà chồng bà còn sống, ông ấy là một người dịu dàng, có tấm lòng đáng quý, nhất định ông chỉ chửi mắng hoặc bợp gáy cháu thôi, nhưng vẫn giữ cháu lại, không đuổi đi! Còn bây giờ mọi chuyện khác trước, đụng một tí là đuổi luôn! Chà, cháu định bỏ đi đâu bây giờ, nương tựa vào đâu bây giờ?

Chú thích:

152] Gorky trở lại làm việc cho người cậu từ mùa xuân năm 1883 đến mùa xuân năm 1884.